Những Tên Gọi của Đất Gia Định Xưa
SÔNG NÚI MIỀN NAM :
GIA ĐỊNH THÀNH XƯA
Đất Nam Việt mà trước đây người ta c̣n gọi là Nam Kỳ, người Tây Phương khi đặt chân lên xứ ḿnh hồi thế kỷ 16, 17 đă gọi bằng tên Cochinchine hay Đằng Trong. C̣n nhỏ hơn có đất Gia Định, và ở đất này khi xưa có rất nhiều địa danh.
Người ta cũng gọi xứ này là Đồng Nai (đồng có nhiều nai), Lộc Dă, Lộc Đồng (cùng một nghĩa) hoặc Nông Nại, là nơi mà người Việt ḿnh đặt chân lần đầu tiên năm 1623. Sử chép rằng Chúa Săi Vương Nguyễn phúc Nguyên (1613-1635), đă gả Công chúa Ngọc Vạn, lệnh ái thứ 2, cho vua Cao Miên Chei Chetta II (1618-1626) từ Xiêm trở về lên ngôi báu và đóng đô tại Oulong.
Nhờ sự giao hiếu ấy vua Cao Miên mới cho phép người Việt di dân vào Nam Bộ. Chúng ta đă đặt đầu cầu tại Mô Xoài(g̣ trồng xoài), gần Bà Rịa đúng vào năm 1623 (Theo Claude Madrolle -Indochine du Sud,Paris 1926).
Cũng trong năm này một phái đoàn ngoại giao đă được cử sang Oulong để thương thuyết sự nhượng lại Sở Thuế quan Saigon.Về sau đến đời vua Réam Thip Dei Chan(1642-1659),em vua trước,vị hoàng hậu Việt Nam nói trên đă xin vua Cao Miên cho phép người Việt được quyền khai thác xứ Biên Ḥa năm 1638.
Sở dĩ vua Cao Miên đă giao hảo với nước ta và tự ư nhân nhượng một phần nào,là v́ muốn cậy thế lực của triều đ́nh Huế để chế ngự ảnh hưởng của người Xiêm.Như vậy chúng ta đă đến sinh cơ, lập nghiệp,khai khẩn đất đai Nam Bộ là do sự thỏa thuận hoàn toàn của đôi bên,chứ tuyệt nhiên không phải là một sự xâm nhập. Lại nữa nhờ uy thế của chúng ta mà Cao Miên đă đối phó hiệu quả với những tham vọng của nước Xiêm và bảo toàn được nền độc lập của ḿnh.
Nói tóm lại sự hiện diện của chúng ta từ hơn 800 năm nay tại Nam bộ rất là hợp t́nh,hợp lư và hợp pháp. Nói một cách khác công cuộc Nam tiến của tổ tiên ta là một sự kiện lịch sử bất di bất dịch,nó hiển nhiên cũng như cuộc Tây tiến của người Âu Châu tại Mỹ Quốc và cuộc Đông tiến của người Anh tai Úc Châu.
Con sông Đồng Nai đă đưa ta đến tỉnh Biên ḥa (ḥa b́nh ở biên cương), một trấn đă được sáp nhập vào nước ta năm 1653. Khoảng đất này xưa được gọi là Đông phố đúng ra là Giăn phố v́ hai chữ Đông và Giăn viết theo chữ Hán hơi giống nhau.Về sau nơi này đă được triều đ́nh Huế giao cho bọn người Trung Hoa gốc Quảng Tây di cư theo hai tướng Trần Thượng Xuyên và Trần An B́nh đến khai khẩn và lập nghiệp năm 1679 tại Cù lao Phố,sau khi nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ.
Miền trên Biên ḥa th́ có Hố Nai (hố sập nai), Trảng Bom (trảng là một đồi bằng phẳng và rộng rải có trồng nhiều cây chum-bao hom đọc trạnh thành bom, sinh ra một thứ dầu gọi là chaulmougra, dùng để trị phong hủi. Phía dưới là nhà thương điên Nguyễn Văn Hoài, một nhà bác học đă quả quyết với chúng tôi rằng trong một đời người,số giờ mà chúng ta điên cuồng cộng lại ít nhất cũng được vài năm !
Biên Ḥa là quê hương của Đỗ Thành Nhân, một trong Gia định Tam hùng. Hai người kia là Vơ Tánh quê ở G̣ Công và Nguyễn Huỳnh Đức quê ở Tân An. Biên ḥa là xứ bưởi ḅng ngon ngọt có tiếng nên mới có câu ca dao :
Thủy để ngư, thiên biên nhạn
Cao khả xạ hề, đê khả điếu,
Chỉ kích nhơn tâm bất khả pḥng
E sau ḷng lại đổi ḷng,
Nhiều tay tham bưởi chê ḅng lắm anh
Chúng ta đi ngang qua trước ngọn núi Châu Thới, cao 65m trên có ngôi chùa Hội sơn, được trùng tu vào đầu thế kỷ thứ 19, nhờ công đức sư Khải Long :
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nghiêng chùa Châu Thới mới sai lời nguyền !
Rồi đến Thủ Đức với những hồ bơi nước suối,và những gói nem ngon lành.Thủ nhắc lại ngày xưa có những chức quan văn như thủ bạ,thủ hô lo về việc thuế má và nhơn thế bộ. Do đó mà có những địa danh như Thủ Thiêm, Thủ Thừa, Thủ Ngữ v.v.. để nhắc lại tên mấy ông thủ bạ và thủ hộ ngày trước. Miền Thủ Đức lại nhắc cho ta hai câu đối “tréo ḍ” :
Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ
Kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ
Có lẽ v́ năm canh thức đủ mà có kẻ than thân trách phận tự ḿnh sánh với cái nem Thủ Đức lột trần :
Người ta năm chị bảy em
Tôi đây như thể chiếc nem lột trần
Phía tay mặt là G̣ Vấp, xưa kia là một ngọn đồi trồng cây vấp. Thứ cây này xưa kia được coi như thần mộc, yểm hộ cho dân tộc Chàm. Dă sử thuật lại rằng vào đời vua Chiêm cuối cùng là Pô Romé (1627-1651),vua này muốn vừa ư một ái phi người Việt đă ra lệnh đốn cây Kraik (vấp) cổ thụ rợp bóng nơi vườn ngự uyển. Hơn một trăm thị vệ lực lưỡng không sao hạ nổi v́ vết ŕu mỗi lần bổ xong th́ khép lại ngay. Nhà vua tức giận cầm lấy ŕu hạ xuống một nhát,tức thời một tiếng rên rỉ vang lên và cây gục xuống giữa một vũng máu. Và cũng từ đó vận khí nước Chiêm suy dần cho đến ngày tàn tạ.
Bây giờ ta vào thành phố Saigon, nơi mà hơn 300 năm về trước (1674) tiền đạo quân ta lần đầu tiên đă đặt chân tới,mang theo khẩu hiệu : “Tĩnh vi nông, động vi binh”. Quân ta không phải tư động mà đến, chính là do lời yêu cầu khẩn thiết của nhà đương cuộc hồi bấy giờ.
Họ khai khẩn đất đai với sức dẻo dai sẵn có, đào sông ng̣i trong vùng đất thấp và đây đó khắp nơi,xây dựng thành tŕ kiên cố. Một trong những công tác quân sự ấy do tướng Nguyễn Đức Đàm xây năm 1772, rồi đến thành tŕ Phan An xây năm 1790, kế đến là thành Gia Định xây năm 1836. Những thành ấy xây đắp với mấy vạn nhân công và bao nhiêu tài trí như đă ghi trong câu ngạn ngữ :
Dân đất Bắc / Đắp thành Nam :
Đông đă là đông ! / Sầu Tây ṿi vọi !
Chúng ta đang ở trung tâm thành phố Saigon (Sài là củi, g̣n là bông g̣n) chuyển sang chữ nho thành Sài-côn là củi g̣n, v́ chữ nôm g̣n viết là Côn, như Ông Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đă ghi trong tác phẩn Gia Định Thống Chí mà hiện nay chúng c̣n một bản dịch ra pháp văn của ông Gabriel Aubaret.
Theo một số người khác th́ Saigon có lẽ do chữ Đê Ngạn đọc thành Tai Ngon hay Thay gon theo giọng Quảng Đông hay Tingan theo giọng Triều Châu,dùng để chỉ thành phố do người Tàu lập nên năm 1778 sau khi họ phải rời bỏ Biên ḥa v́ chiến sự giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn,để nhờ sự bảo hộ của quân đội chúa Nguyễn đóng tại Bến Nghé.
Nguyên ủy xa hơn cả có lẽ là sự chuyển âm của một danh xưng tối cổ Preikor,có nghĩa là rừng g̣n,một loại cây hiện nay c̣n trồng ở Thủ Đô.
Theo Ông Verdeille th́ Saigon có thể là hai chữ nho : Tây Cống đọc chạnh ra,tên này ám chỉ rằng thành phố là phần đất xưa kia đă được các vị vua phía Tây cống hiến cho ta. Ta nên lưu ư rằng tên Saigon chỉ được dùng trong các văn kiện của Pháp kể từ 1784 trở đi mà thôi.
Chợ B́nh Tây nay
Chợ B́nh Tây xưa
C̣n danh xưng của Chợ-lớn mà người Tây đọc liền lại là Cholon, nó chỉ ngôi chợ xưa kia nằm trên địa điểm hiện tại của Sở Bưu điện Chợ-lớn kéo dài tới tận Đại Thế Giới cũ. Chợ này lập song song với chợ nhỏ hiện nay c̣n tồn tại với tên chợ Thiếc ở phía trường đua Phú Thọ. Về sau Chợ-lớn được dời tới Chợ-lớn mới do nhà đại phú Quách Đàm xây tặng, tượng họ Quách vẫn c̣n ở giữa đỉnh chợ B́nh Tây
Sự biến đổi địa âm dạng của địa danh Saigon đă tùy sự hiện diện liên tiếp của những người quốc tịch khác nhau như Preikor (rừng g̣n),Tai- Ngon hay Thầy g̣n của người Trung Hoa mà ta đọc là Đê-ngan,người phương tây dùng chữ la mă ghi là Saigon từ năm 1784.
Hồi xưa tên Saigon chỉ áp dụng cho khu vực Chợ lớn hiện thời, c̣n chính Saigon bây giờ th́ khi ấy là Bến Nghé (theo Trịnh Hoài Đức, theo các nhà hàng hải Âu Mỹ, theo bản đồ do ông Trần Văn Học vẽ ngày mùng 4 tháng chạp năm Gia-long thứ 14 (1815) ghi trên vùng Chợ-lớn hiện tại chỗ nhà thương Chợ-Rẫy ba chữ Saigon xứ, khoảng gần Cây Mai và Phước Lâm) Khu Saigon cao, nằm phía Đồn Đất tức là cái đồn thâu hẹp năm 1836 sau khi Lê Văn Khôi nổi loạn, chắc đă có người ở từ thời thượng cổ, chứng cớ là những khí giới và đồ dùng bằng đá mài t́m thấy khi đào móng nhà thờ Đức Bà. Khu thấp thường gọi là Bến Nghé hay bến Thành.
Chợ Bến Thành năm 1860
Chợ Bến Thành năm 1920
Chợ Bến Thành lúc 100 tuổi
Bến Thành là cái tên ở gần hào thành Gia-Định, nguyên trước có cái rạch nối liền hào thành với sông Bến-Nghé và có cái chợ gọi là chợ Bền Thành. Cái rạch ấy về sau lấp đi thành Đại lộ Nguyễn Huệ và đến bây giờ có câu ca dao như sau :
Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ,
Anh nh́n cho tỏ thấy rơ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em !
Bến Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đă được Việt hóa. Nhưng ông Đốc phủ Trần Quang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thườn kêu nghé nên gọi là Bến Nghé – Trịnh hoài Đức dịch là” Ngưu-tân” Bến Nghé là cái bến sông Saigon có tên là sông Bến Nghé,cũng có tên là Tân B́nh Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ở Ban Bót(theo gia-định thống chí) .C̣n cái rạch Bến nghé nối dài bởi kinh Tàu -hủ (Arroyo chinois) ngày xưa có tên là B́nh Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghé gọi là Vàm Bến Nghé.Bến Nghé tức là Saigon và khi ta nói Đồng Nai-Bến Nghé tức là nói đến Nam Bộ vậy.
Phía đông Saigon có một cái kênh gọi là rạch Thị Nghèhay là rạch Bà Nghè. Bà tên là Nguyễn Thị Canh, con gái thống suất Nguyễn Cửu Văn tức Văn Trường Hầu, đẹp duyên với một ông nghè. Để cho chồng bà tiện đường qua rạch hàng ngày vào làm trong thành, bà cho dựng một chiếc cầu mà dân sự có thể dùng được. Để tỏ ḷng nhớ ơn một bậc nữ lưu, họ đă gọi cầu ấy là cầu Bà Nghè. Đến khi Tây đến đánh thành Saigon,pháo hạm Avalanche tiến vào rạch này đầu tiên nên họ mới gọi là Arroyo de l’Avalanche.
Trên rạch Bến Nghé hồi xưa có nhiều chiếc cầu ván
dựng tạm cho người qua lại. Chiếc cầu nổi tiếng hơn
cả là cầu Ông Lănh, được xây nhờ công ông Lănh binh,
thời tả quân Lê Văn Duyệt. C̣n những chiếc cầu khác
là Cầu Muối, Cầu Khóm (thơm), Cầu Kho và Cầu học
(giếng học). Về các công sự th́ có :
Chợ Bến Thành (mới) xây năm 1914 trùng tu năm 1950
Nhà thờ Đức Bà khởi công năm 1877, hoàn thành năm 1883
Sở Bưu Điện và Ṭa án cất năm 1883
(Lúc chưa xây rạp Rex)
Rạp Rex
Dinh Norodom khởi công ngày chủ nhật 23-2-1868 với sự tham dự dông đảo của dân chúng. Thủy sư Đô Đốc De La Grand́ère với sự hiện diện của kiến trúc sư Hermitte từ HongKong tới,đă đặt viên đá đầu tiên vuông vức mỗi bề nửa mét, trong đó đựng một hộp ch́ chứa nhũng đồng tiền vàng và bạc dập h́nh vua Napoléon III. Đức Giám mục Miche, cai quản địa phận,với một số đông con chiên,đă ban phép lành và đọc một diễn văn lời lẽ cao quư đă làm cử tọa đặc biệt chú ư. Công cuộc xây cất trên một khoảng đất rộng 14 mẫu tây đă phải dùng tới hai triệu viên gạch, và cái móng dày tới 3,5m tốn mất 2.436 thước khối đá xanh Biên Ḥa.Công tác đă hoàn thành năm 1875 và người đầu tiên đến ở trong dinh đó là Thủy sư Đô Đốc Roze.Sau 84 năm Pháp thuộc,ngày 7-9-1954 Đại tướng Ely, Cao ủy Pháp đă trả dinh thự này cho Chính phủ Việt Nam thời bấy giờ.
Ṭa Đô Sảnh (1901-1908) trên có một gác chuông do
họa sĩ Ruffier trang trí mặt tiền
Viện Bảo Tàng Quốc Gia xây năm 1927, khánh thành
ngày 1-1-1929 ,bị vụ nổ nhà thuốc súng làm hư hại
ngày 8-3-1946 và được hoàn lại chính phủ Việt Nam
ngày 19-9-1951 thu thập tới 4.000 cổ vật đă kê thành
mục lục và tŕnh bày trong 14 gian pḥng.
Vườn Cầm Thảo (Sở Thú) tương tự với rừng Vincennes ở Pháp,được lập năm 1864.Sau khi đă san bằng,việc đứa thú tới nhốt nơi đó hoàn tất năm 1865.Ngày 28-3-1865 nhà thực vật học Pierre đảm nhiệm việc điều khiển vườn Cầm Thảo Saigon và ngày nay nhiều giống cây ở xứ ta c̣n mang tên nhà bác học ấy.
Đây đó ta c̣n gặp một số địa danh nguồn gốc Tây Phương như : Ba-Son (Arsenal) trong có một bến sửa tàu (bassin de radoub) xây bằng ximăng cốt sắt từ năm 1858,và bến tàu nổi được hạ thủy tháng giêng năm 1866. Chữ Ba-Son do chữ Bassin mà ra.
Vườn Bờ Rô (do chữ Jardin des Beaux Jeux) hay là
vườn Ông Thượng, xưa kia là hoa viên của Tổng Trấn
Lê Văn Duyệt, nay là vườn Tao Đàn.
Dakao là biến danh của Đất Mộ (đất của lăng) Lăng-tô là biến danh của Tân thuận, tên một làng mà dân Saigon thường đến hóng mát (pointe des flaneurs).
Bây giờ chúng ta rời Saigon xuống đ̣ Thủ-Thiêm qua bên kia sông xem địa phận đang trù định một chương tŕnh kiến thiết rộng lớn,để biến nơi này thành một khu vực nguy nga tráng lệ.
Con đ̣ Thủ-Thiêm ngày xưa đă hấp dẫn một số đông những chàng trai trẻ :
Bắp non mà nướng lửa ḷ,
Đố ai ve được con đ̣ Thủ-Thiêm.
nhưng một ngày kia chàng trai phải ra đi trong khói lửa chiến tranh,đến khi trở về th́ than ôi :
Ngày đi trăm hoa hẹn ḥ,
Ngày về vắng bóng con đ̣ Thủ-Thiêm
Từ Thủ-Thiêm chúng ta thẳng tiến đến một nơi gọi là Nhà Bè hay là Ngă Ba Sông Nhà Bè, nơi mà con sông Đồng Nai gặp con sông Saigon cũng gọi là sông Bến Nghé. Ngày xưa ở chỗ ấy ông Thủ khoa Hườn có lập nhà bè để bố thí lúa gạo cho những kẻ lỡ đường và ngày nay c̣n vọng lại mấy câu ḥ t́nh tứ của cô lái miền quê :
Nhà Bè nước chảy chia hai:
Ai về Gia định Đồng Nai th́ về !
Rời Nhà Bè, chúng ta trở lại Saigon để đi về miền Bà Chiểu, một vùng ngoại ô trù mật ở phía đông, chúng ta phải đi qua một cái cầu gọi là Cầu Bông, v́ xưa kia ở gần đó Tả Quân Lê Văn Duyệt có lập vườn hoa rất ngoạn mục.
Bà Chiểu tỉnh lỵ Gia định,nổi tiếng về lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt (1764-1832),một vĩ nhân được người Việt và người Tàu tôn thờ như một vị thần thánh.
Theo Trương Vĩnh Kư th́ Bà Chiểu là một trong 5 bà vợ của ông Lănh Binh đă xây cái cầu ông Lănh. Theo phương pháp kinh tế tự túc mà các cụ ngày xưa thường áp dụng, ông đă lập ra 5 cái chợ, giao cho mỗi bà cai quản một cái : Bà Rịa (Phước Lễ), Bà Chỉểu (Gia-Định), Bà Hom (Phước Lâm), Bà Quẹo (phía Quán Tre) và Bà Điểm (phía Thụân Kiều). Riêng chợ Bà Điểm gần làng Tân thới quê hương của Cụ Đồ Chiểu tác giả Lục Vân Tiên, thi phẩm đầu giường của đồng bào Nam bộ là nơi bán trầu ngon có tiếng ở Miền Nam. Món trầu là đầu câu chuyện,cho nên bao nhiêu chuyện,hay dở ǵ cũng do miếng trầu trao cho nhau mà sinh ra cả :
Trồng trầu trồng lộn dây tiêu
Con theo hát bội mẹ liều con hư !
Từ Bà Chiểu chúng ta trở lại Saigon để rẽ về Phú Nhuận, qua Cầu Kiệu hay là Cầu Xóm Kiệu là nơi xưa kia trồng rất nhiều hành kiệu. Phú-Nhuận (giàu sang và thuần nhă) là nơi c̣n nhiều cổ tích như : Lăng Đô-đốc Vơ Di Nguy, mất tại cửa bể Thị Nại năm 1801. Lăng Trương Tấn Bửu và lăng Vơ quốc Công tức là hậu quân Vũ Tính, nơi đây vua Gia-Long có cho trồng 4 cây thông đưa từ Huế vào để tỏ ḷng mến tiếc.Vơ Tánh là một trong Gia-Định tam hùng mà dân chúng nhắc tới trong những điệu ḥ giao duyên. Theo thường lệ : Người con gái lên tiếng trước :
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung :
Hỏi ai Gia-Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một ḷng ?
Người con trai liền đáp lại :
Ông Tánh, Ông Nhân cùng Ông Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức pḥ nước một long
Nổi danh Gia-Định tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có Ông Vơ Tánh,
Tài cao sức mạnh,trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu ḿnh như không !
Về phía Tân Sơn Ḥa có Lăng Cha Cả là một cổ tích kiến trúc Việt Nam xưa nhất ở vùng Saigon. Nơi đây mai táng Đức Giám Mục Bá-Đa-Lộc, mất tại cửa Thị Nại năm 1799.
Rời khỏi ngoại ô Saigon chúng ta thuê một chiếc thuyền con về vùng Lái-Thiêu (tức là ông Lái gốm họ Huỳnh đă thiêu nhà v́ say rượu) để thăm vườn trái :
Ghe anh Nhỏ mũi tráng lường
Ở trên Gia-Định xuống vườn thăm em.
Nơi đây quy tụ rất nhiều trái ngon đặc biệt như : dâu da,thơm,ḅn bon,mít tố nữ,măng cụt và nhất là sầu riêng (Durion) là giống cây từ Mă-Lai đưa vào Cây Sầu riêng thân cao lá ít,trái có gai bén nhọn kinh khủng,cho nên trời chỉ cho phép nó rụng khi đêm khuya thanh vắng mà thôi!Đồng bào Nam-bộ liệt nó vào hàng đầu trong các loài trái,v́ nó có đủ năm mùi hương vị đặc biệt như quả lê Trung hoa.Những người xa lạ phải chịu nhẫn nại một thời gian mới thông cảm và khi đă thông cảm rồi th́ thèm muốn như mê say,chỉ trừ anh học tṛ thi rớt :
Có anh thi rớt trở về
Bà con đón hỏi nhiều bề khó khăn
Sầu riêng anh chẳng buồn ăn,
Ḅn bon, tố nữ anh quăng cùng đường !
Tại vùng Lái Thiêu,có một ngôi nhà thờ cổ kính xây từ thế kỷ XVIII trên ngọn đồi xinh tươi,chung quanh có nhiều ḷ gốm,ḷ sành và một trường dạy học cho trẻ em câm điếc với một phương pháp riêng biệt.
Đến Búng chúng ta không quên đi thăm chùa Phước Long ở vùng An-Sơn, có ông huề thượng thâm nho,thường ra nhiều câu đối bí hiểm cho những khách nhàn du :
Rượu áp sanh(absinthe) say chí tử
Có người đă đối lại như sau :
Bóng măng cụt mát nằm dài
Trong chùa ông huề thượng có ghi hai câu :
Cúng b́nh hoa, tụng pháp hoa,hoa khai kiến Phật.
Dâng nải quả,tu chánh quả,quả măn thông Thần
Nguồn: Sưu tầm bài viết của ông Tân Việt Điêu trong Văn hóa nguyệt san số 33 năm 1958