|   | 
		
		
			- Người Chăm ở Nam Bộ
 
			- Dohamide
 
			-  
 
			- Một trong những đặc điểm nổi bật của miền châu thổ sông Cửu Long 
			ở Tây nam Việt Nam là có khá nhiều địa danh nghe khác lạ, và c̣n có 
			thể nói là rất xa lạ với tiếng Việt thông dụng. Đi từ điểm cực Nam 
			nơi chín cửa sông Cửu Long trổ ra biển khơi, ngược ḍng Tiền giang 
			và Hậu giang tiến trở vào đất liền, hướng về vùng biên giới 
			Việt-Kampuchea ở phía Bắc, người ta gặp ngay địa danh “Cà Mau,” “Sóc 
			Trăng,” “Sa Đéc” v.v... vốn là những địa danh, được dùng quen thuộc 
			trong dân gian từ một thời xa xưa, và có khi c̣n được nhà cầm quyền 
			chánh thức đặt thành tên gọi các đơn vị hành chánh địa phương nữa. 
			Đối với mọi cái ǵ gần gũi đă trở thành quá quen thuộc, hiếm thấy có 
			ai tự hỏi về nội dung ư nghĩa đích thực của các địa danh này là ǵ, 
			và như vậy là người ta đă chấp nhận cho chúng lặng lẽ hoà đồng với 
			các địa danh hoàn toàn gốc tiếng Việt quen thuộc như Bến Tre, G̣ 
			Công, Vĩnh Long, Long Xuyên, An Giang, v.v...rồi. Tuy nhiên, khi có 
			ai t́nh cờ chợt nêu lên thắc mắc, th́ chắc chắn là không ít người 
			dân b́nh thường sẽ phải ngỡ ngàng và băn khoăn không biết trả lời 
			thế nào. Những người am tường hoặc có t́m hiểu cạn cùng mới làm rơ, 
			chẳng hạn như:
 
			-  
 
			- - Cà Mau thực sự vốn là từ ngữ đọc trại từ Tưc Khmâu, (Tức là 
			nước, Khmâu là đen), chỉ định một vùng đất bồi phù sa màu đen.
 
			-  
 
			- - Sóc Trăng là do chữ Srok có nghĩa là khu vực làng xă; c̣n 
			Trăng là do chữ Tlăng có nghĩa kho vàng: Xứ kho vàng.
 
			-  
 
			- - Về địa danh Sa Đéc, th́ Sa là do chữ Phsar có nghĩa là chợ, và 
			Đéc có nghĩa là sắt, được suy diễn có thể nguyên là địa điểm chợ bán 
			hàng đồ sắt.
 
			-  
 
			- C̣n nhiều và nhiều nữa. Các địa danh nghe lạ tai được diễn giải 
			kể trên, sự thực, mang dấu vết văn hóa của người Khmer trong dân 
			gian c̣n được gọi là người Miên, hoặc nếu có cảm thấy chút phân cách 
			hơn là nói người Đàng Thổ, một sắc dân bản địa, sanh sống tại chỗ 
			trước đó, khi các đoàn quân và lưu dân Việt tháp tùng Nguyễn Hữu 
			Cảnh được Chúa Nguyễn cử vào Nam mở mang bờ cơi trong vùng châu thổ 
			sông Cửu Long. Người Khmer ở châu thổ sông Cửu Long được các nhà cổ 
			học - chủ yếu ban đầu là các nhà cổ học Pháp như George Coedes, 
			Malleret, v.v. - xác định thuộc nền văn hoá Óc Eo mà các di chỉ kiến 
			trúc cổ đă và vẫn đang được các nhà cổ học Việt Nam sau này tiếp tục 
			khai quật. Tiền nhân của người Khmer đă xây dựng nên Vương quốc Phù 
			Nam, được tiếp nối với nước Thủy Chân Lạp. Trải qua những giai đoạn 
			lịch sử tiếp xúc, va chạm, đối đầu, và an b́nh cộng cư với người 
			Việt, người Khmer có khuynh hướng sống tập trung trên các khu đất 
			giồng (khu đất cao hơn mực nước dâng trong mùa nước nổi) ở các vùng 
			ven biển ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, và Thất Sơn, có địa danh 
			Tri Tôn (nguyên là Sway Toong) giáp giới Kampuchea, đă góp phần vào 
			quá tŕnh khai khẩn và canh tác đất đai cho đến ngày nay. Hiện tượng 
			hội nhập mang tính cân bằng hai chiều được thể hiện bằng phương thức 
			Việt hoá ngữ âm du nhập các từ Khmer để duy tŕ địa danh thông dụng 
			trong dân gian Việt nói chung mà không đặt vấn đề nội dung ư nghĩa 
			cũng như gốc nguồn.
 
			-  
 
			- Bên cạnh người Khmer, không thể không kể đến người Hoa. Người 
			Hoa hẳn nhiên không phải thuộc thành phần dân bản địa như người 
			Khmer. Họ vốn là tầng lớp người không chịu thắt bím cạo đầu làm tôi 
			nhà Thanh ở Trung Hoa, nên vào khoảng cuối thế kỷ 17, đă theo Mạc 
			Cửu, đến t́m nơi ẩn trú, sẵn đà, khai khẩn đất và định cư lập nghiệp 
			tại vùng đất Hà Tiên. Trong một thời gian không lâu, nhóm người Hoa 
			lưu dân này đă mang nguồn vốn văn hoá cùng kỹ năng từ nước mẹ của 
			ḿnh, góp phần phát triển Hà Tiên thành một thương cảng tấp nập, trù 
			phú, giao dịch thương mại với bên ngoài.
 
			-  
 
			- Lướt qua nét đặc thù của vùng châu thổ sông Cửu Long qua khía 
			cạnh địa danh và đóng góp khai hoang phát triển, ghi nhận sự hiện 
			diện của người Khmer và người Hoa là hai sắc dân bản địa và lưu vong 
			tỵ nạn cùng với người Việt cộng cư khai phá khẩn hoang như trên, 
			chúng tôi muốn gợi lên một toàn cảnh để lồng vào đó h́nh ảnh làng 
			quê nhỏ bé thân thương của bản thân, trong tầm nh́n của người trong 
			cuộc, từ đó, giúp soi sáng về gốc nguồn của tôi là sắc dân Chăm mà 
			hoàn cảnh lịch sử đă đưa đẩy, lưu lạc đến định cư bên cạnh người 
			Khmer, người Hoa, người Việt tại một góc trời ở vùng châu thổ sông 
			Cửu Long trù phú bao rộng này.
 
			-  
 
			- Ngôi làng sanh quán của tôi có tên khác lạ đối với ngôn ngữ 
			Việt: làng Koh Ta Boong, trong sử sách Việt được phiên âm thành Cỏ 
			Đầm Bôn, dưới thời Pháp thuộc là Ka Tam Bong, tên gọi chánh thức của 
			một đơn vị hành chánh cấp Xă. Dịch theo tiếng Chăm, Koh có nghĩa là 
			cồn, là cù lao, c̣n Ta-boong th́ là cây gậy, ngụ ư h́nh dáng của cù 
			lao này giống như một cây gậy.
 
			-  
 
			- Châu thổ sông Cửu Long ở miền Tây Nam Nam Việt Nam là vùng đất 
			bồi do phù sa từ thượng nguồn và vùng Biển hồ trôi xuống, hàng năm 
			đều có mùa nước nổi (mùa lũ lụt), mực nước tùy năm ở một số nơi có 
			thể dâng cao lên đến ba thước, khởi đầu mùa lúa sạ; nước tràn vào 
			các cánh đồng tạo môi trường cho các loài cá nước ngọt đẻ trứng sanh 
			sôi nẩy nở, rồi đến mùa nước giựt, nước chảy ngược ra các vàm kinh 
			rạch để đổ ra biển. Dưới tác động chu kỳ của thiên nhiên, ḍng chảy 
			sông Cửu Long thay đổi theo thời gian, hai bên bờ thường diễn ra 
			hiện tượng bên lở bên bồi. Koh Ta-boong đă h́nh thành từ một cồn cát 
			nhô lên dọc theo một bên bờ Hậu giang, được vun bồi lần hồi thành 
			một cù lao, ngăn cách với đất liền bằng một con rạch.
 
			-  
 
			- Vào thập niên 1940, thời thuộc Pháp, hệ thống giao thông bằng 
			đường bộ chưa được mở mang, con tàu “sà-lúp” chạy bằng hơi nước do 
			ḷ củi, kéo những chiếc ghe chài (địa phương gọi là ghe chành) đầy 
			ắp hàng hóa từ Sài G̣n về vẫn rẽ vào con rạch này để tạm tránh những 
			ḍng nước ngược chảy siết bên ngoài sông cái. Kỷ niệm khó quên của 
			tuổi niên thiếu là mỗi khi nghe c̣i tàu văng vẳng từ xa, tôi thường 
			hối hả cùng các bạn đồng lứa tuổi ù chạy ra bờ sông, cùng ngắm nh́n 
			đoàn ghe tàu chạy qua như là một biến cố đến từ một thế giới xa lạ. 
			Hấp dẫn và hồi hộp nhứt là ban đêm, mỗi khi chiếc tàu ḍng đứng một 
			chỗ v́ ḍng nước ngược chảy quá mạnh, phải bỏ thêm củi vào ḷ. Trên 
			ống khói, th́nh ĺnh phụt lên những luồng bụi than đỏ ửng, cả bọn 
			trẻ tái mặt giựt ḿnh, nhưng liền đó, lại thích thú vỗ tay reo ḥ 
			vang dội. Trong phút chốc, đoàn ghe tàu lại mất hút ra ngoài vàm 
			sông cái, trả lại sự yên tĩnh cho thôn ấp.
 
			-  
 
			- Từ bên này bờ sông nh́n sang bên kia, không xa lắm, chỉ vào 
			khoảng 50 thước, tiếng trẻ em vui đùa vẫn vọng mồn một sang bên này 
			bờ, nhưng thực tế là hai thế giới khác biệt. Thật vậy, nhà cửa bên 
			kia sông, thường đắp nền cao rồi dựng cột và vách lên, bên trong nhà 
			có bàn thờ tổ tiên, bày biện bàn ghế, giường ngủ có chân cao. Hầu 
			như trước nhà nào cũng đều có một bàn thờ nhỏ gọn gọi là “bàn ông 
			Thiên” buổi chiều khói hương nghi ngút.
 
			-  
 
			- Bên này sông, trái lại, nhà nhà đều có sàn, cột thường bằng gỗ 
			nguyên cây tước hết vỏ và bào nhẵn, cao khỏi đầu người để phù hợp 
			với mùa nước nổi dâng cao; mặt tiền nhà nào cũng có một cái thang 
			rắn chắc bằng gỗ, và bên trong nhà hầu như không có bàn ghế, nên khi 
			khách đến nhà th́ chủ nhà thường trải chiếc chiếu hoặc tấm thảm, để 
			chủ khách cùng ngồi xếp bằng trên sàn gỗ, nhưng phải đặc biệt lưu ư 
			không được tự động vượt qua khung cửa có màn che được trang trí tuỳ 
			theo mức độ giàu nghèo của chủ nhà, ngăn cách với gian nhà trong, 
			theo tập tục, hoàn toàn dành cho đàn bà con gái sanh hoạt không lẫn 
			lộn với đàn ông con trai. Nhà cửa cất phần lớn sát vào nhau, mở cánh 
			cửa sổ bên này, có thể chuyện tṛ với nhà bên kia được, nên tạo cảm 
			giác như con người đang hợp quần co cụm lại. Cả làng hầu như không 
			có nhà nào trồng rau quả, vườn tược. Ở những nhà khá giả th́ hầu như 
			luôn luôn có dưới sàn một khung dệt vải cổ truyền, được kín đáo che 
			sau một bức màn,vốn là nơi làm việc của con gái trong gia đ́nh, vừa 
			dệt hoặc quay tơ, vừa cất lên những tiếng hát trong trẻo vừa đủ 
			nghe, nhưng hấp dẫn mănh liệt những cặp mắt hiếu kỳ từ ngoài đường. 
			Người dân bên nây bờ thường vận chăn Sa-rong vấn quanh ḿnh, dài đến 
			gót chân. Tưởng cần giải thích rơ, Sà-rong là cái chăn mặc của đàn 
			ông; c̣n phụ nữ Chăm cũng mặc chăn che phủ đến gót chân nhưng không 
			gọi là Sa-rong như được nhận thấy ở một vài bài viết về Chăm, mà 
			đúng ra th́ gọi là Khanh ngui, tức cái chăn mặc, trong số, có Khanh 
			kăk là một thứ chăn dệt công phu bằng hàng tơ lụa rất được phụ nữ 
			mến chuộng.
 
			-  
 
			- Người dân bên này bờ b́nh thường gọi người dân bên đất liền là 
			Yuôn, và ngược lại, những người Yuôn này lại gọi người dân bên cù 
			lao là Chàm, có khi là Chà, và khi có chút ǵ không bằng ḷng nhau 
			th́ gọi là Chà và, gây cấn hơn nữa, th́ là Bọn Chà và!
 
			- Người dân bên cù lao tự gọi ḿnh là Chăm, trong sanh hoạt hằng 
			ngày, sử dụng một ngôn ngữ riêng không phải tiếng Việt mà là tiếng 
			Chăm. Riêng chính người Chăm th́ cảm thấy tinh thần nhẹ nhàng tương 
			kính trong giao dịch khi được người đối thoại gọi ḿnh là Chăm. Do 
			đó, cách gọi Chăm một lúc sau này được thông dụng thay v́ Chàm.
 
			- Loáng thoáng trong giới nghiên cứu người Việt được tiếp chuyện, 
			có vị cảm thấy dị ứng về từ Yuôn, và nói theo lối thời thượng, cho 
			là “mang tính tiêu cực,” “có vấn đề.” Một đôi lần, tôi c̣n được nghe 
			một quan điểm thủ cựu, mang sắc thái đại dân tộc, diễn dịch từ Yuôn 
			là do chữ Vương, thể hiện quan hệ triều cống chư hầu giữa triều đ́nh 
			Đại Việt và triều đ́nh Champa trong lịch sử. Ngược lại, quan điểm 
			mang tính đấu tranh th́ cho rằng từ Yuôn mang tính hiềm khích oán 
			hờn từ phía người Chăm nặng tinh thần dân tộc cực đoan, cũng không 
			c̣n thích hợp với bây giờ nữa. Một công tŕnh biên soạn công phu mà 
			bản thân tôi rất trân quư, dưới quyền chủ biên của giáo sư Bùi Khánh 
			Thế với Nhóm biên tập gồm hai học giả trẻ người Chăm gốc Ninh Thuận, 
			quyển “Từ điển Việt Chăm,” do Nhà Xuất bản Khoa học Xă hội xuất bản 
			năm 1996, đă ghi là Piệt- Chăm thay v́ Yuôn-Chăm đúng theo từ ngữ 
			được lưu truyền trong dân gian. Thực tế, trong câu chuyện trao đổi 
			hằng ngày với nhau, người Chăm khắp các vùng tại Việt Nam và cả 
			người Chăm ở Kampuchea vẫn gọi người Việt là Yuôn một cách hồn 
			nhiên, không thấy có chút mặc cảm khác lạ ǵ xen vào cả.
 
			-  
 
			- Vào cuối thập niên 1940, thời thuộc Pháp, xă hội người Chăm ở 
			Koh Taboong c̣n rất khép kín; không có nghĩa khép kín về mặt địa lư, 
			bởi lẽ làng Koh Taboong quê tôi không có hàng rào bao quanh, cách 
			biệt với xă hội bên ngoài như một số thôn làng Chăm c̣n tồn tại ở 
			Ninh Thuận và B́nh Thuận, nguyên đă trải qua những giai đoạn đối đầu 
			xung đột với quan quân triều đ́nh Đại Việt, gây chết chóc đẫm máu 
			kết liễu sự hiện tồn của vương quốc Champa vào đầu thế kỷ 19. Hiện 
			tượng khép kín ở đây thực chất là do nhu cầu hiện tồn căn sắc truyền 
			thống Chăm, vốn được gắn chặt trong tim óc, phát xuất từ nề nếp sinh 
			hoạt Islam, tập tục, tín ngưỡng, nói chung, vào nền văn hoá của 
			riêng sắc dân ḿnh, không hoàn toàn tương đồng với nền văn hoá của 
			xă hội bao quanh. Do thiếu giao lưu về văn hóa và xă hội, giữa người 
			Chăm bên này bờ và người Yuôn bên kia bờ rạch, dưới tác động của 
			tinh thần phân chia “ta và họ” nói chung, đều có ít nhiều thành kiến 
			với nhau về một số mặt thực tế trong nề nếp sinh hoạt hằng ngày. Cụ 
			thể, người Yuôn dùng đũa ăn cơm th́ bị người Chăm chê là Đấng Tạo 
			hóa đă tạo ra bàn tay cho con người sử dụng, th́ tại sao lại đi dùng 
			hai chiếc đũa để gắp thức ăn, tựa hồ như xeo nạy (cha-kơh) khó coi 
			trong khi các thức ăn này đều phải được xem là rizki, tức ân phước 
			của Đấng Tạo Hóa Allah ban cho như vậy?
 
			-  
 
			- Ngay cả bản thân tôi, ở buổi đầu khi có điều kiện ra khỏi xóm 
			làng đi sanh sống hội nhập vào xă hội bên ngoài, tôi vẫn cảm thấy có 
			những mặt không ổn trong vấn đề này. Măi về sau này, tôi mới lấy lại 
			được phần nào tự tin trong đánh giá tập tục, nhất là vào năm 1964 
			khi có dịp tham dự buổi tiếp tân khoản đăi chánh thức nhân Hội nghị 
			các nước Hồi Giáo Đông Nam Á và Viễn Đông lần đầu tiên do Chánh Phủ 
			Malaysia tổ chức ở Kuala Lumpur, cả chủ nhà bao gồm cả cố Thủ Tướng 
			Malaysia Tungku Abdul Rahman và khách các nước đều cùng ngồi xếp 
			bằng trên nền nhà, cùng thoải mái ăn bốc theo một phong cách tự 
			nhiên không khác ǵ tập tục ăn bốc của người Chăm tại làng quê Koh 
			Taboong của tôi cả. Các mặc cảm trong người tôi lúc ấy mới nhẹ nhàng 
			được giải toả và tôi mới được rơ dứt khoát không thể nói bên nào văn 
			minh bên nào lạc hậu cả; người Yuôn và người Chăm thuộc hai nền văn 
			minh khác biệt nhau, một bên được mệnh danh là nền văn minh đôi đũa, 
			một bên là nền văn minh bốc tay. Ngoài ra, c̣n một nền văn minh khác 
			đă được ghi nhận trong một buổi tiếp chuyện nhân Hội nghị quốc tế kể 
			trên, đó là nền văn minh muổng nĩa của Âu Tây.
 
			-  
 
			- Trở lại với làng quê Koh Taboong thời thơ trẻ của tôi, cả làng 
			từ đầu vàm trở vào, đều chỉ có khoảng một ngàn ngôi nhà người Chăm 
			cất san sát nhau hai bên đường, và đến cuối làng mới có nhà người 
			Việt. Toàn bộ thế giới thời thơ trẻ của tôi hầu như hoàn toàn gói 
			ghém trong ngôi làng b́nh dị thôn dă này.
 
			-  
 
			- Ông thân sanh của tôi là giáo viên duy nhứt trường sơ học phổ 
			thông trong làng nên một ḿnh phải phụ trách luôn cả ba lớp một, hai 
			và ba [vào thời đó, gọi là lớp đồng ấu (cours enfantin), lớp dự bị 
			(cours préparatoire) và lớp sơ đẳng (cours élémentaire)]. Sau đó, 
			muốn tiếp tục học th́ học sinh phải lên trường tỉnh Châu Đốc, cách 
			làng khoảng bốn cây số. Trong số học sinh đến trường, dĩ nhiên chỉ 
			học Pháp văn, có một số học sinh người Việt nhà ở đầu làng, cho nên 
			trong các tṛ chơi ngoài lớp, tôi có dịp học và nói bập bẹ tiếng 
			Việt, một thứ tiếng Việt thường được diễn dịch theo từng chữ tiếng 
			Chăm, chẳng hạn, chúng tôi nói “tắm nước” thay v́ “tắm,” “đứt tim” 
			thay v́ “gan dạ,” các bạn học người Việt nghe lâu ngày rồi cũng 
			quen.
 
			-  
 
			- Tại các lớp trong làng kể trên, tôi cũng được học một thứ chữ 
			Chăm viết theo mẫu tự la tinh, ráp vần theo tiếng Pháp, tôi thấy rất 
			dễ đọc và dùng để diễn dịch ư tưởng bằng tiếng Chăm cội nguồn. Thứ 
			chữ này được h́nh thành do óc sáng tạo của một nhân vật nổi tiếng 
			trong giới người Chăm Châu Đốc vào thập niên 1940 là cụ cố Kim Sop, 
			nhờ gia đ́nh giàu có, được học trường Tây, làm Thông phán tại Ṭa Án 
			Châu Đốc. V́ chữ Chăm thông dụng phiên âm bằng mẫu tự A Rạp đang 
			được thông dụng, thứ chữ Chăm la tinh này không mấy được các bậc phụ 
			huynh quan tâm, nên không tích cực khuyến khích các con em học. 
			Nhưng riêng phần tôi và một vài bạn học th́ thấy thích thú, nhứt là 
			trong tập sách, cố Kim Sop đă cho in một vài mẫu chuyện làm bài đọc 
			thêm, và sau này lớn lên tôi mới biết là thuộc văn học dân gian 
			Chăm, như bài “Chim Chhơng” đồng thời cũng là một thể ca ngâm chất 
			chứa nhiều thi vị mà tôi nhớ nằm ḷng cho măi đến tuổi thất thập 
			này.
 
			- Hầu như tất cả các bạn học Chăm đều nghỉ học khi hoàn tất lớp 
			cuối cùng trong làng. Bị ám ảnh trong mặc cảm e sợ con cái jưng yuôn 
			(biến thành người Việt), phần lớn các bậc cha mẹ đều e ngại, khi cho 
			chúng lên học trường tỉnh, th́ sẽ sống theo người Việt, không c̣n 
			theo nề nếp sống của xóm làng, nặng về tín ngưỡng Islam, trong đó, 
			có một số kiêng cữ rất nghiêm ngặt như tuyệt đối cấm (harăm) ăn thịt 
			heo, cấm uống rượu, cấm trai gái vụng trộm ngoài hôn nhân, v.v... 
			Thực tế hơn nữa, đàn ông bé lớn đều cạo đầu và khi tham gia sanh 
			hoạt trong làng th́ đều đội mũ bằng nỉ màu đen, c̣n người lớn th́ 
			đội mũ trắng hoặc chit khăn Haji chứng tỏ là người đă đi hành hương 
			ở Thánh địa Makkah bên nước A Rạp Sau Đi, được thôn làng tôn kính 
			như các bậc trên trước. Cho nên, khi một người đi làm ăn xa mà để 
			tóc dài trở về làng mang theo một ít phong cách phóng túng không 
			thích hợp th́ không phải chỉ bản thân người đó mà c̣n cả gia đ́nh 
			phải chịu những lời đàm tiếu, bà con lên án.
 
			-  
 
			- Sanh hoạt thường ngày của xóm làng xoay quanh một ngôi giáo 
			đường gọi là masjid nằm giữa làng, kiến trúc có những nét gợi nhớ 
			quang cảnh bên kia trời Trung Đông, bao gồm một nóc ṿm và đài tháp 
			lạ mắt, được nhận ra từ xa. Ngôi giáo đường này, người Việt sống ở 
			lân cận vẫn quen gọi là “chùa Chàm,” nhưng ở đây, kiến trúc và trang 
			trí bên trong cho thấy chỉ là một ngôi nhà khang trang để bổn đạo tụ 
			họp dâng lễ nguyện tập thể và nghe thuyết giảng vào ngày thứ sáu 
			trong tuần, thể hiện sự tôn thờ Đấng Tạo Hóa Allah nên không có pho 
			tượng thờ nào cả ngoài chiếc bục đơn giản có ba bậc như nấc thang 
			nằm sát bên trong cùng. Mỗi ngày năm lần, khi trời rựng sáng, trưa 
			ngọ, xế chiều, chạng vạng và trở về khuya, chính từ ngọn tháp kể 
			trên, phát ra một hồi trống và tiếp theo là lời ngân nga kêu gọi đến 
			giáo đường dâng lễ nguyện vang đi rất xa, điều ḥa cuộc sống hằng 
			ngày của người dân.
 
			-  
 
			- Bên cạnh giáo đường, có một trường gọi là Madrasah dạy đọc kinh 
			Qur’An bằng chữ A Rạp nguyên gốc và có cả lớp dạy chữ Mă Lai giảng 
			giải nội dung kinh sách và giáo lư Islam. Các bậc phụ huynh thích 
			cho con em ḿnh học các trường lớp này, và thường hănh diện về thành 
			tích con em đạt được nhứt là khi chúng trổ tài đọc Thiên kinh Qur’An 
			trong các sanh hoạt tập thể của xóm làng.
 
			-  
 
			- Bản thân tôi đă bị tŕ kéo giữa hai khuynh hướng, nhứt là khi đă 
			đến lúc phải chuyển lên trường tỉnh tiếp tục học lớp nh́ (cours 
			moyen). Mẹ tôi là một người đàn bà Chăm không biết một chữ a, b, 
			c... nhưng lại rất thông thạo kinh Qur’An viết bằng chữ A Rạp. Được 
			hậu thuẫn của ông bà ngoại, mẹ tôi muốn cho tôi nghỉ học trường phổ 
			thông và chuyển sang học ở trường lớp tại giáo đường như các đứa bé 
			Chăm khác trong làng. Ngược lại, cha tôi, có chút ít căn bản Tây 
			học, nhứt quyết phải cho tôi lên trường tỉnh tiếp tục học. Sự bất 
			đồng ư kiến giữa cha mẹ chúng tôi khá gay go và kéo dài, sau cùng đă 
			chấm dứt bằng một giải pháp dung ḥa; tôi được tiếp tục đi học 
			trường tỉnh, nhưng những ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày lễ, tôi phải 
			đi học chữ Mă Lai và A Rạp tại trường lớp của giáo đường.
 
			-  
 
			- Lên trường Tỉnh học, v́ vào cuối thập niên 1940 chưa có cây cầu 
			bắt ngang con rạch như sau này, người lớn trong nhà, thường là bà 
			ngoại hoặc mẹ tôi phải bơi xuồng đưa tôi sang bên kia bờ rạch, một 
			bước kế tiếp tạo điều kiện cho tôi mở rộng môi trường tiếp xúc với 
			thế giới bên ngoài với những kỷ niệm khó quên.
 
			-  
 
			- Koh Taboong là một trong bảy làng Chăm Châu đốc. Ngoài Koh 
			Taboong là làng chôn nhau cắt rún của tôi, c̣n có sáu làng Chăm khác 
			là Mat chruk, Koh Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, Koh Ghoi, Koh Kaghia, 
			Sabâu, với địa danh Việt tương ứng là Châu Giang, Đa Phước, Châu 
			Phong, La Ma hoặc Vĩnh Trường, Búng lớn hoặc Búng B́nh Thiên, Đồng 
			Cô Ky.
 
			-  
 
			- Phần lớn các địa danh tiếng Chăm kể trên khởi đầu bằng từ “Koh” 
			có nghĩa là cù lao, cho thấy phần lớn các làng Chăm Châu Đốc đều nằm 
			trên các cù lao trên ven sông Cửu Long:
 
			- - Gọi là Koh Kaghia v́ cù lao này được đánh dấu bằng hàng cây 
			sao, một giống cây, gỗ rất chắc mà người Chăm dùng làm cột nhà sàn 
			hoăc đóng ghe xuồng.
 
			-  
 
			- - Về Koh Goi, có vài lối diễn dịch khác nhau tại địa phương, cần 
			được nghiên cứu xác định sau này.
 
			-  
 
			- - Sở dĩ gọi là Koh Kaboăk v́ xóm này chuyên dệt và mua bán tơ 
			lụa, hầu hết dân cư đều từ Plây Kênh ở bên bờ đối diện chuyển qua, 
			do nạn bên lở bên bồi của ḍng sông Cửu Long.
 
			-  
 
			- Về địa danh Plây Kênh, dịch nghĩa là “xứ con kênh,” do nhà cửa 
			làng này nằm dọc hai bên bờ một con kênh đào dẫn nước từ bờ Hậu 
			giang trổ ra phía Tân Châu. Trong dân gian, người ta thường gọi là 
			Gah Kênh thay v́ Plây Kênh; Gah là “bên.” Cùng thuộc Gah kênh này, 
			có một ấp nằm ngoài bờ sông cái gọi là Puk Pa-ok; Pa-ok tiếng Chăm 
			là cây xoài, nên trong tiếng Việt gọi là “Hàng xoài.” Và cũng từ 
			tiêu chuẩn để nhận diện bằng hàng cây xoài này, mà tên làng Plây 
			kênh thời Pháp thuộc mới được ghi trên giấy tờ hành chánh là Phum 
			Soài (“soài” viết s). Phum là từ ngữ khmer có nghĩa là làng, cho 
			thấy xuất xứ Khmer của làng này. Địa danh Phum soài, về sau, đă dược 
			đổi thành tên Việt là Châu Phong.
 
			-  
 
			- Trong số các tên làng kể trên, có lẫn lộn Mat Chruk là chữ Khmer 
			chớ không phải chữ Chăm, có nghĩa là “mơm con heo,” do địa thế của 
			làng này nằm ở một bên bờ sông Cửu Long đổ từ Nam Vang xuống, tẻ ra 
			làm hai nhánh, khiến một bên bờ trông tợ như mơm con heo vậy. Mặc 
			dầu người Chăm không ăn thịt heo, trong dân gian vẫn dùng tên gọi 
			này. Sự lẫn lộn từ ngữ khmer vào tên gọi làng Chăm càng gợi thêm cho 
			tôi sự ṭ ṃ t́m hiểu, để biết rằng đất Mat Chruk cũng như các làng 
			Chăm khác tại đây ngày xưa là vùng đất Thủy Chân Lạp và từ “Mat 
			Chruk” là địa danh đă sẵn có từ trước khi người Chăm đến định cư. 
			Địa thế bảy làng Chăm kể trên không liền nhau, nhưng cùng nằm dọc 
			theo hai bên bờ sông Cửu Long trải dài đến giáp giới với Kampuchea 
			cho thấy đă được bố trí theo mục tiêu chiến lược pḥng thủ, có tính 
			toán và cân nhắc rơ rệt.
 
			-  
 
			- Vào thập niên 1940 thuộc Pháp, làng Koh Taboong về mặt hành 
			chánh, được đặt dưới quyền cai trị của một Ban Hội tề như các làng 
			xă khác, gồm đủ các chức việc. Tất cả đều là người Chăm ngoại trừ 
			Chánh lục bộ chuyên trách bộ đời là một cụ già người Việt nhà ở đầu 
			làng. Cố thân sinh tôi do là giáo viên làng, thực tế phải trở thành 
			một nhân vật trung tâm được xóm làng đến nhờ thảo dùm từ các văn thư 
			giao dịch với chánh quyền.
 
			- Sáu làng Chăm khác cũng ở vào t́nh trạng tương tự, đều thiếu 
			người rành chữ Pháp và chữ Việt, nhưng điều nghịch lư là làng nào 
			cũng thừa người có tŕnh độ đào tạo về chữ A Rạp và chữ Mă Lai.
 
			-  
 
			- Thêm một điều nghịch lư nữa, nhưng lần này lại là do nhà cầm 
			quyền thuộc địa Pháp. Đó là việc bổ nhiệm vào năm 1943 một chức vụ 
			lănh đạo cộng đồng người Chăm tại bảy làng này với chức vụ Saykhol 
			Islam, Chef des Malais. Saykhol Islam là một chức vụ lănh đạo do nhà 
			cầm quyền thuộc Anh đặt ra ra tại bang Trengganu, Malaysia, nay nhà 
			cầm quyền thuộc địa Pháp mang áp dụng tại Châu Đốc, nhưng ghi là 
			Chef des Malais, lờ đi không nhắc ǵ đến căn sắc Chăm cả. Sự thực, 
			tại một khu vực mệnh danh là Mubarak của làng Châu Giang ở ngay tại 
			bến phà từ tỉnh lỵ Châu Đốc ngó qua, có một tập thể gốc Mă Lai trong 
			dân gian gọi là người Java Ku mà ngôn ngữ thường ngày không phải 
			tiếng Chăm mà là tiếng Khmer trộn lẫn với tiếng Mă Lai. Cố Haji 
			Tangkhao Mat là người Java Ku này đă được bổ nhiệm làm Saykhol Islam 
			đă được chọn trong số những người có sản nghiệp và có uy tín, trên 
			nguyên tắc, có vai tṛ phối hợp các vị lănh đạo Islam của từng làng 
			Chăm gọi là Hakim điều hành cộng đồng, chuyên trách xử lư các tranh 
			chấp về giáo lư Islam. Do cộng thêm ảnh hưởng từ Mă lai về khuôn mẫu 
			hành đạo Islam thông qua các Tuôn là các thầy dạy kinh sách, có một 
			thời gian nhiều thập niên, căn sắc Chăm của các làng Chăm bề ngoài 
			bị lu mờ, tạo nên một khuynh hướng trong dân gian đa số ít học, chỉ 
			muốn tự coi ḿnh là người Mă Lai, nhất là trong giới phụ nữ trong 
			chăn áo, khăn đội đầu, mỗi mỗi đều cùng nhau hướng về Mă Lai, chạy 
			theo thời trang để mua sắm.
 
			-  
 
			- Trong bối cảnh bề ngoài chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Mă Lai, 
			nặng về tôn giáo Islam như trên, tinh thần dân tộc Chăm ở đây vẫn 
			c̣n rất mănh liệt, nhưng âm thầm lặng lẽ trong dân gian. Qua sự tôn 
			kính dành cho một vài nhân vật Chăm nổi danh với một số thành tích 
			đôi khi được chuyển thành huyền thoại ly kỳ hấp dẫn trong một số 
			t́nh huống mang tính pḥ trợ hoặc cứu nguy người dân. Sự tôn kính 
			này được thể hiện ở sự đặc biệt chăm sóc bảo tŕ một vài nấm mồ gọi 
			là Maqam chẳng hạn như ở Koh Taboong có Maqam Tôk Ahmad nằm ở vị trí 
			bên ngoài sông cái Hậu giang cách xa làng này khoảng hai cây số, chỉ 
			có dân cư Việt sống kế cận, được suy đoán có lẽ người Chăm trước có 
			cư ngụ tại đây nhưng sau đó đă dời cư về vị trí hiện nay, để được 
			bảo vệ an toàn trước thiên nhiên sông nước hơn.
 
			-  
 
			- Trong sinh hoạt dân gian, ngoài những buổi lễ nguyện tập thể ở 
			giáo đường, nhiều đêm dưới ánh đèn dầu, bên cạnh khung quay sợi, 
			hoặc một vài ngựi lớn lặng lẽ đan vá lưới, trên nhà sàn, bọn trẻ 
			thường tụ họp đến nghe các cụ già kể chuyện đời xưa rất thích hợp 
			với khối óc dồi dào tưởng tượng của thời thơ trẻ. Không biết bao 
			nhiêu lần, tôi đă theo dơi, với những t́nh tiết đầy sống động, câu 
			chuyện ông vua say mê sắc đẹp mỹ nhân ra đốn cây krêk là cây thần 
			thủ giữ nền tảng Nagar Chăm để rồi phải bị nước mất nhà tan. Hấp dẫn 
			với nhiều pha gây cấn nhứt là các đoạn mô tả thời chiến chinh phải 
			bồng bế nhau trốn giặc cùng những trận chiến ác liệt làm nổi bật một 
			số nhân vật anh hùng người Chăm, nhưng giặc đó là giặc nào th́ người 
			kể không bao giờ nói rơ.
 
			-  
 
			- Trong xóm, chỉ có một vài cụ già, khi được hỏi, mới trang trọng 
			đưa ra cho xem những tờ giấy vàng xưa cũ có những ḍng chữ nói là 
			akhar tapuk, chữ Chăm cổ không c̣n thông dụng nữa, nhưng được cất 
			rất kỹ, hiếm thấy cho con cháu biết, v́ hầu như đă trở thành một 
			thời trang, con cháu chỉ được khuyến khích học kinh sách viết bằng 
			chữ A Rạp và chữ Javi Malayu.
 
			-  
 
			- Trong hành tŕnh soi rọi cội nguồn dân tộc, tôi đă được các bô 
			lăo ngồi say sưa kể cho nghe những giai thoại bi thương c̣n được lưu 
			truyền về cuộc dời cư lịch sử của người Chăm từ vùng Phan Rí (Ninh 
			Thuận) dưới trào của một vị vua cuối cùng là Pô Chơn, không chịu nổi 
			chánh sách đàn áp khắc nghiệt của Vua Yuôn là Minh Mạng nhà Nguyễn 
			để sang lánh cư trên đất Kampuchea, buổi đầu xoay quanh vùng lấy tên 
			là Kampong Cham, đa số tiếp tục nghề đánh cá vùng Biển Hồ, nguyên là 
			nghề truyền thống của cha ông. Nghề truyền thống này không c̣n điều 
			kiện tồn tại trên mảnh đất quê hương cội nguồn Chăm ở miền Trung 
			Việt Nam ngày nay nữa. Những thôn làng người Chăm ngày nay tại Ninh 
			Thuận và B́nh Thuận đều ở sâu vào vùng đất liền, xa bờ biển. nên đa 
			số người dân chuyên về canh tác nông nghiệp hoặc chăn nuôi.
 
			-  
 
			- Có một chi tiết mà tôi được nghe lặp đi lặp lại nhiều lần là: 
			“Ngày xưa, người Chăm ḿnh có đất nước (tanưh ea) tên là Chămpa, 
			người yuôn gọi là Chiêm Thành.” Có cụ già c̣n xác định một cách thật 
			thà, và được một vài cụ khác gục gặc đầu thích thú tán đồng với rất 
			nhiều chân t́nh và tự hào, hẳn nhiên là bằng tiếng Chăm mẹ đẻ của 
			tôi: “Thật ra, không phải Chiêm Thành đâu, mà là ‘Chiến thắng’ đó; 
			người Chăm ḿnh ngày trước đánh giặc giỏi lắm, đánh trận nào là 
			thắng trận đó, nên gọi là ‘Chiến thắng’!”
 
			-  
 
			- Bọn trẻ nghe, đứa nào cũng lấy làm thích thú. Đến khi lớn khôn 
			t́m hiểu, tôi mới biết lời khẳng định đó vốn sai lạc do nhiều tưởng 
			tượng. Nhưng điều làm cho tôi xúc động khắc ghi măi trong ḷng và 
			nghĩ ngợi miên man là sự tưởng tượng đó thực sự đă xuất phát từ tận 
			đáy ḷng, từ con tim, của những con người bản tánh chơn chất mộc 
			mạc, đă cùng các đồng tộc trải qua bao giai đoạn thăng trầm của cuộc 
			sống, nghĩ sao nói vậy về gốc nguồn cách xa của ḿnh. Sau này, khi 
			có điều kiện tiếp xúc và hội nhập vào xă hội bên ngoài, tôi càng 
			thấy thấm thía hơn khi nhận ra đó là niềm tự hào hồn nhiên tiềm ẩn 
			sâu đậm trong tận tim óc về bản sắc dân tộc Chăm của ḿnh, và niềm 
			tự hào đó là chung cho mọi người, cho toàn nhân loại, chớ không phải 
			cho riêng một dân tộc với một tŕnh độ văn minh nào.
 
			-  
 
			- Cuộc dời cư của người Chăm từ đất Kampuchea về đến đất Châu Đốc 
			vốn là một cuộc hành tŕnh gian nan đă được các nhà biên khảo Pháp 
			ghi lại một phần trong lịch sử Vương quốc Khmer, cho thấy người Chăm 
			dời cư sang đất Khmer bao gồm nhiều thành phần lănh đạo, đă từng cầm 
			quân chiến đấu, nên xoay sở tác động vào nội t́nh hoàng gia Khmer 
			khi thắng khi bại. Đến năm 1782, một lănh đạo Champa là Đon Set xua 
			quân từ Thabaung Khmum tiến đánh kinh đô U-đong khiến Hoàng gia 
			Khmer phải lánh chạy sang nước Xiêm, tạo điều kiện cho người Chăm 
			thiết lập các khu định cư riêng biệt tại Phnom Penh, Chruy Chagwar 
			là một cù lao nằm chắn ngang sông Mekong và Tonle Sap, tồn tại đến 
			ngày nay. Nhưng sau đó Đon Set đă bị giết chết. Năm 1858, vua Khmer 
			đóng đô ở U Đong lại bị người Chăm giết chết, khiến vua Hariraks 
			điều quân đến Thabaung Khmum đánh phá giết hại, người Chăm phải 
			nương nhau theo ḍng sông Cửu Long thoát thân về phía Nam, xuống đến 
			tận Mat Chruk tức Châu Giang trước c̣n thuộc lănh thổ Khmer lúc đó 
			đang bị quân Việt chiếm đóng. Sau đó không lâu, vẫn trong năm 1859, 
			người Chăm ở Mat Chruk đă quay trở lại đất Kampuchea tổ chức di 
			chuyển khá nhiều đồng tộc Chăm về sanh sống tại Mat Chruk, được hiểu 
			là “đất lành, chim đậu,” người Chăm đă được triều đ́nh Đại Việt chấp 
			nhận cho định cư tại địa phương vùng giáp giới Kampuchea, giao bố 
			trí thiết lập một số đồn luỹ mang tính pḥng thủ chiến lược, đúng 
			như các vị trí thường ở các đầu vàm c̣n tồn tại đến ngày nay. Nhiều 
			người Chăm đă được triều đ́nh nhà Nguyễn tuyển dụng làm thân binh 
			sẵn sàng vận dụng tài thao lược truyền thống của ḿnh khi cần. Khi 
			Thoại Ngọc Hầu khởi công đào kinh Vĩnh Tế chạy dài dọc theo biên 
			giới Miên-Việt, trổ ra đất Hà Tiên, người Chăm đă được huy động sung 
			vào lực lượng bảo vệ an ninh tạo điều kiện cho dân phu có thể làm 
			việc cực lực suốt ngày đêm, và họ đă chứng tỏ hoàn thành tốt nhiệm 
			vụ trọng yếu này.
 
			-  
 
			- V́ làng Châu Giang nằm bên kia bờ Hậu giang đối diện với Châu 
			Phú, tỉnh lỵ Châu Đốc, nên trong dân gian, người Việt c̣n gọi chung 
			người Chăm ở đây, là “Chà Châu Giang.” Những người Chăm mưu sinh 
			bằng nghề quảy trên vai gói hàng vải tơ lụa đi bán dạo khắp cùng các 
			nẻo đường vùng châu thổ sông Cửu Long cũng thường được dân gian gọi 
			như vậy. Sự thực, tên gọi “Chà Châu Giang” không đúng, v́ Châu Giang 
			chỉ là tên một làng.
 
			-  
 
			- Tên gọi mang tính phổ biến và được chấp nhận và sử dụng rộng 
			răi trong dân gian xưa nay là tên gọi “Chăm Châu Đốc” dân số trước 
			năm 1975 được ghi nhận là 12.000 người, nay được cho biết đă tăng 
			lên đến khoảng 20.000 người..
 
			-  
 
			- Vốn được tiếp xúc với nhà văn B́nh Nguyên Lộc ở toà soạn Bách 
			Khoa do anh Lê Ngộ Châu làm chủ nhiệm, tôi đă có dịp trao đổi sôi 
			nổi nhưng vô cùng hữu ích và lư thú về văn hoá, ngôn ngữ người Chăm, 
			có đề cập đề tài “Chà Châu Giang” nhất là sau khi tôi có bài góp ư 
			về quyển “Lột trần Việt ngữ” đă được xuất bản tiếp sau quyển “Nguồn 
			gốc Mă Lai của Dân tộc Việt Nam.”
 
			-  
 
			- Nhân cuộc trao đổi trên, học giả Nguyễn Văn Hầu vốn là tác giả 
			quyển kư sự có giá trị biên khảo trung thực nói về chuyến viếng thăm 
			vùng Thất Sơn Châu Đốc cũng đă dựa vào sử sách Việt, xác định một số 
			người Chăm đă có mặt tại Châu Đốc bên cạnh người Việt trước khi nhóm 
			người Chăm từ Nam Vang kéo xuống.
 
			-  
 
			- V́ chế độ xuất bản vào năm 1973 không cho phép tờ Bách Khoa Thời 
			Đại đánh số xuất bản định kỳ và ngày tháng như thường lệ, nên không 
			thể ghi nguồn các bài viết kể trên. Chỉ xin nhắc lại ở đây như là 
			một kỷ niệm trong khung tản mạn biểu tỏ chút tâm tư của đề bài.
 
		 
		  
		DOHAMIDE 
		Dohamide, dân tộc Chăm, sinh năm 1934 tại Kok 
		Taboong, Châu Đốc. Tốt nghiệp Thủ khoa Ban Cao Nguyên và Ban Đốc Sự Hành 
		Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. M.A. chánh trị học, Đại học Kansas Hoa 
		Kỳ. Sáng lập Hiệp Hội Chàm Hồi giáo Việt Nam. Đại biểu Islam Việt Nam 
		tham dự Hội Nghị các nước Islam Đông Nam Á và Viễn Đông tại Kuala Lumpur 
		1964, Hội nghị Islam Thế giới tại Thánh địa Makkak, A Rạp Sau Đi 1972. 
		Hiện định cư tại OC, Nam California. Đă xuất bản: Dân Tộc Chăm Lược sử, 
		Bangsa Champa: T́m Về Với Một Cội Nguồn Cách Xa... Viết cho các báo Bách 
		Khoa, Thế Kỷ 21. 
		(Thế kỷ 21) 
		
		
		Người Chăm Châu Đốc
		
		
			
				
					 
  
				
					
						 
  
					Một 
					trong những dân tộc khác góp phần không nhỏ vào nền văn hóa 
					phong phú của miền tây là người Chăm, c̣n có tên gọi khác là 
					Chàm, Chà, Mă Lai, Java Kur... cư trú chủ yếu ở thành phố Hố 
					Chí Minh và An Giang. 
				
				
				Người Chăm ở An Giang có nguồn 
				gốc từ Chăm Pandurangga ở miền Trung. Trong quá tŕnh mở rộng 
				đất nước và do các biến cố lịch sử, thế kỷ thứ 14 – 16 họ di dân 
				qua Cam Pu Chia. Sau đó xuôi theo ḍng Mê Kông vào miền Nam ở 
				vào khảng thế kỉ 18. Tại Cam pu chia có Vùng đất Kong Pong Cham, 
				tên gọi nghĩa là “đất trú chân của người Chăm”. Ngày nay, cộng 
				đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng giữa nửa triệu đến một 
				triệu tạiCampuchia, 
				sau đó là cộng đồng tại Việt Nam với gần 80.000 người. Tại Châu 
				Đốc, cộng đồng Chăm tập trung tại vùng Châu Giang.
 
				
 
					
					                          Thánh đường Islam tại làng Châu 
					giang 
				Đặc điểm người Chăm Châu 
				Đốc – An Giang là theo Hồi Giáo, sống quần cư quanh các thánh 
				đường tráng lệ. người Chăm Châu Đốc sống chủ yếu nhờ nghề cá, họ 
				biết buôn bán. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải 
				sợi bông. 
				Nhà cửa của 
				người Chăm Việt 
				Nam hầu như có 
				rất ít đặc điểm giống nhà của các cư dân Malayô - Pôlinêxia nào 
				khác. Nhà người Chăm ở An Giang có cách tổ chức mặt bằng sinh 
				hoạt c̣n phảng phất cái h́nh đồ sộ của nhà thang yơ ở B́nh 
				Thuận. Riêng nhà người Chăm ở Châu Đốc: Khuôn viên của nhà Chăm 
				Châu Đốc không c̣n nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết 
				hợp thành h́nh thước thợ. Chuồng trâu ḅ được làm xa nhà ở. Nhà 
				ở là nhà sàn, chân rất cao để pḥng ngập lụt. Cách bố trí trên 
				mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở B́nh Thuận cũng như 
				ở An Giang
 
				
				
				                                         Nhà sàn truyền thống
				Trang phục của 
				người Chăm Châu 
				Đốc cũng rất độc đáo. V́ cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ 
				lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là 
				lối tạo h́nh áo (khá điển h́nh) là lối khoét cổ và can thân và 
				nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa 
				làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy 
				ở đây duy nhất là tộc c̣n thấy nam giới mặc váy ở nước ta với 
				lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
				Trang phục nam: 
				đàn ông quấn xà rông và đội mũ đạo hồi có thêu. Trang phục cổ 
				truyền là chiếc váy và quần.
				Trang phục nữ: Về 
				cơ bản, phụ nữ Chăm thường đội khăn, hoặc phủ trên mái tóc hoặc 
				quấn gọn trên đầu. Họ hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại 
				khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Đôi khi c̣n có mạng che 
				mặt c̣n (khăn Matr’a). 
 
				
				
				                                 Trang phục truyền thống nữ
				
				
 
				
				
				                        Trang phục truyền thống nam
				Âm nhạc của người Chăm Nam Bộ không 
				có múa, không sử dụng bất kỳ nhạc khí nào ngoài bộ gơ : trống 
				Thummạ, vốn là đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp Nam Á. Đôi 
				bàn tay điêu luyện của người nhạc công vừa vỗ hai đầu trống để 
				đệm cho người ca sĩ hát hoặc vừa tự đệm vừa hát. Tiếng trống 
				biến ảo, tài t́nh có thể cất lên mọi tiết tấu âm nhạc. Những 
				khúc ca của người Chăm bao giờ cũng viết bằng điệu thức thứ trầm 
				lắng, như thánh lễ, dịu dàng. 
 
					Ḍng sông Điên Điển 
				
					Hai nhánh nước 
				
					cánh tay trời vạm vỡ 
  
				
					Ru chàng trai Chăm 
				
					dựng miền Nam 
				
					Không đuổi giặc với thanh 
					gươm 
				                            Mà 
				mở đất với trống bina 
		 
		Nguồn: putrachampa  |