|
- Người Chăm ở Nam Bộ
- Dohamide
-
- Một trong những đặc điểm nổi bật của miền châu thổ sông Cửu Long
ở Tây nam Việt Nam là có khá nhiều địa danh nghe khác lạ, và c̣n có
thể nói là rất xa lạ với tiếng Việt thông dụng. Đi từ điểm cực Nam
nơi chín cửa sông Cửu Long trổ ra biển khơi, ngược ḍng Tiền giang
và Hậu giang tiến trở vào đất liền, hướng về vùng biên giới
Việt-Kampuchea ở phía Bắc, người ta gặp ngay địa danh “Cà Mau,” “Sóc
Trăng,” “Sa Đéc” v.v... vốn là những địa danh, được dùng quen thuộc
trong dân gian từ một thời xa xưa, và có khi c̣n được nhà cầm quyền
chánh thức đặt thành tên gọi các đơn vị hành chánh địa phương nữa.
Đối với mọi cái ǵ gần gũi đă trở thành quá quen thuộc, hiếm thấy có
ai tự hỏi về nội dung ư nghĩa đích thực của các địa danh này là ǵ,
và như vậy là người ta đă chấp nhận cho chúng lặng lẽ hoà đồng với
các địa danh hoàn toàn gốc tiếng Việt quen thuộc như Bến Tre, G̣
Công, Vĩnh Long, Long Xuyên, An Giang, v.v...rồi. Tuy nhiên, khi có
ai t́nh cờ chợt nêu lên thắc mắc, th́ chắc chắn là không ít người
dân b́nh thường sẽ phải ngỡ ngàng và băn khoăn không biết trả lời
thế nào. Những người am tường hoặc có t́m hiểu cạn cùng mới làm rơ,
chẳng hạn như:
-
- - Cà Mau thực sự vốn là từ ngữ đọc trại từ Tưc Khmâu, (Tức là
nước, Khmâu là đen), chỉ định một vùng đất bồi phù sa màu đen.
-
- - Sóc Trăng là do chữ Srok có nghĩa là khu vực làng xă; c̣n
Trăng là do chữ Tlăng có nghĩa kho vàng: Xứ kho vàng.
-
- - Về địa danh Sa Đéc, th́ Sa là do chữ Phsar có nghĩa là chợ, và
Đéc có nghĩa là sắt, được suy diễn có thể nguyên là địa điểm chợ bán
hàng đồ sắt.
-
- C̣n nhiều và nhiều nữa. Các địa danh nghe lạ tai được diễn giải
kể trên, sự thực, mang dấu vết văn hóa của người Khmer trong dân
gian c̣n được gọi là người Miên, hoặc nếu có cảm thấy chút phân cách
hơn là nói người Đàng Thổ, một sắc dân bản địa, sanh sống tại chỗ
trước đó, khi các đoàn quân và lưu dân Việt tháp tùng Nguyễn Hữu
Cảnh được Chúa Nguyễn cử vào Nam mở mang bờ cơi trong vùng châu thổ
sông Cửu Long. Người Khmer ở châu thổ sông Cửu Long được các nhà cổ
học - chủ yếu ban đầu là các nhà cổ học Pháp như George Coedes,
Malleret, v.v. - xác định thuộc nền văn hoá Óc Eo mà các di chỉ kiến
trúc cổ đă và vẫn đang được các nhà cổ học Việt Nam sau này tiếp tục
khai quật. Tiền nhân của người Khmer đă xây dựng nên Vương quốc Phù
Nam, được tiếp nối với nước Thủy Chân Lạp. Trải qua những giai đoạn
lịch sử tiếp xúc, va chạm, đối đầu, và an b́nh cộng cư với người
Việt, người Khmer có khuynh hướng sống tập trung trên các khu đất
giồng (khu đất cao hơn mực nước dâng trong mùa nước nổi) ở các vùng
ven biển ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, và Thất Sơn, có địa danh
Tri Tôn (nguyên là Sway Toong) giáp giới Kampuchea, đă góp phần vào
quá tŕnh khai khẩn và canh tác đất đai cho đến ngày nay. Hiện tượng
hội nhập mang tính cân bằng hai chiều được thể hiện bằng phương thức
Việt hoá ngữ âm du nhập các từ Khmer để duy tŕ địa danh thông dụng
trong dân gian Việt nói chung mà không đặt vấn đề nội dung ư nghĩa
cũng như gốc nguồn.
-
- Bên cạnh người Khmer, không thể không kể đến người Hoa. Người
Hoa hẳn nhiên không phải thuộc thành phần dân bản địa như người
Khmer. Họ vốn là tầng lớp người không chịu thắt bím cạo đầu làm tôi
nhà Thanh ở Trung Hoa, nên vào khoảng cuối thế kỷ 17, đă theo Mạc
Cửu, đến t́m nơi ẩn trú, sẵn đà, khai khẩn đất và định cư lập nghiệp
tại vùng đất Hà Tiên. Trong một thời gian không lâu, nhóm người Hoa
lưu dân này đă mang nguồn vốn văn hoá cùng kỹ năng từ nước mẹ của
ḿnh, góp phần phát triển Hà Tiên thành một thương cảng tấp nập, trù
phú, giao dịch thương mại với bên ngoài.
-
- Lướt qua nét đặc thù của vùng châu thổ sông Cửu Long qua khía
cạnh địa danh và đóng góp khai hoang phát triển, ghi nhận sự hiện
diện của người Khmer và người Hoa là hai sắc dân bản địa và lưu vong
tỵ nạn cùng với người Việt cộng cư khai phá khẩn hoang như trên,
chúng tôi muốn gợi lên một toàn cảnh để lồng vào đó h́nh ảnh làng
quê nhỏ bé thân thương của bản thân, trong tầm nh́n của người trong
cuộc, từ đó, giúp soi sáng về gốc nguồn của tôi là sắc dân Chăm mà
hoàn cảnh lịch sử đă đưa đẩy, lưu lạc đến định cư bên cạnh người
Khmer, người Hoa, người Việt tại một góc trời ở vùng châu thổ sông
Cửu Long trù phú bao rộng này.
-
- Ngôi làng sanh quán của tôi có tên khác lạ đối với ngôn ngữ
Việt: làng Koh Ta Boong, trong sử sách Việt được phiên âm thành Cỏ
Đầm Bôn, dưới thời Pháp thuộc là Ka Tam Bong, tên gọi chánh thức của
một đơn vị hành chánh cấp Xă. Dịch theo tiếng Chăm, Koh có nghĩa là
cồn, là cù lao, c̣n Ta-boong th́ là cây gậy, ngụ ư h́nh dáng của cù
lao này giống như một cây gậy.
-
- Châu thổ sông Cửu Long ở miền Tây Nam Nam Việt Nam là vùng đất
bồi do phù sa từ thượng nguồn và vùng Biển hồ trôi xuống, hàng năm
đều có mùa nước nổi (mùa lũ lụt), mực nước tùy năm ở một số nơi có
thể dâng cao lên đến ba thước, khởi đầu mùa lúa sạ; nước tràn vào
các cánh đồng tạo môi trường cho các loài cá nước ngọt đẻ trứng sanh
sôi nẩy nở, rồi đến mùa nước giựt, nước chảy ngược ra các vàm kinh
rạch để đổ ra biển. Dưới tác động chu kỳ của thiên nhiên, ḍng chảy
sông Cửu Long thay đổi theo thời gian, hai bên bờ thường diễn ra
hiện tượng bên lở bên bồi. Koh Ta-boong đă h́nh thành từ một cồn cát
nhô lên dọc theo một bên bờ Hậu giang, được vun bồi lần hồi thành
một cù lao, ngăn cách với đất liền bằng một con rạch.
-
- Vào thập niên 1940, thời thuộc Pháp, hệ thống giao thông bằng
đường bộ chưa được mở mang, con tàu “sà-lúp” chạy bằng hơi nước do
ḷ củi, kéo những chiếc ghe chài (địa phương gọi là ghe chành) đầy
ắp hàng hóa từ Sài G̣n về vẫn rẽ vào con rạch này để tạm tránh những
ḍng nước ngược chảy siết bên ngoài sông cái. Kỷ niệm khó quên của
tuổi niên thiếu là mỗi khi nghe c̣i tàu văng vẳng từ xa, tôi thường
hối hả cùng các bạn đồng lứa tuổi ù chạy ra bờ sông, cùng ngắm nh́n
đoàn ghe tàu chạy qua như là một biến cố đến từ một thế giới xa lạ.
Hấp dẫn và hồi hộp nhứt là ban đêm, mỗi khi chiếc tàu ḍng đứng một
chỗ v́ ḍng nước ngược chảy quá mạnh, phải bỏ thêm củi vào ḷ. Trên
ống khói, th́nh ĺnh phụt lên những luồng bụi than đỏ ửng, cả bọn
trẻ tái mặt giựt ḿnh, nhưng liền đó, lại thích thú vỗ tay reo ḥ
vang dội. Trong phút chốc, đoàn ghe tàu lại mất hút ra ngoài vàm
sông cái, trả lại sự yên tĩnh cho thôn ấp.
-
- Từ bên này bờ sông nh́n sang bên kia, không xa lắm, chỉ vào
khoảng 50 thước, tiếng trẻ em vui đùa vẫn vọng mồn một sang bên này
bờ, nhưng thực tế là hai thế giới khác biệt. Thật vậy, nhà cửa bên
kia sông, thường đắp nền cao rồi dựng cột và vách lên, bên trong nhà
có bàn thờ tổ tiên, bày biện bàn ghế, giường ngủ có chân cao. Hầu
như trước nhà nào cũng đều có một bàn thờ nhỏ gọn gọi là “bàn ông
Thiên” buổi chiều khói hương nghi ngút.
-
- Bên này sông, trái lại, nhà nhà đều có sàn, cột thường bằng gỗ
nguyên cây tước hết vỏ và bào nhẵn, cao khỏi đầu người để phù hợp
với mùa nước nổi dâng cao; mặt tiền nhà nào cũng có một cái thang
rắn chắc bằng gỗ, và bên trong nhà hầu như không có bàn ghế, nên khi
khách đến nhà th́ chủ nhà thường trải chiếc chiếu hoặc tấm thảm, để
chủ khách cùng ngồi xếp bằng trên sàn gỗ, nhưng phải đặc biệt lưu ư
không được tự động vượt qua khung cửa có màn che được trang trí tuỳ
theo mức độ giàu nghèo của chủ nhà, ngăn cách với gian nhà trong,
theo tập tục, hoàn toàn dành cho đàn bà con gái sanh hoạt không lẫn
lộn với đàn ông con trai. Nhà cửa cất phần lớn sát vào nhau, mở cánh
cửa sổ bên này, có thể chuyện tṛ với nhà bên kia được, nên tạo cảm
giác như con người đang hợp quần co cụm lại. Cả làng hầu như không
có nhà nào trồng rau quả, vườn tược. Ở những nhà khá giả th́ hầu như
luôn luôn có dưới sàn một khung dệt vải cổ truyền, được kín đáo che
sau một bức màn,vốn là nơi làm việc của con gái trong gia đ́nh, vừa
dệt hoặc quay tơ, vừa cất lên những tiếng hát trong trẻo vừa đủ
nghe, nhưng hấp dẫn mănh liệt những cặp mắt hiếu kỳ từ ngoài đường.
Người dân bên nây bờ thường vận chăn Sa-rong vấn quanh ḿnh, dài đến
gót chân. Tưởng cần giải thích rơ, Sà-rong là cái chăn mặc của đàn
ông; c̣n phụ nữ Chăm cũng mặc chăn che phủ đến gót chân nhưng không
gọi là Sa-rong như được nhận thấy ở một vài bài viết về Chăm, mà
đúng ra th́ gọi là Khanh ngui, tức cái chăn mặc, trong số, có Khanh
kăk là một thứ chăn dệt công phu bằng hàng tơ lụa rất được phụ nữ
mến chuộng.
-
- Người dân bên này bờ b́nh thường gọi người dân bên đất liền là
Yuôn, và ngược lại, những người Yuôn này lại gọi người dân bên cù
lao là Chàm, có khi là Chà, và khi có chút ǵ không bằng ḷng nhau
th́ gọi là Chà và, gây cấn hơn nữa, th́ là Bọn Chà và!
- Người dân bên cù lao tự gọi ḿnh là Chăm, trong sanh hoạt hằng
ngày, sử dụng một ngôn ngữ riêng không phải tiếng Việt mà là tiếng
Chăm. Riêng chính người Chăm th́ cảm thấy tinh thần nhẹ nhàng tương
kính trong giao dịch khi được người đối thoại gọi ḿnh là Chăm. Do
đó, cách gọi Chăm một lúc sau này được thông dụng thay v́ Chàm.
- Loáng thoáng trong giới nghiên cứu người Việt được tiếp chuyện,
có vị cảm thấy dị ứng về từ Yuôn, và nói theo lối thời thượng, cho
là “mang tính tiêu cực,” “có vấn đề.” Một đôi lần, tôi c̣n được nghe
một quan điểm thủ cựu, mang sắc thái đại dân tộc, diễn dịch từ Yuôn
là do chữ Vương, thể hiện quan hệ triều cống chư hầu giữa triều đ́nh
Đại Việt và triều đ́nh Champa trong lịch sử. Ngược lại, quan điểm
mang tính đấu tranh th́ cho rằng từ Yuôn mang tính hiềm khích oán
hờn từ phía người Chăm nặng tinh thần dân tộc cực đoan, cũng không
c̣n thích hợp với bây giờ nữa. Một công tŕnh biên soạn công phu mà
bản thân tôi rất trân quư, dưới quyền chủ biên của giáo sư Bùi Khánh
Thế với Nhóm biên tập gồm hai học giả trẻ người Chăm gốc Ninh Thuận,
quyển “Từ điển Việt Chăm,” do Nhà Xuất bản Khoa học Xă hội xuất bản
năm 1996, đă ghi là Piệt- Chăm thay v́ Yuôn-Chăm đúng theo từ ngữ
được lưu truyền trong dân gian. Thực tế, trong câu chuyện trao đổi
hằng ngày với nhau, người Chăm khắp các vùng tại Việt Nam và cả
người Chăm ở Kampuchea vẫn gọi người Việt là Yuôn một cách hồn
nhiên, không thấy có chút mặc cảm khác lạ ǵ xen vào cả.
-
- Vào cuối thập niên 1940, thời thuộc Pháp, xă hội người Chăm ở
Koh Taboong c̣n rất khép kín; không có nghĩa khép kín về mặt địa lư,
bởi lẽ làng Koh Taboong quê tôi không có hàng rào bao quanh, cách
biệt với xă hội bên ngoài như một số thôn làng Chăm c̣n tồn tại ở
Ninh Thuận và B́nh Thuận, nguyên đă trải qua những giai đoạn đối đầu
xung đột với quan quân triều đ́nh Đại Việt, gây chết chóc đẫm máu
kết liễu sự hiện tồn của vương quốc Champa vào đầu thế kỷ 19. Hiện
tượng khép kín ở đây thực chất là do nhu cầu hiện tồn căn sắc truyền
thống Chăm, vốn được gắn chặt trong tim óc, phát xuất từ nề nếp sinh
hoạt Islam, tập tục, tín ngưỡng, nói chung, vào nền văn hoá của
riêng sắc dân ḿnh, không hoàn toàn tương đồng với nền văn hoá của
xă hội bao quanh. Do thiếu giao lưu về văn hóa và xă hội, giữa người
Chăm bên này bờ và người Yuôn bên kia bờ rạch, dưới tác động của
tinh thần phân chia “ta và họ” nói chung, đều có ít nhiều thành kiến
với nhau về một số mặt thực tế trong nề nếp sinh hoạt hằng ngày. Cụ
thể, người Yuôn dùng đũa ăn cơm th́ bị người Chăm chê là Đấng Tạo
hóa đă tạo ra bàn tay cho con người sử dụng, th́ tại sao lại đi dùng
hai chiếc đũa để gắp thức ăn, tựa hồ như xeo nạy (cha-kơh) khó coi
trong khi các thức ăn này đều phải được xem là rizki, tức ân phước
của Đấng Tạo Hóa Allah ban cho như vậy?
-
- Ngay cả bản thân tôi, ở buổi đầu khi có điều kiện ra khỏi xóm
làng đi sanh sống hội nhập vào xă hội bên ngoài, tôi vẫn cảm thấy có
những mặt không ổn trong vấn đề này. Măi về sau này, tôi mới lấy lại
được phần nào tự tin trong đánh giá tập tục, nhất là vào năm 1964
khi có dịp tham dự buổi tiếp tân khoản đăi chánh thức nhân Hội nghị
các nước Hồi Giáo Đông Nam Á và Viễn Đông lần đầu tiên do Chánh Phủ
Malaysia tổ chức ở Kuala Lumpur, cả chủ nhà bao gồm cả cố Thủ Tướng
Malaysia Tungku Abdul Rahman và khách các nước đều cùng ngồi xếp
bằng trên nền nhà, cùng thoải mái ăn bốc theo một phong cách tự
nhiên không khác ǵ tập tục ăn bốc của người Chăm tại làng quê Koh
Taboong của tôi cả. Các mặc cảm trong người tôi lúc ấy mới nhẹ nhàng
được giải toả và tôi mới được rơ dứt khoát không thể nói bên nào văn
minh bên nào lạc hậu cả; người Yuôn và người Chăm thuộc hai nền văn
minh khác biệt nhau, một bên được mệnh danh là nền văn minh đôi đũa,
một bên là nền văn minh bốc tay. Ngoài ra, c̣n một nền văn minh khác
đă được ghi nhận trong một buổi tiếp chuyện nhân Hội nghị quốc tế kể
trên, đó là nền văn minh muổng nĩa của Âu Tây.
-
- Trở lại với làng quê Koh Taboong thời thơ trẻ của tôi, cả làng
từ đầu vàm trở vào, đều chỉ có khoảng một ngàn ngôi nhà người Chăm
cất san sát nhau hai bên đường, và đến cuối làng mới có nhà người
Việt. Toàn bộ thế giới thời thơ trẻ của tôi hầu như hoàn toàn gói
ghém trong ngôi làng b́nh dị thôn dă này.
-
- Ông thân sanh của tôi là giáo viên duy nhứt trường sơ học phổ
thông trong làng nên một ḿnh phải phụ trách luôn cả ba lớp một, hai
và ba [vào thời đó, gọi là lớp đồng ấu (cours enfantin), lớp dự bị
(cours préparatoire) và lớp sơ đẳng (cours élémentaire)]. Sau đó,
muốn tiếp tục học th́ học sinh phải lên trường tỉnh Châu Đốc, cách
làng khoảng bốn cây số. Trong số học sinh đến trường, dĩ nhiên chỉ
học Pháp văn, có một số học sinh người Việt nhà ở đầu làng, cho nên
trong các tṛ chơi ngoài lớp, tôi có dịp học và nói bập bẹ tiếng
Việt, một thứ tiếng Việt thường được diễn dịch theo từng chữ tiếng
Chăm, chẳng hạn, chúng tôi nói “tắm nước” thay v́ “tắm,” “đứt tim”
thay v́ “gan dạ,” các bạn học người Việt nghe lâu ngày rồi cũng
quen.
-
- Tại các lớp trong làng kể trên, tôi cũng được học một thứ chữ
Chăm viết theo mẫu tự la tinh, ráp vần theo tiếng Pháp, tôi thấy rất
dễ đọc và dùng để diễn dịch ư tưởng bằng tiếng Chăm cội nguồn. Thứ
chữ này được h́nh thành do óc sáng tạo của một nhân vật nổi tiếng
trong giới người Chăm Châu Đốc vào thập niên 1940 là cụ cố Kim Sop,
nhờ gia đ́nh giàu có, được học trường Tây, làm Thông phán tại Ṭa Án
Châu Đốc. V́ chữ Chăm thông dụng phiên âm bằng mẫu tự A Rạp đang
được thông dụng, thứ chữ Chăm la tinh này không mấy được các bậc phụ
huynh quan tâm, nên không tích cực khuyến khích các con em học.
Nhưng riêng phần tôi và một vài bạn học th́ thấy thích thú, nhứt là
trong tập sách, cố Kim Sop đă cho in một vài mẫu chuyện làm bài đọc
thêm, và sau này lớn lên tôi mới biết là thuộc văn học dân gian
Chăm, như bài “Chim Chhơng” đồng thời cũng là một thể ca ngâm chất
chứa nhiều thi vị mà tôi nhớ nằm ḷng cho măi đến tuổi thất thập
này.
- Hầu như tất cả các bạn học Chăm đều nghỉ học khi hoàn tất lớp
cuối cùng trong làng. Bị ám ảnh trong mặc cảm e sợ con cái jưng yuôn
(biến thành người Việt), phần lớn các bậc cha mẹ đều e ngại, khi cho
chúng lên học trường tỉnh, th́ sẽ sống theo người Việt, không c̣n
theo nề nếp sống của xóm làng, nặng về tín ngưỡng Islam, trong đó,
có một số kiêng cữ rất nghiêm ngặt như tuyệt đối cấm (harăm) ăn thịt
heo, cấm uống rượu, cấm trai gái vụng trộm ngoài hôn nhân, v.v...
Thực tế hơn nữa, đàn ông bé lớn đều cạo đầu và khi tham gia sanh
hoạt trong làng th́ đều đội mũ bằng nỉ màu đen, c̣n người lớn th́
đội mũ trắng hoặc chit khăn Haji chứng tỏ là người đă đi hành hương
ở Thánh địa Makkah bên nước A Rạp Sau Đi, được thôn làng tôn kính
như các bậc trên trước. Cho nên, khi một người đi làm ăn xa mà để
tóc dài trở về làng mang theo một ít phong cách phóng túng không
thích hợp th́ không phải chỉ bản thân người đó mà c̣n cả gia đ́nh
phải chịu những lời đàm tiếu, bà con lên án.
-
- Sanh hoạt thường ngày của xóm làng xoay quanh một ngôi giáo
đường gọi là masjid nằm giữa làng, kiến trúc có những nét gợi nhớ
quang cảnh bên kia trời Trung Đông, bao gồm một nóc ṿm và đài tháp
lạ mắt, được nhận ra từ xa. Ngôi giáo đường này, người Việt sống ở
lân cận vẫn quen gọi là “chùa Chàm,” nhưng ở đây, kiến trúc và trang
trí bên trong cho thấy chỉ là một ngôi nhà khang trang để bổn đạo tụ
họp dâng lễ nguyện tập thể và nghe thuyết giảng vào ngày thứ sáu
trong tuần, thể hiện sự tôn thờ Đấng Tạo Hóa Allah nên không có pho
tượng thờ nào cả ngoài chiếc bục đơn giản có ba bậc như nấc thang
nằm sát bên trong cùng. Mỗi ngày năm lần, khi trời rựng sáng, trưa
ngọ, xế chiều, chạng vạng và trở về khuya, chính từ ngọn tháp kể
trên, phát ra một hồi trống và tiếp theo là lời ngân nga kêu gọi đến
giáo đường dâng lễ nguyện vang đi rất xa, điều ḥa cuộc sống hằng
ngày của người dân.
-
- Bên cạnh giáo đường, có một trường gọi là Madrasah dạy đọc kinh
Qur’An bằng chữ A Rạp nguyên gốc và có cả lớp dạy chữ Mă Lai giảng
giải nội dung kinh sách và giáo lư Islam. Các bậc phụ huynh thích
cho con em ḿnh học các trường lớp này, và thường hănh diện về thành
tích con em đạt được nhứt là khi chúng trổ tài đọc Thiên kinh Qur’An
trong các sanh hoạt tập thể của xóm làng.
-
- Bản thân tôi đă bị tŕ kéo giữa hai khuynh hướng, nhứt là khi đă
đến lúc phải chuyển lên trường tỉnh tiếp tục học lớp nh́ (cours
moyen). Mẹ tôi là một người đàn bà Chăm không biết một chữ a, b,
c... nhưng lại rất thông thạo kinh Qur’An viết bằng chữ A Rạp. Được
hậu thuẫn của ông bà ngoại, mẹ tôi muốn cho tôi nghỉ học trường phổ
thông và chuyển sang học ở trường lớp tại giáo đường như các đứa bé
Chăm khác trong làng. Ngược lại, cha tôi, có chút ít căn bản Tây
học, nhứt quyết phải cho tôi lên trường tỉnh tiếp tục học. Sự bất
đồng ư kiến giữa cha mẹ chúng tôi khá gay go và kéo dài, sau cùng đă
chấm dứt bằng một giải pháp dung ḥa; tôi được tiếp tục đi học
trường tỉnh, nhưng những ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày lễ, tôi phải
đi học chữ Mă Lai và A Rạp tại trường lớp của giáo đường.
-
- Lên trường Tỉnh học, v́ vào cuối thập niên 1940 chưa có cây cầu
bắt ngang con rạch như sau này, người lớn trong nhà, thường là bà
ngoại hoặc mẹ tôi phải bơi xuồng đưa tôi sang bên kia bờ rạch, một
bước kế tiếp tạo điều kiện cho tôi mở rộng môi trường tiếp xúc với
thế giới bên ngoài với những kỷ niệm khó quên.
-
- Koh Taboong là một trong bảy làng Chăm Châu đốc. Ngoài Koh
Taboong là làng chôn nhau cắt rún của tôi, c̣n có sáu làng Chăm khác
là Mat chruk, Koh Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, Koh Ghoi, Koh Kaghia,
Sabâu, với địa danh Việt tương ứng là Châu Giang, Đa Phước, Châu
Phong, La Ma hoặc Vĩnh Trường, Búng lớn hoặc Búng B́nh Thiên, Đồng
Cô Ky.
-
- Phần lớn các địa danh tiếng Chăm kể trên khởi đầu bằng từ “Koh”
có nghĩa là cù lao, cho thấy phần lớn các làng Chăm Châu Đốc đều nằm
trên các cù lao trên ven sông Cửu Long:
- - Gọi là Koh Kaghia v́ cù lao này được đánh dấu bằng hàng cây
sao, một giống cây, gỗ rất chắc mà người Chăm dùng làm cột nhà sàn
hoăc đóng ghe xuồng.
-
- - Về Koh Goi, có vài lối diễn dịch khác nhau tại địa phương, cần
được nghiên cứu xác định sau này.
-
- - Sở dĩ gọi là Koh Kaboăk v́ xóm này chuyên dệt và mua bán tơ
lụa, hầu hết dân cư đều từ Plây Kênh ở bên bờ đối diện chuyển qua,
do nạn bên lở bên bồi của ḍng sông Cửu Long.
-
- Về địa danh Plây Kênh, dịch nghĩa là “xứ con kênh,” do nhà cửa
làng này nằm dọc hai bên bờ một con kênh đào dẫn nước từ bờ Hậu
giang trổ ra phía Tân Châu. Trong dân gian, người ta thường gọi là
Gah Kênh thay v́ Plây Kênh; Gah là “bên.” Cùng thuộc Gah kênh này,
có một ấp nằm ngoài bờ sông cái gọi là Puk Pa-ok; Pa-ok tiếng Chăm
là cây xoài, nên trong tiếng Việt gọi là “Hàng xoài.” Và cũng từ
tiêu chuẩn để nhận diện bằng hàng cây xoài này, mà tên làng Plây
kênh thời Pháp thuộc mới được ghi trên giấy tờ hành chánh là Phum
Soài (“soài” viết s). Phum là từ ngữ khmer có nghĩa là làng, cho
thấy xuất xứ Khmer của làng này. Địa danh Phum soài, về sau, đă dược
đổi thành tên Việt là Châu Phong.
-
- Trong số các tên làng kể trên, có lẫn lộn Mat Chruk là chữ Khmer
chớ không phải chữ Chăm, có nghĩa là “mơm con heo,” do địa thế của
làng này nằm ở một bên bờ sông Cửu Long đổ từ Nam Vang xuống, tẻ ra
làm hai nhánh, khiến một bên bờ trông tợ như mơm con heo vậy. Mặc
dầu người Chăm không ăn thịt heo, trong dân gian vẫn dùng tên gọi
này. Sự lẫn lộn từ ngữ khmer vào tên gọi làng Chăm càng gợi thêm cho
tôi sự ṭ ṃ t́m hiểu, để biết rằng đất Mat Chruk cũng như các làng
Chăm khác tại đây ngày xưa là vùng đất Thủy Chân Lạp và từ “Mat
Chruk” là địa danh đă sẵn có từ trước khi người Chăm đến định cư.
Địa thế bảy làng Chăm kể trên không liền nhau, nhưng cùng nằm dọc
theo hai bên bờ sông Cửu Long trải dài đến giáp giới với Kampuchea
cho thấy đă được bố trí theo mục tiêu chiến lược pḥng thủ, có tính
toán và cân nhắc rơ rệt.
-
- Vào thập niên 1940 thuộc Pháp, làng Koh Taboong về mặt hành
chánh, được đặt dưới quyền cai trị của một Ban Hội tề như các làng
xă khác, gồm đủ các chức việc. Tất cả đều là người Chăm ngoại trừ
Chánh lục bộ chuyên trách bộ đời là một cụ già người Việt nhà ở đầu
làng. Cố thân sinh tôi do là giáo viên làng, thực tế phải trở thành
một nhân vật trung tâm được xóm làng đến nhờ thảo dùm từ các văn thư
giao dịch với chánh quyền.
- Sáu làng Chăm khác cũng ở vào t́nh trạng tương tự, đều thiếu
người rành chữ Pháp và chữ Việt, nhưng điều nghịch lư là làng nào
cũng thừa người có tŕnh độ đào tạo về chữ A Rạp và chữ Mă Lai.
-
- Thêm một điều nghịch lư nữa, nhưng lần này lại là do nhà cầm
quyền thuộc địa Pháp. Đó là việc bổ nhiệm vào năm 1943 một chức vụ
lănh đạo cộng đồng người Chăm tại bảy làng này với chức vụ Saykhol
Islam, Chef des Malais. Saykhol Islam là một chức vụ lănh đạo do nhà
cầm quyền thuộc Anh đặt ra ra tại bang Trengganu, Malaysia, nay nhà
cầm quyền thuộc địa Pháp mang áp dụng tại Châu Đốc, nhưng ghi là
Chef des Malais, lờ đi không nhắc ǵ đến căn sắc Chăm cả. Sự thực,
tại một khu vực mệnh danh là Mubarak của làng Châu Giang ở ngay tại
bến phà từ tỉnh lỵ Châu Đốc ngó qua, có một tập thể gốc Mă Lai trong
dân gian gọi là người Java Ku mà ngôn ngữ thường ngày không phải
tiếng Chăm mà là tiếng Khmer trộn lẫn với tiếng Mă Lai. Cố Haji
Tangkhao Mat là người Java Ku này đă được bổ nhiệm làm Saykhol Islam
đă được chọn trong số những người có sản nghiệp và có uy tín, trên
nguyên tắc, có vai tṛ phối hợp các vị lănh đạo Islam của từng làng
Chăm gọi là Hakim điều hành cộng đồng, chuyên trách xử lư các tranh
chấp về giáo lư Islam. Do cộng thêm ảnh hưởng từ Mă lai về khuôn mẫu
hành đạo Islam thông qua các Tuôn là các thầy dạy kinh sách, có một
thời gian nhiều thập niên, căn sắc Chăm của các làng Chăm bề ngoài
bị lu mờ, tạo nên một khuynh hướng trong dân gian đa số ít học, chỉ
muốn tự coi ḿnh là người Mă Lai, nhất là trong giới phụ nữ trong
chăn áo, khăn đội đầu, mỗi mỗi đều cùng nhau hướng về Mă Lai, chạy
theo thời trang để mua sắm.
-
- Trong bối cảnh bề ngoài chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Mă Lai,
nặng về tôn giáo Islam như trên, tinh thần dân tộc Chăm ở đây vẫn
c̣n rất mănh liệt, nhưng âm thầm lặng lẽ trong dân gian. Qua sự tôn
kính dành cho một vài nhân vật Chăm nổi danh với một số thành tích
đôi khi được chuyển thành huyền thoại ly kỳ hấp dẫn trong một số
t́nh huống mang tính pḥ trợ hoặc cứu nguy người dân. Sự tôn kính
này được thể hiện ở sự đặc biệt chăm sóc bảo tŕ một vài nấm mồ gọi
là Maqam chẳng hạn như ở Koh Taboong có Maqam Tôk Ahmad nằm ở vị trí
bên ngoài sông cái Hậu giang cách xa làng này khoảng hai cây số, chỉ
có dân cư Việt sống kế cận, được suy đoán có lẽ người Chăm trước có
cư ngụ tại đây nhưng sau đó đă dời cư về vị trí hiện nay, để được
bảo vệ an toàn trước thiên nhiên sông nước hơn.
-
- Trong sinh hoạt dân gian, ngoài những buổi lễ nguyện tập thể ở
giáo đường, nhiều đêm dưới ánh đèn dầu, bên cạnh khung quay sợi,
hoặc một vài ngựi lớn lặng lẽ đan vá lưới, trên nhà sàn, bọn trẻ
thường tụ họp đến nghe các cụ già kể chuyện đời xưa rất thích hợp
với khối óc dồi dào tưởng tượng của thời thơ trẻ. Không biết bao
nhiêu lần, tôi đă theo dơi, với những t́nh tiết đầy sống động, câu
chuyện ông vua say mê sắc đẹp mỹ nhân ra đốn cây krêk là cây thần
thủ giữ nền tảng Nagar Chăm để rồi phải bị nước mất nhà tan. Hấp dẫn
với nhiều pha gây cấn nhứt là các đoạn mô tả thời chiến chinh phải
bồng bế nhau trốn giặc cùng những trận chiến ác liệt làm nổi bật một
số nhân vật anh hùng người Chăm, nhưng giặc đó là giặc nào th́ người
kể không bao giờ nói rơ.
-
- Trong xóm, chỉ có một vài cụ già, khi được hỏi, mới trang trọng
đưa ra cho xem những tờ giấy vàng xưa cũ có những ḍng chữ nói là
akhar tapuk, chữ Chăm cổ không c̣n thông dụng nữa, nhưng được cất
rất kỹ, hiếm thấy cho con cháu biết, v́ hầu như đă trở thành một
thời trang, con cháu chỉ được khuyến khích học kinh sách viết bằng
chữ A Rạp và chữ Javi Malayu.
-
- Trong hành tŕnh soi rọi cội nguồn dân tộc, tôi đă được các bô
lăo ngồi say sưa kể cho nghe những giai thoại bi thương c̣n được lưu
truyền về cuộc dời cư lịch sử của người Chăm từ vùng Phan Rí (Ninh
Thuận) dưới trào của một vị vua cuối cùng là Pô Chơn, không chịu nổi
chánh sách đàn áp khắc nghiệt của Vua Yuôn là Minh Mạng nhà Nguyễn
để sang lánh cư trên đất Kampuchea, buổi đầu xoay quanh vùng lấy tên
là Kampong Cham, đa số tiếp tục nghề đánh cá vùng Biển Hồ, nguyên là
nghề truyền thống của cha ông. Nghề truyền thống này không c̣n điều
kiện tồn tại trên mảnh đất quê hương cội nguồn Chăm ở miền Trung
Việt Nam ngày nay nữa. Những thôn làng người Chăm ngày nay tại Ninh
Thuận và B́nh Thuận đều ở sâu vào vùng đất liền, xa bờ biển. nên đa
số người dân chuyên về canh tác nông nghiệp hoặc chăn nuôi.
-
- Có một chi tiết mà tôi được nghe lặp đi lặp lại nhiều lần là:
“Ngày xưa, người Chăm ḿnh có đất nước (tanưh ea) tên là Chămpa,
người yuôn gọi là Chiêm Thành.” Có cụ già c̣n xác định một cách thật
thà, và được một vài cụ khác gục gặc đầu thích thú tán đồng với rất
nhiều chân t́nh và tự hào, hẳn nhiên là bằng tiếng Chăm mẹ đẻ của
tôi: “Thật ra, không phải Chiêm Thành đâu, mà là ‘Chiến thắng’ đó;
người Chăm ḿnh ngày trước đánh giặc giỏi lắm, đánh trận nào là
thắng trận đó, nên gọi là ‘Chiến thắng’!”
-
- Bọn trẻ nghe, đứa nào cũng lấy làm thích thú. Đến khi lớn khôn
t́m hiểu, tôi mới biết lời khẳng định đó vốn sai lạc do nhiều tưởng
tượng. Nhưng điều làm cho tôi xúc động khắc ghi măi trong ḷng và
nghĩ ngợi miên man là sự tưởng tượng đó thực sự đă xuất phát từ tận
đáy ḷng, từ con tim, của những con người bản tánh chơn chất mộc
mạc, đă cùng các đồng tộc trải qua bao giai đoạn thăng trầm của cuộc
sống, nghĩ sao nói vậy về gốc nguồn cách xa của ḿnh. Sau này, khi
có điều kiện tiếp xúc và hội nhập vào xă hội bên ngoài, tôi càng
thấy thấm thía hơn khi nhận ra đó là niềm tự hào hồn nhiên tiềm ẩn
sâu đậm trong tận tim óc về bản sắc dân tộc Chăm của ḿnh, và niềm
tự hào đó là chung cho mọi người, cho toàn nhân loại, chớ không phải
cho riêng một dân tộc với một tŕnh độ văn minh nào.
-
- Cuộc dời cư của người Chăm từ đất Kampuchea về đến đất Châu Đốc
vốn là một cuộc hành tŕnh gian nan đă được các nhà biên khảo Pháp
ghi lại một phần trong lịch sử Vương quốc Khmer, cho thấy người Chăm
dời cư sang đất Khmer bao gồm nhiều thành phần lănh đạo, đă từng cầm
quân chiến đấu, nên xoay sở tác động vào nội t́nh hoàng gia Khmer
khi thắng khi bại. Đến năm 1782, một lănh đạo Champa là Đon Set xua
quân từ Thabaung Khmum tiến đánh kinh đô U-đong khiến Hoàng gia
Khmer phải lánh chạy sang nước Xiêm, tạo điều kiện cho người Chăm
thiết lập các khu định cư riêng biệt tại Phnom Penh, Chruy Chagwar
là một cù lao nằm chắn ngang sông Mekong và Tonle Sap, tồn tại đến
ngày nay. Nhưng sau đó Đon Set đă bị giết chết. Năm 1858, vua Khmer
đóng đô ở U Đong lại bị người Chăm giết chết, khiến vua Hariraks
điều quân đến Thabaung Khmum đánh phá giết hại, người Chăm phải
nương nhau theo ḍng sông Cửu Long thoát thân về phía Nam, xuống đến
tận Mat Chruk tức Châu Giang trước c̣n thuộc lănh thổ Khmer lúc đó
đang bị quân Việt chiếm đóng. Sau đó không lâu, vẫn trong năm 1859,
người Chăm ở Mat Chruk đă quay trở lại đất Kampuchea tổ chức di
chuyển khá nhiều đồng tộc Chăm về sanh sống tại Mat Chruk, được hiểu
là “đất lành, chim đậu,” người Chăm đă được triều đ́nh Đại Việt chấp
nhận cho định cư tại địa phương vùng giáp giới Kampuchea, giao bố
trí thiết lập một số đồn luỹ mang tính pḥng thủ chiến lược, đúng
như các vị trí thường ở các đầu vàm c̣n tồn tại đến ngày nay. Nhiều
người Chăm đă được triều đ́nh nhà Nguyễn tuyển dụng làm thân binh
sẵn sàng vận dụng tài thao lược truyền thống của ḿnh khi cần. Khi
Thoại Ngọc Hầu khởi công đào kinh Vĩnh Tế chạy dài dọc theo biên
giới Miên-Việt, trổ ra đất Hà Tiên, người Chăm đă được huy động sung
vào lực lượng bảo vệ an ninh tạo điều kiện cho dân phu có thể làm
việc cực lực suốt ngày đêm, và họ đă chứng tỏ hoàn thành tốt nhiệm
vụ trọng yếu này.
-
- V́ làng Châu Giang nằm bên kia bờ Hậu giang đối diện với Châu
Phú, tỉnh lỵ Châu Đốc, nên trong dân gian, người Việt c̣n gọi chung
người Chăm ở đây, là “Chà Châu Giang.” Những người Chăm mưu sinh
bằng nghề quảy trên vai gói hàng vải tơ lụa đi bán dạo khắp cùng các
nẻo đường vùng châu thổ sông Cửu Long cũng thường được dân gian gọi
như vậy. Sự thực, tên gọi “Chà Châu Giang” không đúng, v́ Châu Giang
chỉ là tên một làng.
-
- Tên gọi mang tính phổ biến và được chấp nhận và sử dụng rộng
răi trong dân gian xưa nay là tên gọi “Chăm Châu Đốc” dân số trước
năm 1975 được ghi nhận là 12.000 người, nay được cho biết đă tăng
lên đến khoảng 20.000 người..
-
- Vốn được tiếp xúc với nhà văn B́nh Nguyên Lộc ở toà soạn Bách
Khoa do anh Lê Ngộ Châu làm chủ nhiệm, tôi đă có dịp trao đổi sôi
nổi nhưng vô cùng hữu ích và lư thú về văn hoá, ngôn ngữ người Chăm,
có đề cập đề tài “Chà Châu Giang” nhất là sau khi tôi có bài góp ư
về quyển “Lột trần Việt ngữ” đă được xuất bản tiếp sau quyển “Nguồn
gốc Mă Lai của Dân tộc Việt Nam.”
-
- Nhân cuộc trao đổi trên, học giả Nguyễn Văn Hầu vốn là tác giả
quyển kư sự có giá trị biên khảo trung thực nói về chuyến viếng thăm
vùng Thất Sơn Châu Đốc cũng đă dựa vào sử sách Việt, xác định một số
người Chăm đă có mặt tại Châu Đốc bên cạnh người Việt trước khi nhóm
người Chăm từ Nam Vang kéo xuống.
-
- V́ chế độ xuất bản vào năm 1973 không cho phép tờ Bách Khoa Thời
Đại đánh số xuất bản định kỳ và ngày tháng như thường lệ, nên không
thể ghi nguồn các bài viết kể trên. Chỉ xin nhắc lại ở đây như là
một kỷ niệm trong khung tản mạn biểu tỏ chút tâm tư của đề bài.
DOHAMIDE
Dohamide, dân tộc Chăm, sinh năm 1934 tại Kok
Taboong, Châu Đốc. Tốt nghiệp Thủ khoa Ban Cao Nguyên và Ban Đốc Sự Hành
Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. M.A. chánh trị học, Đại học Kansas Hoa
Kỳ. Sáng lập Hiệp Hội Chàm Hồi giáo Việt Nam. Đại biểu Islam Việt Nam
tham dự Hội Nghị các nước Islam Đông Nam Á và Viễn Đông tại Kuala Lumpur
1964, Hội nghị Islam Thế giới tại Thánh địa Makkak, A Rạp Sau Đi 1972.
Hiện định cư tại OC, Nam California. Đă xuất bản: Dân Tộc Chăm Lược sử,
Bangsa Champa: T́m Về Với Một Cội Nguồn Cách Xa... Viết cho các báo Bách
Khoa, Thế Kỷ 21.
(Thế kỷ 21)
Người Chăm Châu Đốc
Một
trong những dân tộc khác góp phần không nhỏ vào nền văn hóa
phong phú của miền tây là người Chăm, c̣n có tên gọi khác là
Chàm, Chà, Mă Lai, Java Kur... cư trú chủ yếu ở thành phố Hố
Chí Minh và An Giang.
Người Chăm ở An Giang có nguồn
gốc từ Chăm Pandurangga ở miền Trung. Trong quá tŕnh mở rộng
đất nước và do các biến cố lịch sử, thế kỷ thứ 14 – 16 họ di dân
qua Cam Pu Chia. Sau đó xuôi theo ḍng Mê Kông vào miền Nam ở
vào khảng thế kỉ 18. Tại Cam pu chia có Vùng đất Kong Pong Cham,
tên gọi nghĩa là “đất trú chân của người Chăm”. Ngày nay, cộng
đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng giữa nửa triệu đến một
triệu tạiCampuchia,
sau đó là cộng đồng tại Việt Nam với gần 80.000 người. Tại Châu
Đốc, cộng đồng Chăm tập trung tại vùng Châu Giang.
Thánh đường Islam tại làng Châu
giang
Đặc điểm người Chăm Châu
Đốc – An Giang là theo Hồi Giáo, sống quần cư quanh các thánh
đường tráng lệ. người Chăm Châu Đốc sống chủ yếu nhờ nghề cá, họ
biết buôn bán. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải
sợi bông.
Nhà cửa của
người Chăm Việt
Nam hầu như có
rất ít đặc điểm giống nhà của các cư dân Malayô - Pôlinêxia nào
khác. Nhà người Chăm ở An Giang có cách tổ chức mặt bằng sinh
hoạt c̣n phảng phất cái h́nh đồ sộ của nhà thang yơ ở B́nh
Thuận. Riêng nhà người Chăm ở Châu Đốc: Khuôn viên của nhà Chăm
Châu Đốc không c̣n nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết
hợp thành h́nh thước thợ. Chuồng trâu ḅ được làm xa nhà ở. Nhà
ở là nhà sàn, chân rất cao để pḥng ngập lụt. Cách bố trí trên
mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở B́nh Thuận cũng như
ở An Giang
Nhà sàn truyền thống
Trang phục của
người Chăm Châu
Đốc cũng rất độc đáo. V́ cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ
lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là
lối tạo h́nh áo (khá điển h́nh) là lối khoét cổ và can thân và
nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa
làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy
ở đây duy nhất là tộc c̣n thấy nam giới mặc váy ở nước ta với
lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
Trang phục nam:
đàn ông quấn xà rông và đội mũ đạo hồi có thêu. Trang phục cổ
truyền là chiếc váy và quần.
Trang phục nữ: Về
cơ bản, phụ nữ Chăm thường đội khăn, hoặc phủ trên mái tóc hoặc
quấn gọn trên đầu. Họ hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại
khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Đôi khi c̣n có mạng che
mặt c̣n (khăn Matr’a).
Trang phục truyền thống nữ
Trang phục truyền thống nam
Âm nhạc của người Chăm Nam Bộ không
có múa, không sử dụng bất kỳ nhạc khí nào ngoài bộ gơ : trống
Thummạ, vốn là đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp Nam Á. Đôi
bàn tay điêu luyện của người nhạc công vừa vỗ hai đầu trống để
đệm cho người ca sĩ hát hoặc vừa tự đệm vừa hát. Tiếng trống
biến ảo, tài t́nh có thể cất lên mọi tiết tấu âm nhạc. Những
khúc ca của người Chăm bao giờ cũng viết bằng điệu thức thứ trầm
lắng, như thánh lễ, dịu dàng.
Ḍng sông Điên Điển
Hai nhánh nước
cánh tay trời vạm vỡ
Ru chàng trai Chăm
dựng miền Nam
Không đuổi giặc với thanh
gươm
Mà
mở đất với trống bina
Nguồn: putrachampa |