|   | 
		
 
		12/08/18  
		Sự 
		thành h́nh của Nam Kỳ Lục Tỉnh tức vùng Đồng Nai Cửu Long 
		 
		Cập nhật lúc 12:54:41 PM - 04/01/2009 
		Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm 
		 
		LTS: Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm là chủ tịch hội Lăng Ông - Lê Văn 
		Duyệt Foundation. Ông tŕnh bày bài thuyết tŕnh sau đây nhân ngày khai 
		mạc Tuần Lễ Văn Hóa Miền Nam tại Hội Tả Quân Lê Văn Duyệt Foundation vào 
		trưa thứ Bảy, ngày 3 tháng Giêng 2009. 
		 
		Tuần Lễ Văn Hóa Miền Nam mở cửa trong tuần từ 11 giờ trưa đến 7 giờ 
		chiều, cuối tuần từ 10 giờ sáng đến 6 giờ chiều, cho đến ngày 10 tháng 
		Giêng. Chương tŕnh gồm có triển lăm văn hóa, các bài nói chuyện của các 
		diễn giả, và văn nghệ. Trụ sở mới của Hội tọa lạc tại 15361 Brookhurst 
		St #207, Westminster, CA 92683. Điện thoại (714) 721-0878. 
		 
		Để quư độc giả tiện tham khảo, Nhật báo Viễn Đông đăng tải nguyên văn 
		bài thuyết tŕnh của Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm. 
		 
		*** 
		 
		 
  
		  
		Đồng Nai Cửu Long là tên hai hệ thống sông lớn ở 
		Miền Nam nước Việt. Khi nói vùng Đồng Nai Cửu Long là người ta muốn nói 
		đến tất cả các tỉnh nằm trong vùng đất bao quanh hai hệ thống sông lớn 
		này. Đó là các tỉnh Miền Đông và Miền Tây Nam phần, từ B́nh Thuận vào 
		đến Cà Mau. Dưới thời vua Gia Long và phần đầu của thời vua Minh Mạng 
		(1802-1832), cả vùng này được gọi là Trấn Gia Định mà Tả Quân Lê Văn 
		Duyệt là người hai lần được bổ nhiệm làm Tổng Trấn ở đây. Năm 1932, sau 
		khi Lê Văn Duyệt mất, Gia Định Trấn mới bị băi bỏ, Miền Nam được chia 
		thành 6 tỉnh (Gia Định, Biên Ḥa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà 
		Tiên). Địa danh Nam Kỳ Lục Tỉnh có từ đó. 
		 
		Dưới thời Pháp thuộc, người Pháp gọi vùng này là Cochinchine hay Nam Kỳ. 
		Đây là vùng thuộc địa của Pháp, và lục tỉnh được chia làm 21 tỉnh (với 
		các chữ đầu là Gia Châu Hà Rạch Trà, Sa Bến Long Tân Sóc, Thủ Tây Biên 
		Mỹ Bà, Chợ Vĩnh G̣ Cần Bạc Cắp). Thời Việt Nam Cộng Ḥa, vùng này là 
		Miền Nam Việt Nam và bao gồm các tỉnh Miền Đông (Tây Ninh, B́nh Long, 
		Phước Long, B́nh Dương, Biên Ḥa, Long Khánh, B́nh Tuy, Phước Tuy, Gia 
		Định), và các tỉnh Miền Tây Nam Phần (Châu Đốc, Kiến Phong, Kiến Tường, 
		Hậu Nghĩa, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, Long An, Chương 
		Thiện, Phong Dinh, Vĩnh B́nh, Kiến Ḥa, G̣ Công, An Xuyên, Bạc Liêu, Ba 
		Xuyên). Chính phủ hiện thời dùng chữ Nam Bộ thay v́ Nam Phần và cũng 
		phân biệt Miền Đông (hay vùng Đồng Nai với các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, 
		Tây Ninh, Long An) và Miền Tây (hay đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh 
		Đồng Tháp, Tiền Giang, Cửu Long, An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, Minh 
		Hải). 
		 
		Khi Nguyễn Hoàng được cử vào cai quản Thuận Hóa (1558) th́ đất đai của 
		nước Việt về phía Nam chỉ có đến Phú Yên. Từ đó đến B́nh Thuận c̣n là 
		lănh thổ của Chiêm Thành hay Champa. Nhưng từ lúc xứ Đàng Trong (từ sông 
		Gianh trở vào Nam) của Chúa Nguyễn bắt đầu thành h́nh th́ cũng là lúc 
		Chiêm Thành khởi sự suy yếu dần. Xứ Đàng Trong càng lớn mạnh lên bao 
		nhiêu th́ xứ Chiêm Thành càng yếu đi và càng nhỏ lại bấy nhiêu. Cho đến 
		cuối thế kỷ thứ XVII th́ nước Chiêm Thành kể như không c̣n nữa và dân 
		tộc Chăm trở thành người dân thiểu số trong cộng đồng người Việt. Biên 
		giới phía Nam của nước Việt bấy giờ là vùng B́nh Thuận, và nước láng 
		giềng về phía này của Việt Nam là nước Chân Lạp (tức Kampuchea hay Cao 
		Miên) của người Khờ Me (tức người Miên như người trong Nam thường gọi). 
		Vùng Đồng Nai Cửu Long lúc này thuộc về Chân Lạp. 
		 
		Thật ra đất Đồng Nai Cửu Long chỉ có thuộc về Chân Lạp trên danh nghĩa 
		thôi, trong thực tế người dân Khờ Me không có mặt nhiều trên phần đất 
		này. Người dân Khờ Me chỉ sinh sống ở một vài nơi thưa thớt, rải rác 
		trên vùng đất cao, hoang vu mênh mông ở vùng Hậu Giang của đồng bằng 
		sông Cửu Long. Ở vùng Đồng Nai th́ có các bộ lạc người Mạ và người 
		Xtiêng sinh sống, cũng rải rác, cũng thưa thớt trong vùng đất mênh mông 
		hoang vu vậy. Triều đ́nh Chân Lạp chưa có thiết lập các cơ quan hành 
		chánh cai trị hay những đồn binh quân sự trấn đống để bảo vệ đất đai và 
		dân chúng của họ trên vùng đất này. Đối với người dân Việt, những đất 
		đai mênh mông hoang vu ở đây là đất vô chủ, không ai để ư tới, không ai 
		ḍm ngó, kiểm soát. Vả lại, ranh giới giữa hai nước (Việt - Chân Lạp) 
		không có ǵ rơ ràng, ranh giới giữa các sắc tộc sinh sống rải rác trên 
		vùng đất này (xem như vùng trái độn) lại càng mơ hồ, co giăn, biến thiên 
		hơn. Trong t́nh huống đó, và với bản năng sinh tồn mạnh mẽ, người Việt 
		không ngần ngại ǵ mà không vào vùng đất hoang vu mới mẻ này để phá rừng, 
		dọn đất, trồng trọt, mưu sinh, lập nghiệp. Mô Xoài là nơi mà người Việt 
		đă đến khai phá, định cư sớm nhất. Mô Xoài tức là Bà Rịa bây giờ. Các 
		sách Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam Nhất Thống Chí 
		triều Nguyễn cho rằng xứ Mô Xoài là vùng địa đầu của Biên Trấn, tức là 
		vùng người lưu dân Việt đầu tiên đặt chân vào để khai phá mở mang Miền 
		Nam nước Việt. 
		 
		Đây chỉ là những bước đầu lẻ tẻ, chập chững của những người đi tiên 
		phong trong công cuộc mạo hiểm vào vùng đất mới lạ. Phải đợi một cơ hội 
		thuận tiện nào đó để việc mở rộng về phương Nam trở thành phong trào 
		mạnh mẽ, có tính cách quy mô hơn. Cơ hội đó là sự cầu thân của vua Chân 
		Lạp Chey Chetta II với Chúa Nguyễn Phúc Nguyên vào năm 1620. Sử Khờ Me 
		ghi là sau khi lên ngôi vua Chey Chetta II cho xây cung điện nguy nga 
		tại Oudong rồi cử hành lễ cưới long trọng với một nàng công chúa xinh 
		đẹp của Việt Nam. Hoàng hậu Sam Đát (tức công chúa Ngọc Vạn) có đem 
		nhiều đồng hương sang Chân Lạp. Có người làm quan trong triều, có người 
		làm thủ công, có người buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Theo hồi kư của 
		giáo sĩ Chistofo Borri, một người Ư đă sống gần Qui Nhơn từ 1618 đến 
		1622, th́ chúa Nguyễn đă viện trợ cho vua Chân Lạp cả tàu thuyền lẫn 
		binh lính để chống lại quân Xiêm. Borri cũng tả rơ phái đoàn quan quân 
		Việt Nam đưa công chúa Ngọc Vạn về Oudong như sau: ”Sứ bộ gồm khá đông 
		người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc 
		thuyền lớn có trang bị vũ khí và bày trí lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh 
		Oudong, th́ dân chúng Khờ Me, thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung 
		Hoa đă tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan nghênh.” 
		 
		Về phương diện xă hội, việc công chúa Ngọc Vạn theo chồng về Miên có thể 
		được xem như là một sự mở đầu cho những bành trướng lănh thổ quy mô về 
		phương Nam của dân tộc Việt. Theo chân Ngọc Vạn công chúa lưu dân người 
		Việt càng ngày càng vào Nam lập nghiệp nhiều hơn. Với chính sách khuyến 
		khích khéo léo của chính quyền, làn sóng vào Nam càng lúc càng bành 
		trướng mạnh mẽ. Về phương diện chính trị ngoại giao, cuộc hôn nhân của 
		công chúa Ngọc Vạn với vua Chey Chetta II là bước mở đầu cho mối liên hệ 
		ngoại giao giữa hai dân tộc Việt-Khờ Me, một mở đầu hết sức quan trọng 
		đối với triều Nguyễn và người dân Đàng Trong. Từ đây triều Nguyễn luôn 
		luôn sẵn sàng để hoặc giúp đỡ/viện trợ, hoặc can thiệp vào nội t́nh Chân 
		Lạp. Cứ mỗi lần quân chúa Nguyễn tiến lên xứ Miên làm một công ơn ǵ đó 
		đối với Chân Lạp là mỗi lần triều đ́nh Chúa Nguyễn được đền đáp bằng một 
		số đất đai để hợp thức hóa những nơi lưu dân người Việt đă từng vào khai 
		phá. Những sự kiện lịch sử sau đây đánh dấu những bước tiến trong quá 
		tŕnh hoàn thành vùng đất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo lối “dân đi trước chính 
		quyền đến sau”. 
		 
		Những giai đoạn Nam tiến kể từ năm 939 
		 
		- Hai năm sau khi Ngọc Vạn trở thành hoàng hậu Chân Lạp, năm 1623, chúa 
		Nguyễn sai phái bộ tới Oudong yêu cầu vua Chey Chetta II cho chúa Nguyễn 
		lập hai đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài G̣n) và Kas Krobei (Bến Nghé). 
		Đây là vùng qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Chân Lạp. 
		Từ khi có các đồn thu thuế của chúa Nguyễn, vùng này đă trở nên vùng thị 
		tứ trên bến dưới thuyền rất là sầm uất. 
		 
		- Năm 1658 triều đ́nh Chân Lạp có nội biến, thái hậu Ngọc Vạn đă khẩn 
		cầu Chúa Nguyễn là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần giúp quân đánh dẹp Nặc Ông 
		Chân dành lại ngôi báu cho ḍng họ Prea Outey. Chúa Hiền, cháu kêu thái 
		hậu Ngọc Vạn bằng cô ruột, cho quan Khâm Mạng Trấn Biên dinh Phú Yên là 
		Tôn Thất Yến đem 3,000 quân qua giúp bắt được Nặc Ông Chân giải về Quảng 
		B́nh. “Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đ́nh đem nhượng hết cả 
		đất ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện ǵ.” (Gia Định 
		Thông Chí, trung, tr.7). Đất ấy đây là vùng Mô Xoài, chính thức thuộc 
		lănh thổ Việt Nam từ đó. 
		 
		- Sang năm 1674 Nặc Ông Đài lại liên kết với Xiêm La chống Đại Việt. 
		Chúa Nguyễn là Hiền Vương cử cai cơ Nguyễn Dương Lâm đem quân đánh chiếm 
		Sài G̣n và tiến lên Nam Vang. Chúa Nguyễn làm chủ t́nh thế cả vùng Đồng 
		Nai. 
		 
		- Năm 1679 trấn thủ Quảng Đông là Dương Ngạn Địch cùng với phó tổng binh 
		Hoàng Tiến, và tổng binh các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên 
		cùng phó tổng binh Trần An B́nh đem 3000 quân Trung Hoa (nhà Minh) với 
		50 chiến thuyền trốn quân Thanh chạy sang Việt Nam xin làm thần dân của 
		Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần dung nạp họ và cho người hướng dẫn họ 
		đến vùng đất mới trong Nam để định cư sinh sống. Nơi đây đă có một số 
		người lưu dân Việt khai phá. Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho, Trần Thượng 
		Xuyên vào Biên Ḥa khai khẩn đất đai, thiết lập phố xá bán buôn., phát 
		triển nông nghiệp và thương nghiệp cùng với người lưu dân Việt ở hai nơi 
		này. Cùng lúc đó ở Cà Mau, một cựu thần khác của nhà Minh là Mạc Cửu 
		cũng trốn quân Thanh sang đây khai khẩn lập nghiệp. 
		 
		- Năm 1698 Minh Vương Nguyễn Phúc Chu cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm 
		kinh lược đất Chân Lạp. Năm 1699, Nguyễn Hữu Cảnh đem binh lên tận Nam 
		Vang để can thiệp và trở về vào khoảng tháng Tư năm sau. Trên đường về 
		ông cho quân sĩ theo ḍng Tiền Giang, trú đóng tại Cái Sao (vùng chợ Thủ 
		của Long Xuyên). Một số quân sĩ bị phát bịnh dịch và chính ông cũng bị 
		nhiễm bịnh và mất hai ngày sau khi quân ông rút khỏi vùng này. Một số 
		binh sĩ hoặc bị bịnh hoặc t́nh nguyện ở lại vùng Cái Sao khai khẩn đất 
		đai sinh sống trước khi vùng này được vua Cao Miên nhường cho Chúa 
		Nguyễn. Họ được gọi là người dân Hai Huyện, trực thuộc phủ Gia Định từ 
		xưa. (Xem Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam của Sơn Nam, tr. 23). 
		 
		- Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân hành quân sang Cao Miên đánh quân Xiêm, trên 
		đường về trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân An), khai khẩn đất hoang, cho 
		lập đồn binh và cho đào kinh cho rạch Vũng Gù ăn thông sang rạch Mỹ Tho, 
		nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang. 
		 
		- Năm 1708 Mạc Cửu dâng cả vùng mới khai khẩn ở Cà Mau xin hàng phục 
		Chúa Nguyễn. Vùng này gồm các ấp vừa lập từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần 
		Vọt, Rạch Giá đến Cà Mau. Hà Tiên trở thành một thương cảng quan trọng 
		trong vùng. Chúa Nguyễn Phúc Chu phong cho Mạc Cửu làm tổng binh, giữ 
		đất Hà Tiên. 
		 
		- Năm 1732 lưu dân người Việt bị quân Miên tấn công. Chúa Nguyễn là Ninh 
		Vương cử Trương Phúc Vĩnh đem quân vào dẹp yên. Vua Chân Lạp là Nặc Tha 
		nhường Me Sa (Mỹ Tho) và Long Hồ cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn lấy đất 
		Long Hồ lập thành châu Định Viễn (Vĩnh Long) và đặt dinh Long Hồ. 
		 
		- Năm 1753 Nguyễn Cư Trinh đem quân sang đánh Chân Lạp. Vua Chân Lạp là 
		Nặc Nguyên thua trận bèn dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (G̣ Công và Tân 
		An) để cầu ḥa. Bốn năm sau Nặc Nguyên mất, Chân Lạp có nội biến. Chúa 
		Nguyễn cử Mạc Thiên Tứ đưa em họ của Nặc Nguyên là Nặc Tôn lên ngôi. Nặc 
		Tôn dâng đất Tầm Phong Long (gồm An Giang và một phần Vĩnh Long) để tạ 
		ơn Chúa Nguyễn và năm phủ ở vùng Hà Tiên cho Mạc Thiên Tứ. Năm phủ này 
		được sát nhập vào trấn Hà Tiên. 
		Đến đây kể như vùng Đồng Nai Cửu Long đă trọn vẹn 
		thuộc về Việt Nam, và thuộc về Đàng Trong của Chúa Nguyễn. Từ đầu thế kỷ 
		XVII đến giữa thế kỷ XVIII người Việt Nam mất 150 năm để tiến vào và mở 
		mang vùng đất hoang vu mới mẻ này. 
		 
		Trước khi người Việt đến vùng Đồng Nai khai khẩn th́ nơi đây c̣n là cả 
		một vùng “toàn rừng rậm mấy ngh́n dặm” theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư 
		Đôn. Vùng rừng rậm hoang vu này là vùng cư trú của nhiều nhóm dân tộc 
		thiểu số mà người Việt gọi chung là người “Man” theo tiếng Hán Việt hay 
		nôm na là người “Mọi.” Đó là các dân tộc thiểu số người Mạ, người 
		Xtiêng, người Mnông, Người Cơho, người Churu, v.v.. Trong các nhóm này 
		quan trọng hơn hết là người Mạ ở vùng Mô Xoài Bà Rịa, người Xtiêng ở 
		vùng Biên Ḥa, B́nh Dương và người Khờ Me ở Tây Ninh. Dân tộc Mạ hay 
		Châu Mạ (Châu theo tiếng Mạ có nghĩa là người) nói tiếng nói thuộc nhóm 
		Môn – Khờ Me. Địa bàn sinh sống của Châu Mạ ngày xưa là cả vùng Đồng Nai 
		xuống đến Mỹ Tho (theo B́nh Nguyên Lộc). Dân tộc Mạ mà người Việt thường 
		gọi là Mọi Bà Rịa, thạo nghề dệt vải có hoa văn đẹp, ở nhà sàn dài, có 
		tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. Họ rất hiền ḥa, thường bị người Xtiêng 
		và người Miên bắt đem bán làm nô lệ ở các nơi. Phủ Biên Tạp Lục của Lê 
		Quí Đôn ghi: “Từ các cửa biển như Cần Giờ, Xoài Rạp . . . đi vào toàn là 
		những đám rừng hoang vu đầy cỏ rậm, mỗi đám rừng có thể rộng hơn ngh́n 
		dặm. . . Nhà Nguyễn cho dân được tự nhiên chiếm đất. . . Lại cho họ thâu 
		nhận những người Mọi từ trên đầu nguồn xuống để mua làm đầy tớ, đứa ở, 
		sai khiến, hầu hạ. . .” 
		 
		Dân tộc Mạ hiện có khoảng 20,000 người cư ngụ ở vùng cực Nam Tây Nguyên, 
		phía Nam tỉnh Lâm Đồng, và một số ở Đắc Lắc. 
		 
		Người Xtiêng cư trú trong vùng các tỉnh Tây Ninh, B́nh Dương, Biên Ḥa. 
		Tiếng nói của họ có nhiều nét gần gũi với tiếng Mnông, Cơho, Mạ, nằm 
		trong nhóm Môn - Khờ Me. Họ để tóc dài, búi đằng sau gáy, đeo bông tai 
		bằng cây hay bằng ngà, xăm mặt, xăm ḿnh, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng 
		khố. Địa chí Thủ Dầu Một ấn hành năm 1910 gọi dân tộc Xtiêng là Mọi 
		hoang, Mọi Cà Răng, Mọi Việt hay Mọi Đồng Nai. Dân tộc Xtiêng hiện nay 
		có khoảng 40,000 người quần tụ vùng biên giới Tây Nam, ở các tỉnh Tây 
		Ninh, B́nh Dương, Đồng Nai. 
		 
		Ở Hậu Giang, vùng Trà Vinh – Sóc Trăng có nhiều người Miên hơn ở Miền 
		Đông Nam Phần. Những sóc người Miên này sống cách biệt với triều đ́nh 
		Kampuchea. Khi người Việt vào khai khẩn vùng Hậu Giang th́ người Việt và 
		người Miên cùng cộng cư, và sau này khi toàn cơi Nam Việt thuộc về Chúa 
		Nguyễn th́ những người Miên này trở thành người dân thiểu số trong cộng 
		đồng người Việt. 
		 
		Vùng Đồng Nai, vùng cư trú của hai sắc dân Xtiêng và Mạ là vùng đệm giữa 
		hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ XVII, đất đai vùng này 
		quá rộng mà người th́ quá ít cho nên dân cư quá thưa thớt, và phần lớn 
		đất đai là rừng rú hoang vu đầy muôn thú. Khi người Việt bắt đầu vào 
		khai khẩn đất hoang vùng này th́ người Mạ, người Xtiêng và một ít người 
		Khờ Me (ở phí Tây Tây Ninh) từ từ rút lui dần về vùng đất cao ở phí Bắc 
		và phía Tây, nhường đất thấp ở phía Nam cho người lưu dân mới đến khai 
		phá. Người Việt thành thạo hơn trong việc khai khẩn đất đai, trồng lúa 
		nước ở đất thấp (gọi là thảo điền), trong khi người sắc tộc thiểu số th́ 
		thành thạo trong việc săn bắn và làm rẫy trên các ruộng cao hay giồng 
		(sơn điền). Đất rộng mênh mông hoang vu, và lại là đất thấp không mấy 
		thích hợp với thổ dân, là hai điều kiện vô cùng thuận lợi cho người lưu 
		dân Việt vào vùng Đồng Nai khai hoang sinh sống mà không gặp một sự 
		chống đối nào. 
		 
		Số ít người Việt đầu tiên vào đây khai phá không biết là ai, không biết 
		họ bắt đầu vào làm công việc đó từ lúc nào, không có một ghi chép nào để 
		lại tên họ gốc gác của những người đó. Theo các sách sử sau này th́ chắc 
		chắn họ đă vào vùng Đồng Nai khai khẩn sinh sống rất sớm, ngay từ lúc 
		Nguyễn Hoàng vừa vào trấn thủ Thuận Hóa. Trịnh Hoài Đức cho là từ đời 
		các “tiên hoàng đế” tức là từ thời các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phước 
		Nguyên. 
		 
		Những người đầu tiên vào đây là những người tự nguyện chứ không phải là 
		những người được chính quyền đưa đến hay bị lưu đày. Lúc này chính quyền 
		chưa chính thức áp dụng biện pháp di dân vào Nam được. Lưu dân lúc này 
		có thể là những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức, những người chạy 
		trốn chiến tranh loạn lạc, những người không sống được trong xă hội 
		đương thời, phải mạo hiểm t́m đường sinh sống ở vùng đất mới. Họ có thể 
		đến từ Miền Bắc hay Miền Trung. Nhưng phần đông chắc là người Miền 
		Trung, người Đàng Trong nhiều hơn, nhất là những người vùng Thuận Quảng. 
		Sau đợt t́nh nguyện đầu tiên, nhất là sau sự kiện Ngọc Vạn công chúa, 
		chúa Nguyễn bắt đầu áp dụng chính sách đưa dân quân vào Nam mỗi ngày một 
		triệt để hơn. Theo Philippe Papin th́: 
		 
		Cuộc tranh chấp giữa hai phủ chúa thù nghịch đóng kín ranh giới, cho nên 
		cuộc “Nam tiến” trở thành một hiện tượng của riêng lănh địa nhà Nguyễn ; 
		nước Việt Nam “mới” c̣n đi xa hơn nữa, nhưng từ nay là người miền Trung 
		sẽ tiến vào miền Nam bao la của nước Việt, bắt đầu được khai thác đúng 
		vào lúc nước Việt đứt đoạn... Mong muốn kiểm soát một không gian ngày 
		càng rộng lớn, các chúa Nguyễn bèn áp dụng một chính sách cư dân triệt 
		để: các viên chức được lệnh tập hợp tất cả những người vô gia cư, tất cả 
		những ai không có tên trong sổ bộ làng xă, đưa vào các tỉnh miền Nam mới 
		chiếm được của Kampuchea. . . 
		 
		Giáo sư Nguyễn Đăng Thục ghi lại lời của Jules Sion trong “L'Asie des 
		Moussons” về cuộc bành trướng của dân Việt về phương Nam như sau: 
		 
		Cuộc bành trướng của dân Việt là một sự đồng hóa thật sự. Tính chất đó 
		giải thích v́ sao người Việt bành trướng chậm nhưng rất chắc chắn. Cao 
		Miên và Lào quốc đánh nhau chỉ đem quân cướp lấy tù binh đem về làm nô 
		lệ, lại có một giai cấp quí tộc thống trị cho nên có cướp được đất cũng 
		để mất ngay. 
		Mục đích của người Việt lại khác. Họ không cần bắt nô lệ, họ làm lấy. 
		Đối với họ thắng trận không phải là để có người làm, mà là để có đất 
		cày. 
		 
		Nhiều khi chiến tranh chỉ là để xác nhận một t́nh thế đă rồi. Dân Việt 
		bành trướng một cách ôn ḥa, sinh cơ lập nghiệp rồi sau binh lính mới 
		tới. Trước khi Việt Nam sáp nhập đất Nam kỳ về ḿnh, người Việt đă lập ở 
		đây những tổ chức, những đám di dân đă xây dựng làng xóm hay là tới ở 
		chung với người Mên, rồi lần lần nắm quyền chính. 
		 
		Cuộc bành trướng thực hành bằng cách đưa đến những đám người liên tiếp, 
		đủ các hạng: dân cày không có ruộng, tù tội, kẻ chống đối chế độ hay là 
		quân cướp muốn chuộc tội. Cũng có khi chính phủ thu thập những người đó 
		rồi đưa xuống những miền mới chiếm lănh, hay là lập đồn điền nơi biên 
		thùy để pḥng bị lân bang tới đánh. Những người ấy có quan lại cai trị 
		và họ lập thành làng mạc. (Ḍng Việt, số 17, tr.68-69). 
		 
		Ngoài những người dân Việt từ vùng Thuận Quảng đến c̣n có người Trung 
		Hoa vùng Quảng Đông – Quảng Tây, trốn chạy nhà Thanh, sang đây định cư 
		lập nghiệp. Thành phần cư dân này rất quan trọng v́ họ giúp phát triển 
		mạnh về thương mại và công nghiệp, nhất là thương mại. 
		 
		Trong số quân binh nhà Nguyễn đi chinh chiến ở Miền Nam hay trên Cao 
		Miên cũng có nhiều người t́nh nguyện hay được chính quyền cho ở lại định 
		cư, làm ăn với dân chúng. 
		 
		Nói chung th́ phần đông người lưu dân là người Miền Trung thuộc đủ các 
		thành phần xă hội cùng một số đáng kể người Trung Hoa. Họ là những người 
		có công lớn lao trong việc bành trướng lănh thổ, mở mang bờ cơi Việt Nam 
		về phương Nam, biến vùng rừng rú hoang vu đầy muôn thú thành vùng đất 
		đai ph́ nhiêu màu mỡ nuôi sống và làm giàu cho cả nước. 
		 
		Môi trường sinh sống mới và sự tiếp xúc với những nền văn hóa khác là 
		những điều kiện cần yếu đưa đến những biến đổi. Trước hết là môi trường 
		thiên nhiên vật lư: đất đai, khí hậu, ruộng nương, vườn tược ở đây cùng 
		một loại với đất đai, khí hậu, ruộng nương vườn tược ở Kampuchia, Thái 
		Lan, Mả Lai, thành ra các loại cây trái giống nhau, kỹ thuật làm ruộng, 
		làm vườn, trồng cây trái cũng giống nhau. Cuộc sống vật chất ở nhà quê 
		do đó cũng rất giống nhau. Người lưu dân Việt vào môi trường sinh sống 
		này không thể không linh động thay đổi để thích ứng với môi trường sinh 
		sống mới. Mặt khác ở trong hoàn cảnh sinh sống mới này họ lại gần gũi 
		với những dân tộc khác với nền văn hóa khác mà lâu dần, quen dần, họ 
		không thể không vay mượn một số nét đặc thù nào đó mà họ thấy cần yếu 
		hay thích hợp với họ trong hoàn cảnh sinh sống mới. Thành ra từ khi 
		Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa và các chúa Nguyễn nối tiếp, xây dựng nên 
		Đàng Trong th́ bắt đầu có một nhánh văn hóa Việt biến dạng dần dần trở 
		thành một chi nhánh văn hóa (subculture) có phần khác biệt với văn hóa 
		cổ truyền ở miền Bắc. Sự cắt đứt liên hệ chính trị giữa Đàng Trong (Chúa 
		Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa Trịnh), sự phân tranh Nam Bắc và chia đôi 
		lănh thổ đă là cơ hội để tạo nên một chi nhánh văn hóa mới xa dần văn 
		hóa cổ truyền. Đến thế kỷ XVII khi Họ Nguyễn chiếm hết cả miền Trung và 
		rồi một số người miền Trung vào khai phá miền Nam khẩn hoang lập ấp xây 
		dựng nên miền Nam th́ một chi nhánh văn hóa khác nữa lại thành h́nh. Chi 
		nhánh văn hóa mới này lại càng cách biệt với văn hóa gốc ở miền Bắc để 
		đến gần văn hóa Đông Nam Á hơn (tức cũng có nghĩa xa dần văn hóa Trung 
		Hoa và đến gần văn hóa Ấn Độ hơn). 
		 
		Miền Nam là cả một vùng đất hoang mênh mông chằng chịt sông rạch với 
		không biết là bao nhiêu cá tôm rau cỏ cây trái. Đất đai lại rất ph́ 
		nhiêu do phù sa mang lại. Khẩn hoang lập nghiệp tuy có cực nhọc nặng nề 
		nhưng kết quả thu lượm dễ dàng và khả quan, đời sống tự nhiên ung dung 
		thoải mái. Điều kiện vật lư đó cũng dễ un đúc nên tính t́nh rộng răi, 
		phóng khoáng, hiếu khách, đối đăi tử tế với người từ xa mới đến của 
		người miền Nam mà nhiều người công nhận. 
		 
		Vùng mới lập này tuy có ít nhiều liên hệ với Chúa Nguyễn nhưng triều 
		đ́nh ở xa, tổ chức cai trị không chặt chẽ tùy thuộc ở triều đ́nh Huế 
		(chế độ tổng trấn), thêm vào đó c̣n có những biến cố chính trị làm thay 
		ngôi đổi chủ nhiều lần cho nên tương đối có nhiều tự do địa phương và tự 
		do cho cá nhân nữa. Chỗ này ở không được, hoặc bị áp bức th́ nhổ sào, 
		chèo ghe đi chỗ khác làm ăn, không có ǵ ràng buộc họ được. Hoàn cảnh 
		đặc biệt ở đây giúp người ta nuôi dưỡng tinh khí tự do phóng khoáng, 
		không cần phải ép ḿnh, chế ngự cái tôi để phụng sự cho một lư tưởng 
		sách vở ǵ cả. Vả lại nỗ lực chính của những thế hệ đầu tiên vào đây là 
		khai khẩn đất đai, thiết lập đời sống mới nhiều hơn là trau dồi kinh sử 
		để lănh lấy măo áo chức tước của triều đ́nh. Đời sống dễ dăi, tương đối 
		thừa thăi về vật chất và tự do về tinh thần, đă không bắt buộc người dân 
		Việt ở đây phải duy tŕ hay theo đúng những phong tục tập quán đă được 
		mang vào Đàng Trong từ mấy thế kỷ trước. Sự lỏng lẻo của khuông phép từ 
		thế hệ này sang thế hệ khác đă tạo nên một nếp sống mới, một tính t́nh 
		và nhân cách mới, rộng răi và phóng khoáng, với tâm hồn chân thật, chất 
		phác, mở rộng để đón nhận những cái mới lạ hơn là khép kín để duy tŕ 
		những cái đă có. 
		 
		Ngoài hoàn cảnh địa lư nói trên, trong quá tŕnh mở rộng đất đai về 
		phương Nam chi nhánh văn hóa Đàng Trong đă phải tiếp xúc va chạm với 
		những nền văn hóa khác tạo nên điều kiện rất cần cho sự biến đổi về văn 
		hóa. Có tiếp xúc với văn hóa khác là có cơ hội để nh́n thấy lối sống, 
		cách hoạt động, sự tín ngưỡng, lề lối suy tư của một giống người khác. 
		Từ đó có thể có những thích nghi với nhau hay vay mượn lẫn nhau ít nhiều 
		từ tập quán, kỹ thuật, đến tín ngưỡng và nghệ thuật. 
		 
		Từ thế kỷ XVII người Đàng Trong đă có cơ hội gần gũi với văn hóa Chiêm 
		Thành, đă nh́n thấy và hiểu biết lối sống của người dân Chăm. Sau đó 
		sang thế kỷ XVIII người Việt khi bành trướng lănh thổ về miền Nam lại có 
		dịp sống bên cạnh người Miên và người Trung Hoa (Minh Hương, Triều 
		Châu). Và gần đây hơn từ thế kỷ XIX người Việt ở đây lại có nhiều dịp để 
		biết đến đạo Thiên Chúa cùng văn minh Tây Phương do người Pháp mang đến. 
		Thí dụ như ở Cà Mau (tỉnh lỵ An Xuyên), vào khoảng thập niên 1960, thống 
		kê cho biết dân số là 270,643 người trong đó có 3,048 người Việt gốc 
		Hoa, và 2,959 người Việt gốc Miên, với 22,000 Tịnh độ cư sĩ, 15,000 Công 
		giáo, 3,700 Thiền Lâm, 3,200 Cao Đài, và 400 Tin Lành. Người Việt gốc 
		Miên ở Trà Vinh, Sóc Trăng rất nhiều và người Triều Châu rất đông ở Bạc 
		Liêu đến đổi người dân Nam phải nói “Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều 
		Châu”. Có thể nói miền Nam cũng na ná như xứ Mỹ, nó là một xă hội mới 
		thành h́nh với nhiều chủng tộc sống lẫn lộn trong đó và với một nền văn 
		hóa ít nhiều pha trộn đủ thứ. Nó như cái “melting pot” hay cái “salad 
		bowl” của Việt Nam. Nó mang rất ít tính chất cổ truyền của nền văn hóa 
		gốc. 
		 
		Thật ra th́ sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa các nền văn hóa mới chỉ là điều 
		kiện cần mà thôi chớ chưa phải là điều kiện đủ để cho sự vay mượn, học 
		hỏi xảy ra. Điều kiện đủ để đưa đến vay mượn và thích nghi văn hóa là sự 
		có mặt của những yếu tố sau đây: (1) tinh thần khai phóng của người vay 
		mượn, (2) sự tự do chấp nhận cái mới lạ của người vay mượn, và (3) sự 
		lợi ích của những ǵ được vay mượn học hỏi. Văn hóa không thay đổi nếu 
		các thành phần trong nền văn hóa đó không có tinh thần cởi mở, không 
		chấp nhận những cái mới lạ của nền văn hóa khác. Mặt khác dù các thành 
		phần chấp nhận những cái mới lạ của văn hóa khác đi nữa nhưng không có 
		tự do để học hỏi, thực hiện th́ văn hóa cũng không có cơ hội thay đổi. 
		Chẳng hạn như nếu luật lệ của quốc gia quá cứng rắn không cho phép người 
		dân chấp nhận hay du nhập những cái mới lạ, hoặc giả nếu như phong tục 
		tập quán trong xă hội quá khắt khe khiến người ta không thể đi ra ngoài 
		những thói quen đă có th́ sự thay đổi về văn hóa tất nhiên sẽ khó xảy 
		ra. Phải có đủ tự do để học hỏi và thực hiện điều ǵ mới lạ trong cuộc 
		sống th́ sự biến đổi về văn hóa mới diễn tiến được. Sau hết người ta chỉ 
		học hỏi vay mượn khi nào điều người ta muốn học hỏi vay mượn đó đáp ứng 
		được nhu cầu sinh sống của con người. 
		 
		Những điều kiện trên đây cần phải có đủ th́ văn hóa mới có thể thay đổi 
		được. Người Việt Nam trong quá tŕnh bành trướng lănh thổ và định cư vào 
		Phương Nam đă có đủ những điều kiện ghi trên. Họ có tinh thần rộng răi 
		khai phóng, không mù quáng tôn sùng cổ nhân, không khép kín chật hẹp hay 
		bế quan tỏa cảng. Họ có ít nhiều tự do chớ không bị chặt chẽ ràng buộc 
		bởi luật lệ cứng rắn của triều đ́nh hay tập quán khắt khe của xă hội. 
		Khi đă có đủ những điều kiện cần và đủ th́ tất nhiên văn hóa phải thay 
		đổi theo lối sống thay đổi của con người ở vùng đất mới mẻ này. Những 
		khác biệt này là những biến đổi tự nhiên của văn hóa Việt Nam qua bao 
		nhiêu thế hệ và qua quá tŕnh bành trướng lănh thổ, tiếp xúc với nhiều 
		nền văn hóa khác. Biến đổi để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh mới, 
		đó là điều kiện cần yếu để một nền văn hóa sinh tồn và tiến bộ. Khi văn 
		hóa biến đổi nó cũng làm cho con người ít nhiều biến đổi theo. Có sự 
		tương quan khá mật thiết giữa văn hóa và nhân cách của con người. Người 
		ta hay nói đến tính bộc trực, ăn ngay nói thật, tính rộng răi chiều 
		khách, tính anh hùng ngang tàng của người dân miền Nam, kể cả tính bất 
		cần và không thèm kiên nhẫn của người dân vùng này. 
		 
		Người dân Miền Nam, hay người Nam Kỳ, tuy nói gốc gác phần nhiều là dân 
		Thuận Quảng, nhưng nói chung đều là người từ Miền Bắc vào Miền Trung 
		(Đàng Trong) rồi từ Miền Trung vào Miền Nam (nếu là dân Thuận Quảng), 
		c̣n không th́ có thể từ Bắc, Trung vào Nam. Có người vào Nam trước, có 
		người vào Nam sau. Nhưng trước hay sau, lâu hay mau ǵ th́ cũng được 
		“Nam Kỳ hóa” ít hay nhiều. Bởi cái đặc tính của xứ Nam Kỳ là rất cởi mở, 
		rộng răi, dễ thương, nên dễ dung nạp, dễ cảm hóa người mới đến để họ hội 
		nhập vào đại gia đ́nh Đồng Nai Cửu Long mà nhà văn hóa học có thể xem 
		như một cái tô xà lách (”salad bowl”) của mọi người. 
		 
		Ảnh minh họa: Vi Lang/Viễn Đông  
		Vien Dong Daily News 
		Để hiểu rơ hơn về MIền Nam Lục Tỉnh mời đọc: 
	
 
Nghiên 
cứu & Biên khảo - TẬP SAN 1 và cho đến nay (09/2013) đang chuẩn bị cho TẬP 
SAN 8 
		  
		  
		  
		   |