Lăng Hoàng Gia thuộc giồng Sơn qui, xă Long Hưng, thị 
			xă G̣ Công. Đường đi đến di tích bằng ôtô rất thuận tiện.   
			
			Lăng Hoàng Gia bao gồm mộ và nhà thờ ḍng họ Phạm 
			Đăng là thích lư của triều Nguyễn. Ḍng họ Phạm Đăng đến đời thứ ba 
			có ông Phạm Đăng Hưng làm quan dưới hai triều vua Gia Long và Minh 
			Mạng. Ông chính là cha của Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, là ông ngoại của 
			vua Tự Đức. Năm 1826, triều đ́nh nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây đền 
			thờ và lăng mộ ḍng họ Phạm Đăng  gọi là Lăng Hoàng Gia.           
			
			Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 là người thông minh, 
			tuấn tú. Năm 1794 ông chuẩn bị thi tứ trường th́ bị bệnh nên phải 
			trở về quê làm ruộng. Nhưng v́ nổi tiếng là người văn tài lỗi lạc và 
			hiền đức nên được bổ làm "Lễ sinh nội phủ của triều Nguyễn" (thời 
			vua Gia Long). Ông được mọi người biết đến qua nhân vật Ba Bị v́ "đi 
			đâu ông cũng mang theo ba bị ngũ cốc để phân phát cho dân nghèo". 
			Trăi qua nhiều lần thăng gián v́ bị gièm pha, cuối cùng ông đă được 
			thăng chức "Quốc Sử Quán Tổng tài" năm Minh mạng thứ 2 (1821). Năm 
			1825, Phạm Đăng hưng bị bệnh mất tại Huế nhằm ngày 14 tháng 6 (AL), 
			được vua Minh Mạng thăng hàm "Vinh Lộc Đại Phu Trụ Quốc Hiệp Biên 
			Đại Học Sĩ Thuỵ Trung Nhă" và đưa về an táng tại Sơn Qui. Năm 1849, 
			vua Tự Đức gia tặng "Đặc Tiến Kim tử Vinh Lộc Đại Phu Thái bảo cần 
			Chánh Điện đại Học Sĩ Tước Đức Quốc Công". Từ đó, mọi người gọi ông 
			là Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.
			
			Một năm sau khi Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng mất tức 
			năm 1826, triều đ́nh nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây nhà thờ và lăng 
			mộ ḍng họ Phạm Đăng đúng theo kiến trúc phong thuỷ dành cho lăng 
			tẩm vua quan lúc bấy giờ. Ngoài cùng là La Thành, giới hạn khuôn 
			viên Lăng. Bên trong là Sân Chầu, với nhà Hành Lễ bên phải, nơi để 
			dành cho mọi đến viếng Lăng. Sâu hơn nữa, Nhà Bia mà phạm vi được 
			qui định bởi Thành Bao h́nh cung, mở rộng thêm nhờ hai cung Thành 
			bao ở hai đầu. Khu vực này dành riêng cho thân tộc và vua chúa vào 
			viếng lễ. Cấu trúc nền dốc từ trong ra ngoài, cung ranh giới Thành 
			Bao thể hiện rơ tư tưởng phân chia giai cấp của chế độ phong kiến 
			thời bấy giờ. Với phù điêu, những chạm trổ trên Mộ Bia, những long, 
			lân, sư biểu tượng của giai cấp vua quan nơi Nhà Bia khẳng định uy 
			quyền người đă khuất. Hiện nay tại Lăng có đến hai nhà bia, với lư 
			do sau:
			
			- Nhà Bia phía bên phải được làm vào năm 1849 bằng đá 
			cẩm thạch trắng (đá Non Nước ở Đà Nẳng). Nhưng khi di chuyển từ Huế 
			vào đến Sài G̣n bị Pháp lấy đem vào đất Thánh Tây Mạc Đỉnh Chi  làm 
			mộ bia cho Đại Uư Berbê vừa bị nghĩa quân Trương Định bắn chết. Năm 
			1999 tấm bia này đă được chuyển về đây.
			
			- Nhà Bia bên trái là bia do vua Thành Thái cho làm 
			lại bằng đá hoa cương (đá Ganis) năm 1899. Nội dung cũng giống như 
			tấm bia ban đầu là ghi lại công trạng của Đức Quốc Công Phạm Đăng 
			Hưng và ḍng họ Phạm ở G̣ Công là "Thích Lư của triều Nguyễn".
			
			Cùng nằm trên khuôn viên Lăng c̣n có hệ thống mộ ḍng 
			họ Phạm Đăng được chôn theo một trục dài, toàn bộ đều làm bằng hồ ô 
			dước, bao bọc chung quanh bằng một lớp tường dày và cao 90cm, các 
			ngôi mộ tổ bố cục đơn giản theo h́nh vuông hoặc chử nhật).
			
			Cách Lăng 30m về bên phải  là nhà thờ ḍng họ Phạm 
			Đăng:
			
			- Gian giữa là bàn thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng.
			
			- Gian tả (trái) thờ Phước An Hầu Phạm Đăng Long, cha 
			của Phạm Đăng Hưng.
			
			- Gian tả ngoài thờ Mỹ Khá tử Phạm Đăng Tiên, ông cố 
			Phạm Đăng Hưng.
			
			- Gian hữu thờ B́nh Thạnh Bá Phạm Đăng Danh, ông nội 
			Phạm Đăng Hưng.
			
			- Gian hữu ngoài thờ Thiềm Sư Phủ Phạm Đăng Khoá, ông 
			sơ Phạm Đăng Hưng.
			
			Nhà thờ được kiến tạo năm 1888 thời vua Thành Thái và 
			năm 1921 thời vua Khải Định. Đây cũng là lúc nước ta chịu 30 năm 
			thống trị của thực dân Pháp. Do vậy, kiến trúc nghệ thuật cũng bị 
			ảnh hưởng không ít những vẫn giữ kiểu nhà ba gian đậm nét Việt Nam.
			
			Tóm lại, Lăng Hoàng Gia là một di tích lịch sử văn 
			hoá có ư nghĩa quan trọng đối với sự h́nh thành và phát triển của 
			Nam Bộ nói chung và G̣ Công nói riêng. V́ Phạm Đăng Hưng và ḍng họ 
			của Ông là những người vào đây lập nghiệp từ đầu thế kỷ XVII (c̣n mộ 
			bốn đời Phạm Đăng Hưng tại Sơn Qui.
			
			Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một công tŕnh kiến 
			trúc nghệ thuật hài hoà giữa Âu và Á nhưng vẫn mang đậm nét truyền 
			thống dân tộc được thể hiện qua các măng chạm khắc trong nhà thờ và 
			trên lăng mộ.
			
			Di tích Lăng Hoàng Gia, được Bộ Văn hóa-Thông tin 
			(nay là Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận di tích cấp quốc 
			gia năm 1992./.
			
			Các h́nh ảnh về di tích lịch sử dân tộc Lăng 
			Hoàng gia
			
			
				Sở văn hóa, Thể thao 
				và Du lịch