|   | 
		
		
			- 
			Châu Đốc Năm Xưa
 
			- 
			ĐỖ THỦ KHOA
 
			- 
			* CHÂU ĐỐC QUA CÁC THỜI ĐẠI:Châu Đốc 
			nằm trong dăy đất Tầm Phong Long của Thủy Chân Lạp (Cao Miên sau này) 
			bao gồm: vùng Thất Sơn, vùng đồng bằng Châu Đốc, Long Xuyên, một 
			phần của Sa Đéc, Cao Lănh và Cần Thơ. Nơi đây là phần đất sinh cơ 
			lập nghiệp của dân Việt, Miên, Lào, Tàu và Chà (theo bia Vĩnh Tế Sơn).
 
			- 
			Đến năm 1757, Phiên Vương Chân Lạp tiến dâng đất này cho Chúa Nguyễn 
			Phúc Khoát để tạ ơn che chở đặt lên ngôi báu (do tài ngoại giao và 
			bảo cử của quan Tổng Binh Mạc Thiên Tứ trấn Hà Tiên). Được đất mới, 
			Chúa Vơ Vương sai Thống Suất Trương Phúc An và Tham Mưu Nguyễn Cư 
			Trinh (theo kế sách Tầm Thực của Cư Trinh) đặt 3 đạo:
 
			- 
			- Tân Châu đạo ở Tiền Giang.
 
			- 
			- Châu Đốc đạo (đóng quân tại bến An Giang sau này, tức Châu Đốc 
			hiện nay. Phụ lục với đạo Châu Đốc có quân binh của dinh Long Hồ sai 
			phái và các bảo Châu Phú, Châu Giang... Cùng liên lạc với đồn binh 
			tại Tịnh Biên để pḥng ngự vùng Thất Sơn và 2 sông Tiền, Hậu).
 
			- 
			- Đông Khẩu đạo ở Sa Đéc.
 
			- 
			Đồng thời, quan Tổng Binh Mạc Thiên Tứ xin Chúa Nguyễn cho lập 2 đạo 
			của Hà Tiên là:
 
			- 
			- Kiên Giang đạo ở Rạch Giá.
 
			- 
			- Long Xuyên đạo ở Cà Mau (đến giữa triều Minh Mạng đạo này trở 
			thành huyện Long Xuyên tại Cà Mau).
 
			- 
			Đạo là khu vực quân sự và hành chánh của 1 vùng, có đồn trại để cai 
			trị 1 vùng.
 
			- 
			 
 
			
			- 
			 
 
			- 
			 
 
			- 
			Đến năm Kỷ Hợi (1779) Chúa Nguyễn cho dời dinh Long Hồ về chợ Vĩnh 
			Long ngày nay và đặt quan cai quản đất mới Tầm Phong Long.
 
			- 
			Triều Gia Long 1805, đất Tầm Phong Long thống thuộc Vĩnh Trấn. Đến 
			năm 1808, đổi tên là trấn Vĩnh Thanh (quan Đô Thống Thoại Ngọc Hầu 
			là một trong những vị trấn thủ từ năm 1817 - Đinh Sửu, Gia Long thứ 
			16).
 
			- 
			Năm Gia Long thứ 15, Bính Tư (1816) Vua giáng dụ đấp đồn Châu Đốc 
			(do Trấn Thủ Lưu Phước Tường chỉ huy) theo mô h́nh lục giác có hào 
			sâu thành cao bằng đá ong, vôi cát, mặt tiền hướng về bờ sông Châu 
			Đốc (vị trí đồn và tỉnh thần An Giang sau này là thành lính tập (CB) 
			đời Pháp thuộc, sau này là trại Thoại Ngọc Hầu, thuộc tiểu khu Châu 
			Đốc). Tỉnh lỵ An Giang và các lỵ sở hành chánh trực thuộc từ thành 
			lính tập chạy dài lên tiệm rượu Vĩnh Phong Long sau này.
 
			- 
			Năm Gia Long thứ 18 Kỷ Măo (1819) Vua giáng dụ đào kinh từ phía Tây 
			đồn Châu Đốc đến Giang Thành Hà Tiên, hoàn tất trong 5 năm. Họa đồ 
			dâng lên, Vua Minh Mạng vui mừng, ban tên đất là “Châu Đốc Tân 
			Cương” đồng thời mang tên kinh là Vĩnh Tế Hà, được chạm khắc vào Cao 
			Đĩnh trước nhà Thế Miếu ở cố đô Huế (chỉ huy đào kinh do Đô Thống 
			Thoại Ngọc Hầu; phụ lực có Thống Chế Nguyễn Văn Tuyên và Diều Bát 
			Nguyễn Văn Tồn. Nhưng công tiếp tế lương thảo, nước uống và dụng cụ 
			đào kinh lại do bà Châu Thị Vĩnh Tế, chánh thất phu nhơn của quan Đô 
			Thống Thoại Ngọc Hầu. Nên Vua lấy tên bà đặt tên kinh và đổi núi Sam 
			thành Vĩnh Tế Sơn. Đồng thời ban vị hiệu cho bà là Nhàn Tĩnh phu 
			nhơn.
 
			- 
			Triều Minh Mạng 1832, sau khi Đức Tổng Trấn Quận Công Lê Tả Quân qui 
			thần, Vua ra lệnh dẹp thành Gia Định, các Trấn đổi thành Tỉnh, trực 
			thuộc triều đ́nh.
 
			- 
			Đến 1833, dâng chỉ dụ triệt hạ phía Dông đồn Châu Đốc để xây cất 
			tỉnh thành và các cơ sở hành chánh quân sự của tỉnh An Giang. Tỉnh 
			này lúc mới lập chỉ có 2 phủ và 4 huyện.
 
			- 
			- Phủ Tuy Biên có 2 huyện: Tây Xuyên (vùng Châu Đốc) và Phong Phú.
 
			- 
			- Phủ Tân Thành có 2 huyện: Đông Xuyên (vùng Long Xuyên) và huyện 
			Vĩnh An (Sa Đéc).
 
			- 
			Ông Nguyễn Tri Phương và Doăn Uẩn là những vị Tổng Đốc An Hà triều 
			Thiệu Trị.
 
			- 
			Đến đời Thiệu Trị và Tự Đức, tỉnh An Giang được thêm những phần đất 
			của Hà Tiên (gần vùng Bảy Núi Châu Đốc) và những phần đất Cần Thơ, 
			Sóc Trăng và Bạc Liêu sau này.
 
			- 
			Trái 2 triều Vua này, An Giang có 3 phủ và 10 huyện chạy dài từ biên 
			giới Việt Miên (vùng Châu Đốc - Cao Lănh) đến tận bờ biển Nam Hải. 
			So với 3 tỉnh Miền Tây, An Giang là đất lớn nhất, kế đến Hà Tiên và 
			nhỏ nhất là Vĩnh Long. Tuy nhiên, Vĩnh Long là vùng đất thuộc, toàn 
			thể đất đai đều được khai thác, ruộng vườn rất là thạnh mậu (tiếng 
			xưa c̣n lưu lại Vĩnh Long là miệt vườn).
 
			- 
			Sau khi 3 tỉnh miền Đông bị mất, quan Kinh Lược Đại Thần Phan Thanh 
			Giản phụng chỉ triều đ́nh cố thủ 3 tỉnh miền Tây, nên Người dựng tại 
			Vĩnh Long một Văn Thánh Miếu và tại tỉnh thành An Giang (nên nhớ là 
			Châu Đốc sau này) một trường thi hương để thắp sáng nền văn minh, 
			văn hóa Khổng Mạnh và đáp ứng việc học hành khoa cử của con dân 3 
			tỉnh c̣n lại.
 
			- 
			Đến năm 1867 (ngày 20 tháng 5 Đinh Măo. Năm Tự Đức thứ 20) quân Pháp 
			tiến chiếm tỉnh thành An Giang do Trung Tá Galey cầm quân và 5 ngày 
			sau đó, tỉnh thành Hà Tiên cũng cùng chung số phận.
 
			- 
			Sau khi chiếm trọn tỉnh An Giang, chính quyền thuộc địa đă chia năm 
			xẻ bảy tỉnh này ra làm nhiều tỉnh nhỏ gồm: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa 
			Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
 
			- 
			Dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, do sắc lệnh 143/VN ngày 22/10/1956: 2 
			tỉnh đời Tây thuộc Châu Đốc, Long Xuyên bị nhập lại gọi An Giang, 
			nhưng tỉnh lỵ đặt tại Long Xuyên (nơi nhau rún của đương triều Phó 
			TT Nguyễn Ngọc Thơ). Thời này nghe nhiều vị cố lăo ở Châu Đốc kể lại 
			và đánh dấu hỏi thật lớn: Tại sao chánh phủ Cộng Ḥa không đặt tỉnh 
			lỵ tại Châu Đốc, v́ nơi đây là vùng đất xưa, rất là cao ráo, không 
			bị ngập lụt. Xưa, vua quan nhà Nguyễn rất là sáng suốt đặt chánh 
			quyền cấp Tỉnh tại đây để pḥng ngự vùng biên giới ngăn ngừa quân 
			xâm lược Miên, Xiêm. Hơn nữa Châu Đốc là đất văn học, v́ xưa có 
			trường thi Hương, lại tích tụ văn minh, văn hóa Việt Nam, Miên, Lào, 
			Chà và di dân Trung Hoa, lại trù phú thạnh mậu về nông lâm thủy sản, 
			gia cầm gia súc cùng nền kinh tế xuất nhập cảng nữa.
 
			- 
			Sự xáp nhập này đưa công nho 50 xă của vùng Châu Đốc về phát triển 
			cho Long Xuyên cho đến 9 năm sau. Năm 1964 Châu Đốc được trả lại 
			thành tỉnh (thời Đệ Nhị Cộng Ḥa).
 
			- 
			* NHỮNG TỪ MIẾU & DI TÍCH C̉N LƯU LẠI TẠI CHÂU 
			ĐỐC— Đền Thờ Lễ Công (tức 
			Đ́nh Thần Châu Phú hiện nay).Xưa do quan Trấn Thủ Thoại Ngọc Hầu tạo 
			lập để thờ phụng Đức Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, vị 
			đại khai quốc công thần đời Chúa Nguyễn Phúc Chu đă có kỳ công b́nh 
			Chiêm Thành (vùng B́nh Thuận, Khánh Ḥa 1613), đặt nền hành chánh 
			đầu tiên tại Nam phần (Biên Ḥa, Gia Định năm 1698). Sau cùng kéo 
			quân binh lên tận đất Miên để dẹp giặc và phủ dụ dân Miên 1699-1700. 
			Ông mất năm 1700, di hài được chôn cất tại cù lao Phố (Biên Ḥa). 
			Ông là vị công thần được nhiều nơi thờ nhất. Điển h́nh tùng tự tại 
			nhà Thái Miếu Cố Đô Huế, lăng mộ tại Biên Ḥa, đ́nh Minh Hương Gia 
			Thạnh Chợ Lớn, Rạch Gầm Mỹ Tho (nơi ông mất), vùng Cù Lao Ông Chưởng 
			và Châu Thành Long Xuyên, chợ Châu Đốc và các xă lân cận. Xưa, ông 
			có ân và uy với dân Miên nên trên dầu Cồn trước chợ Nam Vang c̣n đền 
			thờ để tưởng nhớ ông. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ. Mục Từ 
			Miếu).
 
			- 
			— Miếu Thành Hoàng (Miếu 
			Ông Hàn ngang trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc). Miễu tạo 
			lập năm Thiệu Trị, có lúc dời lên phía Tây tỉnh thành thuộc thôn 
			Vĩnh Ngươn. Sau triều Tự Đức, dời lại chỗ cũ phía Đông tỉnh thành 
			thờ Đương Cảnh Bổn Thổ Thành Hoàng (vị thần bảo hộ cho tỉnh thành An 
			Giang xưa). (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu).
 
			- 
			— Chùa Tây An: Trúc 
			tạo năm 1847 do quan Tổng Đốc An Hà Trấn Tây Mưu Lược Tướng tước 
			hiệu Tuy Tĩnh Bá Doăn Uẩn (gốc người Bắc) Trùng kiến Tây An. (Đại 
			Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu).
 
			- 
			— Miếu Âm Nhơn Cô Hồn (đối 
			diện Miếu Thành Hoàng) Xưa để thờ tự “Hớn Thanh Minh Thổ Vô Tự Oan 
			Hồn” đă tử trận hoặc tử nạn. Nay bị dẹp để làm trụ sở Hội Hồng Thập 
			Tự và chùa Viên Quang. Nhưng c̣n lưu lại Cây Sộp cành lá xum xuê, ba 
			bốn người ôm không giáp để lưu di tích miếu xưa.
 
			- 
			— Chùa Sắc Tứ Châu Long: Do 
			bà Châu Thị Vĩnh Tế tạo lập để phụng thờ những anh hồn Châu Đốc b́nh 
			tặc tướng sĩ trận vong và vô tự oan hồn tử nạn trong công tác đào 
			kinh Vĩnh Tế. Chùa này tọa lạc trong ṿng rào dinh Tỉnh Trưởng Châu 
			Đốc. Đời Tây dời về ấp Châu Long như hiện nay. Trong chùa c̣n lưu 
			giữ bản sắc do vua Tự Đức ban cấp.
 
			- 
			— Công sở xă Châu Phú: Trước 
			kia nằm tại đ́nh Châu Phú hiện giờ. V́ đ́nh Châu Phú di chuyển từ 
			bên hông nhà trường về địa điểm hiện nay, do đó công sở mới dời về 
			phía trong Đài Chiến Sĩ. Lúc trước c̣n có tên là Nhà Vuông, được xây 
			cất nguy nga, đồ sộ. 2 tầng nửa Âu, nửa Á. Đă bị hủy đi sau Tết Mậu 
			Thân.
 
			- 
			— Bồ Đề Đạo Tràng: Nơi 
			có bảo tháp thờ Phật và cây bồ đề con của cây bồ đề Bảo Thọ nơi Đức 
			Phật Thích Ca thành đạo tại Ấn Độ. Công đức tạo lập này là ông Đốc 
			Học Phạm Ngọc Đa và cố Tỉnh Trưởng Đặng Văn Lư. (Vị trước xin cây bồ 
			đề từ chính phủ Ấn Độ. Vị sau thuận cho lập tại trung tâm chợ Châu 
			Đốc từ năm 1952, nơi đây là địa điểm hành hương của Phật Tử toàn 
			quốc khi đến Châu Đốc hành hương).
 
			- 
			— Lăng Mộ Thoại Ngọc Hầu: Vị 
			thượng quan 2 triều Gia Long, Minh Mạng, có lúc làm trấn thủ Vĩnh 
			Thanh, có lúc làm bảo hộ Cao Miên; án thủ đồn Châu Đốc và quản trấn 
			Hà Tiên. Xưa, từng tùng vong theo Chúa Nguyễn Ánh qua Xiêm, đồng 
			thời làm nhà ngoại giao với các nước Xiêm, Lào, Miên để giúp Chúa 
			Nguyễn thống nhất đất nước. Có công đào kinh Thoại Hà (Long Xuyên - 
			Rạch Giá), kinh Vĩnh Tế (Châu Đốc - Hà Tiên), mở mang vùng Cù Lao 
			Dài (Vĩnh Long), vùng núi Sập (Long Xuyên), vùng Châu Đốc và các xă 
			hai bên kinh Vĩnh Tế. Lăng Mộ rất nguy nga tráng lệ, được tô đắp nét 
			chân nét thảo. Nhờ trong vùng an ninh nên khu lăng lộ của ông và hai 
			bà cùng thân quyến, tùy tùng... hơn 100 ngôi mộ được lưu giữ tốt đẹp 
			cho đến ngày hôm nay.
 
			- 
			— Miếu Bà Chúa Xứ: Nơi 
			thờ vị thánh mẫu, hàng năm làm lễ cúng rất long trọng từ 23 đến 27 
			tháng 4 âm lịch.
 
			- 
			 
 
			- 
			* VÀI LỜI MINH XÁC:
 
			- 
			V́ những bài sưu khảo trước đây có lắm điều sai lạc với tỉnh nhà, 
			chúng tôi xin xác nhận và tuần tự liệt kê dưới đây:
 
			- 
			- Tỉnh thành An Giang xưa được kiến tạo tại Châu Đốc, nay c̣n di 
			tích được Bộ Văn Hóa Giáo Dục dưới thời đệ nhất, đệ nhị Cộng Ḥa 
			công nhận. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Tỉnh An Giang - Mục 
			Cổ Tích).
 
			- 
			- Đức Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, trước khi kéo quân 
			lên b́nh định đất Miên, ông là quan Trấn Thủ trấn B́nh Khương, do đó 
			Tổng Hành Dinh của ông đặt tại B́nh Khương. Vùng Cù Lao Ông Chưởng 
			chỉ là nơi ông trú quân một thời gian ngắn (v́ ông và toàn thể quân 
			binh đều bị bịnh dịch). Sau mấy ngày di chuyển về Rạch Gầm (Định 
			Tường) th́ ông mất. (Theo Thực Lục Tiên Biên).
 
			- 
			- Chùa Tây An Châu Đốc: Hành tŕ theo phái Lâm Tế từ lâu. Đến năm 
			1847, ông Tổng Đốc Doăn Uẩn tạo dựng lại. C̣n Phật Thầy chỉ trú ngụ 
			và nương náu một thời gian ngắn rồi thị tịch. Xác chôn cạnh chùa (do 
			đó Phật Thầy không là người lập chùa Tây An). (Theo Đại Nam Nhất 
			Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu và Thất Sơn Mầu Nhiệm của Nguyễn 
			Văn Hầu.
 
			- 
			- Châu Đốc mất tỉnh trong 9 năm thời Đệ I Cộng Ḥa, có nghĩa là đầu 
			năo của ṭa Hành Chánh mất, nhưng địa danh vẫn c̣n, vả lại Châu Đốc 
			là chữ nho phiên âm ra, chính v́ thế, hồi Đệ I Cộng Ḥa không có sửa 
			Châu Đốc đổi lại thành Châu Phú (Xin nhớ Châu Phú là tên quận Châu 
			Thành của Châu Đốc mà thôi). Đầu đời Đệ II Cộng Ḥa 1964, chính phủ 
			đồng loạt trả lại các tỉnh đă bị sáp nhập toàn quốc, không riêng v́ 
			tỉnh Châu Đốc, cho nên có người nói nhân sĩ Châu Đốc thỉnh cầu tái 
			lập tỉnh vào năm 1964 là sai.
 
			- 
			Mặc dù mất tỉnh trong 9 năm, Châu Đốc vẫn c̣n giữ 1 ty Bưu Điện, ty 
			Trung Gian Ngân Khố (tuy nhiên ty này quản trị số tiền c̣n nhiều hơn 
			ở tỉnh An Giang thời đó), 1 chợ phiên trâu ḅ (hàng tháng hoặc 110 
			ngày họp mua bán 1 lần), 2 ty Chánh Thu Quan Thuế (1 tại Châu Đốc, 1 
			tại Tân Châu). Trong khi tại tỉnh An Giang chỉ có 1 ty phụ thu quan 
			thuế mà thôi. Nói về thủy sản, Châu Đốc là trên nguồn so với các 
			tỉnh phía dưới, do đó thu hoạch thủy sản phải nhiều hơn. Riêng gia 
			cầm gia súc như ḅ, trâu, heo, gà, vịt... nhờ nước bạn tiếp sức nên 
			hàng ngày biết bao nhiêu xe hàng chuyên chở xuất tỉnh (lúc đó Châu 
			Đốc được trung ương cấp giấy ban khen là 1 địa phương cung cấp thực 
			phẩm cho Sài G̣n nhiều nhất).
 
			- 
			Ngoài ra những dược liệu ở Châu Đốc phải kể là nhiều nhất, xuất phát 
			từ Bảy Núi trùng điệp và ngọn núi Tà Lơn của Cao Miên cung cấp.
 
			- 
			Ngoài ra c̣n biết bao sai sót khác, nhưng chúng tôi để công luận suy 
			xét.
 
			- 
			 
 
			- 
			* Tài liệu tham khảo:
 
			- 
			- Đại Nam Nhất Thống Chí do Tu Trai Nguyễn Tạo dịch.
 
			- 
			- Thoại Ngọc Hầu khai phá miền Hậu Giang và Thất Sơn mầu nhiệm do 
			Giáo Sư Nguyễn Văn Hầu (Tín đồ Phật Giáo Ḥa Hảo).
 
			- 
			- Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam.
 
			- 
			- Đất Việt, Trời Nam của Thái Văn Kiểm.
 
			- 
			- Tài liệu Việt Tấn Xă (Người Việt, Đất Việt của Toan Ánh).
 
		 
		
		- Tiểu sử Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu 
		Nguyễn Hữu Cảnh tại Đ́nh Thần Châu Phú Châu Đốc. 
		
		- Việt Nam Phật Giáo Sử của Thượng Tọa 
		Mật Thể. 
		
		- Lời thuật của các vị nhân sĩ trong 
		ban Bảo Tồn Cổ Tích của tỉnh Châu Đốc (Ông Thông Phán Đặng Văn Giáp). 
		  Nguồn: saigontimesusa  |