|   | 
		
		
			
				
					- 
					Miền Thôn Dã 
 
					- 
					NGUYỄN VIẾT TÂN
 
					- 
					 
 
					- 
					Long Xuyên không phải là nơi tôi 
					được sinh ra, nhưng mỗi lần nghe bản nhạc Giòng An Giang:
 
					- 
					- Giòng An Giang sông sâu sóng 
					biếc
 
					- 
					Giòng An Giang cây xanh lá 
					thắm
 
					- 
					Lả lưới về qua Thất Sơn
 
					- 
					Châu Đốc giòng sông uốn quanh
 
					- 
					Soi bóng Tiền Giang Cửu 
					Long...
 
					
						 - 
						 
 
					
					- 
					Là tôi lại nhớ đến miền đất hiền 
					hoà ấy.
 
					
					- 
					Từ Bắc Vàm Cống đi lên tới gần 
					chợ Long Xuyên, có con đường nhỏ tẽ vô bờ sông lớn là tới 
					nhà ông già nuôi tôi . Căn nhà màu xanh, có sàn cao để chống 
					mùa nước nổi, có hàng mận tốt tươi trái xanh đỏ lúc lỉu mỗi 
					độ hè sang, có cây mít đặc biệt trái không chịu nằm trên 
					cành, mà xếp đầy dưới đất như một bày heo con nằm bên vú mẹ.
 
					- 
					Ở đây người ta làm nghề thủ cộng 
					nghệ, chế tạo tử cây đinh, leng, xẻng, búa và nhiều nhứt là 
					nghề đúc nhôm. Người ta thường gọi ông già nuôi tôi là ông 
					Tư Chưn vịt, không phải cùng ông như cẳng vịt hay đi lạch 
					bạch như vịt bầu đâu, mà là bởi vì ổng chuyên đúc Chưn vịt 
					chạy máy ghe tàu. Sau này có chuyển đúc piston nữa nhưng cái 
					tên ông Tư Chưn Vịt chắc ổng sẽ mang cho tới ngày theo ông 
					theo bà.
 
					- 
					Tôi xin mời các bạn đi về miền 
					quê Hậu Giang yêu dấu đó.
 
					- 
					 
 
					- 
					Làm Giàu
 
					- 
					 
 
					- 
					Thằng cháu rể hỏi tôi: “Chú biết 
					tại sao, ba cháu hồi trước 75, ruộng nương không có mà ổng 
					giàu không?”
 
					- 
					- Dỡn chơi mậy. Ông có nhà máy 
					làm đường, lại có cơ sở làm men thì giàu là phải.
 
					- 
					- Không phải do hai cơ sở đó đâu, 
					dĩ nhiên nó có dính liu tới, nhưng chuyện này hồi đó gia 
					đình cháu dấu, bây giờ qua đã hết rồi để cháu kể chú nghe.
 
					- 
					- Khoan đã, để tao đi pha hai ly 
					cà phê rồi mày hãy kể. Vừa pha cà phê, tôi vừa ngẫm nghĩ: 
					Làm giàu thì ai mà không muốn, tại sao mình không tìm hiểu 
					để bắt chước làm giàu như người ta? Cho dù Chúa có phán 
					“Người giàu vào được nước thiên đàng còn khó hơn con lạc đà 
					chui qua lô kim”. Nghe theo lời Chúa cái gì thì được, chứ 
					cái vụ giàu thì tôi nghĩ khác. Mình giàu mà dùng tiền bạc 
					làm điều phải, giúp đỡ kẻ khốn cùng thì được quá đi chớ.
 
					- 
					Sáng chủ nhật mùa thu có chút 
					sương mù, gây gây lạnh. Chú cháu tôi ra vườn phì phà điếu 
					thuốc bên ly cà phê nóng. Thằng cháu rể thong thả kể chuyẹn 
					làm giàu của ông già nó.
 
					- 
					Ông Hai Sáng, sui gia của anh chị 
					tôi, có hai cơ hội làm giàu
 
					- 
					Trước hết nói về lò đường. Ông 
					nhận ép mía cho nông dân theo tấn, họ đem mật mía về tự làm 
					ra đường. Ông cũng còn mua mía về ép rồi nấu đường.
 
					- 
					Hồi khởi đầu, ép mặt bằng “che”, 
					đó là hai cái trục làm bằng cây gỗ căm xe dựng đứng bên 
					nhau, dùng sức bò hay trâu kéo một cái cần như cái dàng xay 
					lúa đi vòng tròn quanh trục. Một người ngồi cho “ông che 
					ăn”, nghĩa là đút mía vào ép. Mật mía được hứng dưới đáy và 
					chảy vào thùng. Tại sao lại gọi là “ông che”? Vì ông hay ăn 
					cả cánh tay người đang ép mía khi người này mỏi mệt quá mà 
					ngủ gục, trong khi tay vẫn đều đều thọc mía vào máy ép, mà 
					mắt thì ngủ. 
 
					- 
					Tai nạn càng xảy ra nhiều thì ông 
					che lại cũng được nể sợ và cúng kiến nhiều hơn. Ở miền quê, 
					con gì, cái gì làm người ta sợ thì đều được tôn lên là ông 
					cả. Ông cọp; ông sấu; ông lò vv...
 
					- 
					Mật mía được nấu và đổ ra muỗng 
					có lót bùn non. Khi đang nấu, bọn con nít thường hái lá 
					chanh hay lá mít, loại lá già vừa phải, nhúng vào nồi đường 
					đang nóng rồi xô dây treo lên phơi. Khi khô rồi, lớp đường 
					trong như kiếng phủ bên ngoài, có thể nhìn thấy màu xanh và 
					từng gân lá phía trong. Cắn một miếng kẹo lá này thì hết 
					biết, nó dòn, ngọt, mang mùi mật lai có vị thơm mùi lá cây.
 
					- 
					Hồi xưa chỉ làm được đường thẻ và 
					đường tán, sau này máy ép mía chạy bằng máy dầu, sạch sẽ mà 
					công xuất mạnh hơn nhiều. Mật mía cũng nhờ máy li tâm làm ra 
					đường cát, nhưng làm sao trắng bằng đường Hiệp Hòa, nói chi 
					đến đường nhập cảng. Bởi vậy giá bán rất hạ. Tóm lại nghề lò 
					đường chỉ đủ ăn chứ không làm giàu được.
 
					- 
					Tới đây xin ngưng lại một chút 
					nói về con đường, một món ăn lừng danh mà nghe nói ngày 
					trước, mỗi lần ông Kỳ hay ông Thiệu về miền Tây thường được 
					đãi ăn. Món này chỉ họa hoằn mới thấy xuất hiện trên thực 
					đơn nhà hàng Đồng Khánh Chợ Lớn. Đuông là một loại sâu trắng 
					to bằng ngón tay cái, nhà hàng bỏ con còn sống vào chén nước 
					mắn hay xì dầu cho nó uống no, rồi chiên trong chảo dầu, nó 
					sẽ phóng lên vàng rộm. Con đuông đục lỗ để ăn ngọn cây dừa 
					(cổ hủ) và cây chà là , nó đùn xác dừa ra ngoài lỗ thì người 
					ta mới biết, họ đục lỗ to ra để bắt, đôi khi đuông còn non 
					quá, có lúc lại quá già gần biến thành con rẩy to hơn con 
					cánh cam hay con bọ hung. Non quá hoặc già quá đều không có 
					giá trị.
 
					- 
					Cây dừa phải trồng bao nhiêu năm, 
					đục ra bắt được mấy con đuông là cây chết ngắc. Cây chà là 
					thì nhiều hơn, nó mọc chen chúc nhưng gai nhọn lểu. Như vậy 
					mới biết rằng bắt được con đuông là một kỳ công nên giá trị 
					của nó phải lớn. Ở đời, cứ cái gì hiếm thì trở nên quí, chứ 
					không chắc gì con đuông ăn ngon như lời người ta thường đồn 
					đãi, người nhát trông thấy hình thù nó giống con sâu, chưa 
					chắc đã dám ăn.
 
					- 
					Ông Hai Sáng một hôm cầm mỏ sảy 
					hất tung đám xác mía lâu ngày đã dồn đống ở phía sau lò 
					đường, ông nhìn thây nhiều con đuông mà khởi đầu ông tưởng 
					là con sâu đất, cho đến khi thấy một con sắp biến thành rầy, 
					ông mới biết mình vừa đào trúng mỏ vàng. Ông âm thầm bắt xếp 
					vào hộp đưa lên nhà hàng trên Chợ Lớn bán. Dĩ nhiên ông đã 
					khôn lanh bắt những con vừa lứa, lại còn để lại một số lớn 
					lên, bay đi rồi trở lại đẻ trứng trong tương lai. Tuy mía đã 
					ép rồi, nhưng vẫn còn sót lại một ít đường, con đuông ăn xác 
					mía này thay thế cho đọt dừa. Đống xác mía vô tích sự không 
					ai thèm để ý lại là một mỏ vàng bí mật.
 
					- 
					Bây giờ kế đến việc làm men.
 
					- 
					Bột gạo lức xay ra phải trộn 
					nhiều vị thuốc Bắc như: Hóng khấu làm cho men rượu có vị 
					nồng; Đại hồi gây ra vị ngọt và thơm; nang mực làm men nở 
					xốp; Nhưng căn bản vẫn là củ riềng. Loại củ hay được dùng để 
					ướp thịt chó đó. Men được vo viên to bằng quả trứng gà rồi 
					phơi khô, bán cho người nấu rượu.
 
					- 
					Ở tuốt dưới Rạch Giá có quận 
					Giồng Riềng, ở đó riềng mọc như rừng. Miền Nam có nhiều 
					giồng lắm: Giồng Trộm, Giồng Ông TỐ vv.. Đó là những vồng 
					đại cao, có lẽ mấy ngàn năm về trước nó là một dẫy núi. Về 
					sau đất bôi lên mãi nên bây giờ nó chỉ còn cao hơn vùng 
					chung quanh một ít. Đất ở đó không phải đất phù sa, nó là 
					đất cát pha sỏi.
 
					- 
					Ông bà Hai Sáng thường xuống mua 
					riềng về để xài, rồi còn bán cho người Tàu Chợ Lớn xuất đi 
					mọi nơi, kể cá ngoại quốc. Người Tàu là chúa dìm giá, khi 
					thấy mầm non nhú ra, họ chê riềng phơi chưa khô. Mà ở miền 
					Nam mưa hoài, chỉ cần trúng ít nước mưa là củ riềng mọc mầm 
					ngay.
 
					- 
					Ông Hai nghĩ ra được một cách, mà 
					trước nay không ai nghĩ tới: ông đem luộc sơ lên rồi mới 
					phơi. Như thế dù có đem ngâm nước, bố nó cũng không mọc nổi 
					mầm. Mà vì một luộc sơ sơ nên vị thuốc ở trong củ không thay 
					đổi gì mấy.
 
					- 
					Một lần hai ông bà đưa riềng lên 
					Chợ Lớn bán, ông về trước nhưng bà phải ở lại vì phải chờ 
					chuyến tàu từ Hồng Kông qua mới có một vị thuốc quan trọng. 
					Bà chủ tiệm lại là một người Việt, nên bà Hai trọ ở đó luôn. 
					Bà chủ hỏi:
 
					- 
					- Ở dưới đó không có tiếng già 
					hay sao?
 
					- 
					- Trời ơi, nó mọc thâm căn cú đế 
					từ hồi nào ở trong rừng mà sao chị nói hổng già.
 
					- 
					- Nếu già sao không có trái ?
 
					- 
					- Tui không có theo người ta vô 
					rừng nên không chắc, nhưng tui nghĩ rằng nó có trái.
 
					- 
					- Nếu có trái thì chị đi mua làm 
					chi?
 
					- 
					- Tui mua hồi nào ở đâu?
 
					- 
					- Chớ chị đang đợi thứ gì đó?
 
					- 
					- Hồng Khấu.
 
					- 
					- Thì Hồng Khấu chính là trái 
					riềng.
 
					- 
					Rồi bà Hai vỗ đùi kêu lên:
 
					- 
					- Trời ơi, tui đâu có biết Hồng 
					Khấu là trái riềng, nếu vậy để chuyến này tui về dưới đó mà 
					có, thì tui khỏi thất cũng lên đây mua. 
 
					- 
					- Nếu đúng vậy thì chị phải chở 
					lên đây bán cho tui, chớ trái đó nhập cảng mắc quá trời. Nếu 
					có nhiều, tui còn xuất cảng ngược qua Hồng Kông và Singapore 
					nữa chớ dỡn chơi sao? Nè nếu ông trời mà thương, thì tui với 
					chị phen này khá lên cấp kỳ.
 
					- 
					Từ đó, bà Hai cứ đều đều đi mua 
					thứ trái riềng mà người ta vất đi đó, với giá rẻ rề, chở lên 
					Sài Gòn bán, rồi mua vàng lá hiệu ba trái núi đem về chôn 
					dấu ở dưới đống xác mía.
 
					- 
					Nghe chuyện, tôi hỏi thằng cháu 
					rể:
 
					- 
					- Bây giờ còn chôn đó không mậy ?
 
					- 
					- Đào lên để đóng vàng đi vượt 
					biên hết rồi chú !!!
 
					- 
					 
 
					- 
					Nuôi Dơi
 
					- 
					 
 
					- 
					Ông Hai Sáng, ông Sui của anh chị 
					tôi mà tôi có dịp nhắc tới trong chuyện Làm Giàu, tôi mới 
					gặp ổng chiều hôm qua đây nề. Hai ông bà được con bảo lãnh 
					qua Mỹ chơi. Gặp lôi, ổng bả mừng lắm, nói cười huyên 
					thuyên, kể chuyện xưa, chuyện nay như không muốn dứt. Tôi 
					cũng cười muốn đứt ruột luôn.
 
					- 
					Con trai ông kể:
 
					- 
					- Xuống tới phi trường Lốt, ba má 
					cháu theo cháu lôi đồ ra xe, hàng biết ổng mang cái gì mà 
					tới bốn năm cái goa-ly căng phồng, về nhà mới biết đó là khô 
					mực khô thiều, mang cả bột nếp qua đây để gói bánh ít cho 
					cháu nội ăn.
 
					- 
					Ngồi trên xe, ổng nhún nhún rồi 
					khen cái nệm êm, khen đường lộ thẳng tắp rộng thênh thang, 
					khen nhà cửa cảnh trí đẹp đẽ, rồi nói:
 
					- 
					- Cha ! Tưởng đâu chỉ có ở VN mới 
					có bán nem như nem Thủ Đức hay nem Lai Vung, hổng dè ở phi 
					trường bên Mỹ đây cũng có bán.
 
					- 
					- Uở, trong siêu thị VN mới có 
					nem, chứ ngoài phi trường làm gì có bán, ba.
 
					- 
					Có mà, tao thấy nó để rõ ràng , 
					một bên đề Nem, bên kia đề Vỏ Nem. Có điều Mỹ nó cũng đánh 
					vần sai trớt quớt.
 
					- 
					- Trời trời, cái đó là cầu tiêu 
					mà ba, một bên là Men, còn bên kia là Women, tức là đàn ông 
					với đàn bà.
 
					- 
					- Dậy hả, vậy mà tao cứ tưởng bán 
					nem.
 
					- 
					Ở Nam Cali tuy đã cuối hè, nhưng 
					buổi chiều khá mát, ông Hai lên bộ đồ kiểng, dạo ra phố 
					Bolsa. Tuy cách nhà chừng một dặm và quẹo có ba bốn cát neon 
					nhưng lần đầu đi chơi, lúc trở về ông lạc cả hơn tiếng đồng 
					hồ, vì:
 
					- 
					- Sao tao thấy nhà ở Mỹ cái nào 
					trông cũng giống như cái nào, ngay cái nhà này, tao thập thò 
					hoài ngoài cổng mà hông dám vô, tới lúc nghe tiếng con vợ 
					mày la mấy đứa nhỏ, tao mới biết chắc là nhà mình.
 
					- 
					Ông khoái cái thái độ vui vẻ của 
					mấy người Mỹ hàng xóm :
 
					- 
					- Bà nó ơi, người Mỹ ở đây họ 
					lịch sự quá, họ chào tôi, và còn biết thứ của tui nữa, họ 
					kêu tui : Hai! Rồi họ vẫy tay.
 
					- 
					Ông Hai còn kể cho tôi nghe nhiều 
					chuyện ở xứ Mỹ này, nhưng hầu hết chúng ta đã biết và đã 
					trải qua trong những ngày đầu đến Mỹ. Vậy nên tôi chỉ kể 
					chuyện làm ăn của ông bên VN mà thôi. Đó là chuyện nuôi dơi.
 
					- 
					* Người ta nuôi trâu bò, heo cá, 
					nuôi tôm rùa rắn rết thì nghe tới đã nhiều, nhưng nuôi dơi ? 
					Một loài đen đủi, xấu xí mà con người có ác cảm. Mà nuôi 
					giống đó làm gì mới được chớ ? Thưa rằng nuôi để lấy phân.
 
					- 
					Ông Hai là người nông dân Nam Bọ 
					chính hiệu Con Bướm Vàng, loại người mà khi ngồi uống cà- 
					phê thường co một chân lên ghế cho nó “phẻ”. Hồi năm 1965 
					ông có ruộng vườn ở cách đường lộ chừng nửa cây số. Thấy lúc 
					trời chạng vạng tối, có nhiều dơi bay xập xoạng, ông làm thử 
					một chuồng dơi, đó là một cây cột cao gần mười thước, tiện 
					chót đóng cây ngang như một cái dù và cột từng chùm lá cây 
					thốt nốt ( Cây này mọc nhiều ở miền Tây VN và bên Cam Bốt, 
					nó giống y hịt cây Mexican Palm bên Mỹ).
 
					- 
					Ban ngày dơi rúc vô đó mà ngủ, 
					đêm mới bay ra ăn bồ chét, rầy, muỗi.Thấy qua một đêm mà cứt 
					dơi đã đầy lên gần một ngón tay, ông Hai liền bỏ tiền ra làm 
					thêm tới mười ba chuồng loại hai cột, loại này có cái lợi là 
					dựa nhau nên đứng vững trước mưa to gió lớn. Thời thập niên 
					60, nông dân VN chưa xài phân hóa học nhiều như bây giờ, có 
					nhiều người chưa từng nhìn thấy phân Urê nó ra làm sao nữa 
					Lúa thì hầu như không ai phải bón phân, chỉ có người làm ray 
					mới dùng phân bò, phân cá, để bón dưa, đậu, bí và dây tiêu 
					mà thôi.
 
					- 
					Phân trâu hò thì ai cũng biết 
					rồi, nhưng phân cá không phải là cứt con cá đâu. Phân này họ 
					lấy từ xác cá ở những nhà thùng làm nước mắm, nhưng nó mặn, 
					đem bón liền thì cây sẽ chết, nên họ trộn thêm cá vụn, loại 
					cá mà heo nó cũng chê, rồi ủ cho hoai ra mới dùng được. Dĩ 
					nhiên phân cá rất tốt nên mắc tiền lắm.
 
					- 
					Con dơi chó, dơi quạ nặng chừng 
					nửa ký, chuyên ăn phá trái cây, nhưng dơi chuột mà chúng ta 
					đang nói tới đây là loại ăn muỗi, rầy, thân nó nhỏ bé như 
					con chuột nhắt. Dơi chuột ngày xưa ở rất nhiều trong các 
					hang động vùng núi Thất Sơn, nhưng từ khi chiến tranh lan 
					rộng, những toán du kích ẩn núp trong hang, những trái ô 
					buýt bắn hàng ngày vào vách núi làm đàn dơi sợ hãi bỏ chốn 
					núi rừng càng ngày càng nhiều, để bay về vùng ít tiếng súng 
					hơn. Chuồng dơi của ông Hai dơi về ở đầy nhóc nhách, nó đu 
					lộn đầu xuống đất chen chúc đen kịt trong những túm lá thốt 
					nốt và để nhanh như chuột, nhưng môi lần chỉ để hai con mà 
					thôi, vì dơi con bám dưới bụng mẹ, nếu đẻ hàng chục con như 
					chuột thì dơi mẹ bay sao nổi.
 
					- 
					Phân dơi được cào vô mỗi ngày một 
					lần, đem phơi khô rồi đóng bồ, việc làm này cũng phải cẩn 
					thận nếu không nó sẽ nát nhừ ra như cám.
 
					- 
					Những đám ruộng lúa gần chuồng 
					dơi xanh như hành lá lúa rất trúng. Nhưng những đám ruộng 
					gần quá, trong vòng 100 thước thì vì quá tốt, lá nhiều nên 
					cả lúa đổ ập xuống, mất trắng. Chủ ruộng bắt bồi thường, nên 
					sau một vài năm ông Hai mua luôn số lượng đó mà để hoang. Lý 
					do là dơi bay đi bay về gần chuồng nhiều, phân cứt rơi vãi 
					nhiều, nên ruộng tốt quá mà canh tác lúa không có lợi, thà 
					để cỏ mọc cho trâu ăn còn có ích hơn.
 
					- 
					Có sản phẩm rồi, nhưng tiêu thụ ở 
					đâu ? Nông dân trồng lúa gần ở đây thì đâu có ai bỏ tiền ra 
					mua phân, thôi đành đổ xuống ghe mà chở đi bán. Tử Cái Sắn 
					chạy dài xuống Cầu Quằn Rạch Sỏi, người ta làm ray ven sông 
					thiếu gì, nhưng ông Hai không bán được một gia phân nào, 
					chào hàng đến đâu cũng bị thiên hạ từ chối, dù giá bán rẻ 
					bằng nửa phân cá:
 
					- 
					- Em nói cứt dơi tốt, thì qua 
					cũng biết vậy, nhưng qua đã làm rẫy hơn hai chục năm rồi, 
					chỉ có bón phân cá mà thôi. Nay nếu nghe em mà bỏ mồi bắt 
					bóng, lỡ thất mùa thì làm sao?
 
					- 
					Gần một tuần lễ chở phân đi rồi 
					lại chở về, nhìn gương mặt thiểu não của cả nhà, ông Hai lại 
					chở đi nữa. Lần này ông “Khuyến Mãi":
 
					- 
					- Thưa bác, nếu bác sợ là nếu bón 
					phân này mà bị thất mùa, thì tui biếu bác nửa gịa, bác chỉ 
					bón thử một hàng ở ngoài bia mà thôi. Nếu nó trúng thì tốt, 
					còn có thất thì chỉ bị một hàng cũng không đến nỗi nào.
 
					- 
					- Chú em mày nói có lý, để qua 
					thử coi. 
 
					- 
					Xuống tới Cầu Quằn thì vật phẩm 
					khuyến mãi còn có chút tí, ông Hai quẹo vô xóm Tiều, thấy 
					Tiều già đang quảy đôi thùng nước tưới cây bèn hỏi:
 
					- 
					- Hia ơi, hia có xài phân dơi 
					hông ? 
 
					- 
					- Có chớ, nhưng ngộ hết tiền rồi, 
					có đổi khoai lang thì ngộ đổi cho, mà nị còn nhiều hông?
 
					- 
					- Còn chừng hơn một gịa.
 
					- 
					Ông Tiều già, hốt hết phân vô 
					bao, rồi dở bồ khoai lang ra, xúc đổ xuống ghe một thúng 
					lớn, lại trèo lên xúc hai lần nữa mới thôi. ông Hai mừng rõ 
					nói nhỏ với con:
 
					- 
					- Trúng khẳm rồi con ơi. Có hơn 
					một giạ phân mà đổi được chừng này khoai lang.
 
					- 
					Một tháng sau, ông lấy ghe nhỏ 
					bơi dọc theo Kinh Xáng, thì thấy hàng đậu đũa bón phân dơi 
					lá nhỏ nhưng xanh đậm, trong khi cả vườn rẫy lá to nhưng ngả 
					màu vàng. Vì chưa biết kết quả ra sao, nên ông không ghé hỏi 
					thăm mấy người làm vườn.
 
					- 
					Hai tuần sau, ông lại cà rề đi 
					“Thăm dân cho biết sự tình” thì thấy cả vườn hái hết đậu 
					rồi, coi như đã tàn, nhưng hàng bìa còn tươi mơn mởn, ngọn 
					còn đang bủa vòi, bông nụ còn ra hiếm hiệm. Ông chủ nhà ào 
					ra nắm lấy cánh tay lắc lia lịa:
 
					- 
					- Trời ơi, tao trông chú em mày 
					hết biết, ghé đây lai rai ba sợi, rồi chiều nay chở mớ bí, 
					đậu dìa nhà mà ăn. Rồi bữa nào rảnh, chở cho tao ít chục giạ 
					phân dơi.
 
					- 
					- Nói thiệt với bác, hồi này tui 
					túng quá, thành thử nếu có chở cho bác, là tui lấy tiền liền 
					chứ không bán thiếu chịu đâu.
 
					- 
					Thì tao có nói mua thiếu chịu hồi 
					nào mà chú em mày lo, mà cả mấy người gần đây đều chờ cái 
					thứ phân này, hèn chi mấy người Tiều họ phải cất công lên 
					tới tận Châu Đốc để mua, nên năm nào họ cũng trúng hơn mình 
					gấp bội.
 
					- 
					Kể từ đó, ghe lớn, vỏ lãi, tam 
					bản lúc nào cũng lui tới ì xèo trước cầu bến nhà ông Hai, 
					đôi khi họ còn phải đăt tiền cọc trước nữa. Lúa hồi đó có 50 
					đồng một giạ mà phân được giá tới 60 đồng. Phân dơi có khi 
					dầy lên cả tấc mà mười ba chuồng như thế thì không biết hốt 
					được mấy chục giạ một ngày. Những người xung quanh thấy làm 
					chuồng dễ như làm đồ chơi, mà lại ăn thiệt nên đua nhau mua 
					vật liẹu về làm. Nhưng có một điều lạ lùng là không hiểu tại 
					sao chuồng dơi của họ, dơi lại là đến ngụ cư lác đác, không 
					đủ phân bán để bù cho sở hụi.
 
					- 
					Con dơi tuy nhỏ có chút xíu nhưng 
					cũng biết lựa đất là lành mà đậu, biết lựa chủ mà nhờ. Nuôi 
					dơi không tốn thức ăn, nhưng nếu không biết săn sóc tới đàn 
					dơi, thì có cũng bỏ đi hết, nhất là khi chuồng trại bị rệp. 
					Dơi và các loài chim thường bị một giống rệp nhỏ như đầu cây 
					kim gút, bám cắn dưới cánh, nó hút máu no bụng tròn lẳn và 
					đỏ bóng lưỡng. Dơi dùng mỏ, chân cào cho rớt xuống, nhưng 
					người chủ trại, nếu có kinh nghiệm thì biết rằng đàn dơi của 
					mình đang bị bệnh chí rận. Họ xây chung quanh gốc cột một 
					vòng bệ nước, trong đó pha thêm muối, hoặc thuốc trừ sâu, 
					con rệp bị rớt xuống đất, cố trèo lên tổ dơi, sẽ bị chết 
					hàng đống ở ngay chân cột.
 
					- 
					Khi mặt trời đã lặn, dăm ba con 
					dơi tiền phong buông mình xuống khỏi tổ, sau đó bay vọt lên 
					cao, thăm thú tình hình thời tiết mưa bão, rồi trở về thông 
					báo với cả đàn. Nếu không có con nào dời tổ, thà nhịn đói 
					không đi kiếm ăn, thì chắc chắn đêm đó có mưa to gió lớn. 
					Còn nếu bình thường, đàn dơi sẽ từng lần lượt rời tổ chừng 
					một ngàn con một lần, tiếng cánh quạt gió ù ù như tiếng báo 
					đầu một cơn bão lớn. Có lần mấy người đi giăng câu gần đó, 
					nghe tiếng ì ì, tưởng là sắp có cơn giông, nhưng khi thấy 
					vẫn trời quang mây tạnh, lại tưởng đâu bị ma nhát, nên vội 
					vàng choán câu bỏ chạy.
 
					- 
					Khi dơi đã đi ăn, người chủ trại 
					trèo lên sửa từng tấm lá cho ngay ngắn, thay những tấm te 
					tua hay cũ quá, xịt thuốc muỗi để diệt rệp trong các kẽ lá, 
					thuốc này còn có công hiệu diệt luôn những con rệp còn bám 
					theo mình dơi, khi dơi trở về nữa.
 
					- 
					Người chủ trại biết ơn đàn dơi 
					của mình, ngoại trừ nó đã cho phân, nó còn diệt biết bao sâu 
					bọ rầy muỗi. Họ cưng đàn dơi, trèo lên nhắc từng lá để kiểm 
					bệnh, rệp. Vì dơi bám đầy, nên có khi dùng hai tay mà không 
					nhấc lên nổi một phiến lá thốt nốt. Những con dơi cũng nhận 
					ra người chủ đang săn sóc mình, nên không hề sợ hãi mà vẫn 
					nằm im, trố hai con mắt trau tráu ra nhìn. Những con bị rớt 
					xuống đất, được lượm đưa lên tổ vì dơi không tự mình bay từ 
					mặt đất mà phải từ trên cao buông mình rớt xuống, rồi mới 
					bay.
 
					- 
					Ở đời này người ta thấy mình làm 
					cái gì thành công, thì hay bắt chước, mà nếu không thành 
					công thì họ lại quay ra oán mình. Có một ông kia tức giận vì 
					chuồng dơi của ông chẳng có con nào tới ở, nên vào một đêm 
					hè nóng, có gió hanh, ông ta lén đốt chuồng dơi của nhà ông 
					Hai. Mùa khô hạn, nước trong ao đìa chẳng còn bao nhiêu, nên 
					không ai có thể dập tắt được ngọn lửa phá hoại đang cháy 
					đùng đùng, mười ba dãy chuồng dơi biến thành bình địa trong 
					mấy giờ đồng hồ. Lửa cháy ngất trời đã làm đàn dơi sợ hãi 
					bay đi mất, đến nay qua bao nhiêu năm rồi mà cũng không hề 
					dám quay trở lại.
 
					- 
					Ông Hai ưu tư nói với tôi:
 
					- 
					- Chú à? người ta nói kiếp trước 
					mình gieo nhân nào thì kiếp sau gặt quả nấy, nhưng tui nghĩ 
					có khi mình phải gặt quả ngay ở đời này. Thí dụ như cái ông 
					đã đốt lửa chuồng trại của tui đó, ông chết thê thảm quá, mà 
					mấy đứa con trai cũng mang họa lây, một thằng thì bị bắn 
					chết, còn một thằng trèo lên nóc nhà bi điện giựt cháy đen 
					thui. Thiệt là “Thiện ác đáo đầu chung hưu báo” há chú?
 
				 
			 
		 
		  
		Nguồn: SaigontimesUSA 
		Post ngày: 
		12/08/18  
		   |