Gia Định
thành thông chí (嘉定城通志) hay
Gia Định thông chí (嘉定通志) là
một quyển địa chí của Trịnh
Hoài Đức (1765-1825) viết về
miền đất Gia Định bằng chữ
Hán cổ và chữ Nôm, là một sử
liệu quan trọng về Nam bộ
Việt Nam thời nhà Nguyễn.
Không rơ thời gian Trịnh
Hoài Đức biên soạn sách này,
một số học giả cho rằng sách
này được hoàn thành vào đời
Gia Long (1802–1820) và được
hiến vào năm Minh Mạng thứ
nhất (Canh Th́n, 1820) sau
khi triều Nguyễn có chiếu
t́m kiếm và thu thập thư
tịch cũ. Theo G. Aubaret th́
sách được viết vào thời Minh
Mạng, khoảng những năm 1830.
Dương Bảo Quân, một học giả
của trường Đại học Bắc Kinh,
thận trọng cho rằng việc
biên soạn được tiến hành vào
giữa các năm 1820 và 1822.
Nội Dung Và Cấu Trúc :
Quyển sách này ghi chép rất
công phu và tỉ mỉ về núi
sông, khí hậu, hành chính,
thành tŕ, cũng như về phong
tục tập quán, tính cách và
sinh hoạt của dân cư tại
vùng đất Gia Định từ thời
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh
lược đất này từ năm 1698 cho
đến những năm đầu thế kỷ 19.
Gia Định hay Gia Định thành
ban đầu vốn là tên gọi để
dùng toàn bộ khu vực miền
Nam Việt Nam. Cho nên bộ
sách viết về cả miền Gia
Định, hay Nam Bộ xưa. Nguyên
bản (bản khắc gỗ) hiện nay
không thấy, nhưng theo bản
chép tay lưu tại thư viện
Viện sử học Việt Nam (kư
hiệu HV. 151 (1-6)) th́ sách
gồm toàn bộ sáu quyển, đóng
làm 3 tập khổ 17x30cm, chữ
hàng 8 (8 cột), mỗi hàng 21
chữ[1]. Mỗi quyển viết về
một phương diện khác nhau.
-
Quyển I,
Tinh dă chí, 6 tờ:
quyển này viết về vị
trí đất Gia Định so
với các v́ sao theo
thiên văn cổ cũng
như phân tích khí
hậu vùng đất này.
Tác giả căn cứ vào
các thiên văn chí và
địa lư chí của sách,
sử Trung Quốc như
Chu lễ sớ, Tiền Hán
thư, Đường thư, Nam
Việt chí, Tinh
kinh... xác định các
đất Ngô, Việt và
Dương Châu đối với
các v́ sao để suy ra
vị trí của đất Gia
Định về mặt thiên
văn. Đào Duy Anh
đánh giá phần này
không có giá trị
thiết thực, c̣n phần
về khí hậu th́ có
phần thiết thực hơn,
mặc dù vẫn ảnh hưởng
căn bản của Hán
học.
-
Quyển II,
Sơn xuyên chí, 90
tờ: mô tả núi, sông
Gia Định theo từng
trấn: Biên Ḥa,
Phiên An, Định
Tường, Vĩnh Thanh,
Hà Tiên. Tên các
núi, sông được ghi
bằng chữ Hán và chú
thêm chữ Nôm, rất
tiện lợi cho việc
tra cứu, không như
các sách địa chí từ
thời Minh Mạng trở
về sau chỉ chép tên
dịch nghĩa bằng chữ
Hán.
-
Quyển III,
Cương vực chí, 85
tờ: chép lịch sử
khai phá vùng đất
Gia Định của các
chúa Nguyễn, dẫn
nhiều từ Phủ biên
tạp lục của Lê Quư
Đôn, có những tài
liệu độc đáo về các
cuộc gặp giữa các
chúa Nguyễn và các
vua Cao Miên. Phần
sau chép về cương
vực đất Gia Định và
các trấn với danh
sách các phủ, huyện,
tổng, xă, thôn, lân.
Phần về trấn Hà Tiên
có những tư liệu độc
đáo về quan hệ với
Cao Mên và Xiêm
La[5].
-
Quyển IV,
Phong tục chí, 18
tờ: nói về các tập
tục, cách ăn mặc,
nhà cửa, tín ngưỡng,
lễ tết, hội hè trong
toàn cơi Gia Định,
và những phong tục
đặc sắc của mỗi
trấn.
-
Quyển V,
Vật sản chí, 25 tờ:
nói về nông sản,
t́nh t́nh ruộng đất,
giống lúa và hoa
màu, lâm sản, thổ
sản, thủy sản... của
đất Gia Định.
-
Quyển VI,
Thành tŕ chí, 45
tờ: giới thiệu về vị
trí, giới hạn, quy
mô các các thành,
trấn và huyện lỵ,
đồn, lũy, đền, chùa,
cầu, chợ, phố xá.
Nội dung
bộ sách viện dẫn nhiều sách
cổ Trung Quốc, và sử dụng
nhiều chữ Nôm, cũng như các
tên riêng, thổ ngữ, tập tục
tại các địa phương. Điều này
thể hiện tác giả là một nhà
Hán học uyên thâm và hiểu rơ
vùng đất mà ông sinh sống.
Đồng thời việc dịch tập sách
này cũng đ̣i hỏi kỹ năng
dịch chữ Hán và chữ Nôm sang
chữ quốc ngữ, và phải am
hiểu về các tên gọi và phong
tục của miền Nam, nhất là
tên các địa danh bằng chữ
Nôm. Hơn nữa, một số bản
chép tay c̣n sót lại cũng
chứa đựng không ít sai sót
gây khó khăn cho các dịch
giả.
Các Bản Dịch : Sau
khi thực dân Pháp đặt chân
tới Nam Kỳ, Bộ Hàng hải và
Thuộc địa Pháp đă yêu cầu
Gabriel Aubaret dịch sách
này sang tiếng Pháp để họ
nắm t́nh h́nh thổ địa và
nhân dân vùng đất Nam Bộ,
phục vụ cho công cuộc chinh
phục của họ. Bản dịch này
được Imprimerie Impériale
("Nhà in Đế quốc") xuất bản
năm 1863 tại Paris với tựa
đề Histoire et description
de la Basse Cochinchine
(chuyển tự từ chữ Hán thành
Gia-dinh-Thung-chi). Bản
dịch này không theo đúng kết
cấu của nguyên tác, mục đích
phục vụ cho độc giả người
Pháp và thực dân Pháp. Các
khu vực hành chính không
được dịch v́ dịch giả này
cho rằng chúng đă lạc hậu,
hơn nữa lại quá khó dịch v́
lúc bấy giờ thực dân Pháp
mới chỉ xâm lược ba tỉnh
miền Đông, ông ta chưa có
điều kiện thực địa để đối
chiếu với tên gọi tại các
địa phương bằng chữ Nôm.
Thay vào đó, ông thay bằng
một bảng phụ lục những khu
vực hành chính thời Tự Đức.
Đào Duy Anh đánh giá tác giả
sách này có phiên âm sai các
tên riêng, tuy nhiên không
nhiều, và khuyết điểm nghiêm
trọng nhất của bản dịch là
dịch sai do dịch giả không
hiểu vững vàng Hán văn.
Vào những
năm 1964, các nhà Hán học
thuộc Ban Cổ sử của Viện Sử
học Việt Nam bao gồm Đỗ Mộng
Khương và Nguyễn Ngọc Tỉnh
đă dịch sang chữ Quốc ngữ
sách này, với sự hiệu đính
và chú thích của Đào Duy
Anh. Bản dịch này dựa theo
một bản chép tay từ thư viện
của Viện Sử học, có sự đối
chiếu với bản của Thư viện
Khoa học trung ương, cũng
như bản dịch của Gabriel
Aubaret và các sách có liên
quan, như Phủ Biên tạp lục,
Đại Nam thực lục tiền biên,
Đại Nam nhất thống chí. Tuy
nhiên bản dịch này chỉ được
lưu truyền nội bộ tại Viện
Sử học dưới dạng bản đánh
máy. Măi sau này, Nhà xuất
bản Giáo dục mới tiến hành
biên tập lại và xuất bản vào
tháng 12 năm 1998 dưới dạng
sách b́a cứng, gồm bản dịch
và toàn bộ bản chép bằng chữ
Hán Nôm. Bản dịch này đă đáp
ứng được nhu cầu thực tế,
làm tài liệu tốt cho nghiên
cứu, và giáo dục trong nhà
trường; nhân dịp các tỉnh
thành Nam Bộ kỷ niệm 300 năm
h́nh thành và phát triển.
Tuy thế, bản dịch này cũng
nhầm khi dịch các tên địa
danh như nhầm Láng Thé thành
Lăng Đế, Cần Giuộc thành Cần
Dọt; hay "tư vơ (tư mă) giặc
Trần Tuấn" dịch nhầm thành
"quân giặc là Vơ Trần Tuấn".
Tại miền
Nam Việt Nam, nhóm Tu Trai
Nguyễn Tạo đă dịch và xuất
bản sách này vào năm 1972.
Đây là bản thông dụng nhất
tại miền Nam Việt Nam trước
năm 1975. Tuy nhiên, bản
dịch này cũng có nhiều sai
sót.
Năm 1991,
tại Trịnh Châu, Trung Quốc,
Nhà xuất bản sách cổ Trung
Châu đă cho xuất bản một bộ
gồm ba quyển sách sử của
Việt Nam là Gia Định thành
thông chí, Lĩnh Nam trích
quái, và Hà Tiên trấn Hiệp
trấn Mạc thị gia phả, bằng
chữ Trung giản thể, do Đái
Khả Lai biên dịch và Dương
Bảo Quân hiệu chú.
Năm 2004,
Lư Việt Dũng đă tổng hợp và
điều chỉnh các sai sót của
các bản dịch trước thành 6
nhóm: nhầm địa danh, nhầm
nhân danh, nhầm tên sản vật,
nhầm nghĩa Hán văn, chép sai
hoặc thiếu, lỗi mo-rát, sau
đó biên dịch lại, chú giải,
được Huỳnh Văn Tới hiệu
đính, giới thiệu và Nhà xuất
bản Tổng hợp Đồng Nai tái
bản.
Đánh Giá : Bộ sách
được xem là một trong những
công tŕnh nghiên cứu đặc
sắc nhất thời nhà Nguyễn,
được người đương thời đánh
giá cao và tin cậy vào độ sử
liệu của chúng, và coi như
một tác phẩm kinh điển và ở
khía cạnh nào đó là tác phẩm
chính thức về Nam Bộ dưới
góc độ địa lư và lịch sử,
quan lại Nam Bộ hầu như đều
phải nắm rơ sách này. Các sử
gia triều Nguyễn đă dựa vào
sách này để soạn các bộ: Đại
Nam thực lục (Tiền biên),
Đại Nam liệt truyện (Tiền
biên), Đại Nam nhất thống
chí (phần Lục tỉnh Nam bộ).
Năm 1862, sau khi thực dân
Pháp chiếm được ba tỉnh miền
Đông Nam kỳ gồm Gia Định,
Định Tường, Biên Ḥa đă tổ
chức biên dịch ngay sách này
thành tiếng Pháp để phục vụ
cho công cuộc khai thác
thuộc địa của họ. Tại Trung
Quốc, sách này cũng được
xuất bản cùng với Lĩnh Nam
trích quái, và Hà Tiên trấn
Hiệp trấn Mạc thị gia phả
năm 1991 nhằm giúp hiểu rơ
hơn về lịch sử di dân sang
Việt Nam của người Trung
Quốc vào đầu thời nhà Thanh.
Gia Định
thành thông chí là sách đầu
tiên mô tả kỹ lưỡng sông núi
miền Nam, cũng như mô tả kỹ
càng các khu vực hành chính
Gia Định từ trấn, phủ tới
thôn, lân; các sách địa chí
đời sau, như Đại Nam nhất
thống chí ở đời Tự Đức cũng
không mô tả kỹ hơn. Tên các
núi, sông được ghi bằng chữ
Hán và chú thêm chữ Nôm, rất
tiện lợi cho việc tra cứu,
không như các sách địa chí
từ thời Minh Mệnh trở về sau
chỉ chép tên dịch nghĩa bằng
chữ Hán, ví dụ Chợ Củi chép
thành Sài Thị. Trong chương
Phong tục, tác giả đă kỹ
lưỡng trong việc chú giải
cách phiên âm chữ Nôm của
ḿnh: Nếu gặp quốc âm hay
tên địa phương th́ cũng lấy
trong sách chữ Hán có âm y
hệt hay na ná rồi thêm vào
trên đầu hay bên hông trái,
khi th́ bộ sơn để chỉ chữ
thuộc núi non, bộ điểu thuộc
chim chóc, bộ mộc thuộc cây
cối, bộ thảo thuộc hoa cỏ....
Tuy vậy,
tác giả ảnh hưởng căn bản
của Hán học nên dựa vào khá
nhiều vào thư tịch Hán văn
khi phân tích hay mở đầu các
chương, Đào Duy Anh đánh giá
những phần này ít có giá trị
thiết thực, chẳng hạn như
phần về thiên văn.
G.
Aubaret phê phán tác giả
thiếu hiểu biết về khoa học
khi cho rằng bệnh sốt rét
phổ biến ở đất Gia Định là
do khí hậu.
|