| |
|
Sài G̣n - Gia Định một thời để nhớ: Dinh Xă TâyTôi Viết
Hơn nửa thế kỷ sống ở Sài G̣n và gần 40 năm gắn bó với nghề báo, nhà văn Lư Nhân Phan Thứ Lang đă tiếp xúc với những nhân vật nổi danh cùng kho tư liệu quư giá về miền Nam, nhất là địa danh của vùng đất Sài G̣n - Gia Định xưa. Thanh Niên xin giới thiệu loạt bài về đất Sài G̣n - Gia Định xưa.
Dinh Xă Tây nay là trụ sở UBND TP.HCM - Ảnh: Tư liệu của tác giả
Ngay khi người Pháp tới Sài G̣n, họ đă đặt nền hành chính theo tổ chức một nước thuộc địa: tỉnh, quận, xă. Sài G̣n lúc đó có Hội đồng thị xă để điều hành cả vùng Sài G̣n - Gia Định - Chợ Lớn.
Người Pháp thuê ngôi nhà của một người tên là Đoàn Tại ở đường Rue aux Fleurs nằm ở khoảng giữa Nguyễn Huệ - Hàm Nghi (bây giờ là trụ sở Hải quan) vừa làm Hội đồng thị xă, vừa là cơ quan hành chính, có pḥng Thương măi, pḥng Chứng khoán để cấp môn bài, chứng nhận giấy tờ mua bán bất động sản, làm sở hữu chủ đất ruộng cho người Việt và các kiều dân Pháp, Hoa, Chà... Số Pháp kiều ở thành phố chỉ có vài chục người và thêm vài trăm người Hoa, Chà, nhưng về sau đă gia tăng. Nhiều người Việt v́ muốn được dễ dàng buôn bán, đi làm hoặc cho con cái du học nên nhập quốc tịch Pháp ngày một đông, v́ vậy người Pháp quyết định chọn khu kinh Lấp (con kinh được lấp lại) nằm theo đại lộ Charner (đường Nguyễn Huệ bây giờ) xây Ṭa thị sảnh của thủ phủ Nam Kỳ.
Hơn 40 năm thiết kế và thi công
Các kiến trúc sư ở Pháp được mời sang dự thi và hàng chục người đưa ra họa đồ đủ kiểu mới lạ. Kết quả, họa đồ của kiến trúc sư Codry trúng giải. Một năm sau đó, họa đồ trên vẫn chưa được kiến trúc sư Codry thực hiện, nên nhà cầm quyền Pháp đă phải mời một kiến trúc sư Pháp khác vẽ lại. Măi tới năm 1870, khi Blancsubé sang nhậm chức Thị trưởng Sài G̣n, ông ta định đem đồ án trên ra thực hiện, nhưng gặp trở ngại là Hội đồng thị xă bàn ra tán vào, nên công việc lại nằm yên một chỗ.
Năm 1893, vấn đề xây cất Ṭa thị sảnh lại được Hội đồng thị xă đem ra bàn. Đến năm 1898, Hội đồng thị xă mới đồng ư chấp thuận xây tại địa điểm cũ nhưng bắt vẽ lại họa đồ khác cho hợp với các công tŕnh ở thành phố đă được thực hiện mới lạ và đồ sộ. Việc khởi công ṭa nhà vào năm 1899, do kiến trúc sư Gardès vẽ đồ họa mới. C̣n phần trang trí và thiết kế hoa văn phù điêu trong ngoài Ṭa thị sảnh được giao cho họa sĩ Ruffier thực hiện. Công việc đang tiến hành tốt đẹp th́ có sự bất đồng ư kiến giữa họa sĩ Ruffier với các nghị viên Hội đồng thị xă về việc thay đổi vài chi tiết phần thiết kế nội sảnh.
Họa sĩ Ruffier muốn sửa đổi một vài chi tiết nội thất, ông phải về Pháp nghiên cứu lại, nên cần một số tiền mới có thể làm được. Hội đồng thị xă cũng chấp thuận. Việc trang trí tiền sảnh, nội sảnh bắt đầu vào ngày 21.3.1903 đến năm 1906, họa sĩ Ruffier mới làm được hai phần ba tổng số công việc, nên thị trưởng mới là ông Cuniac lo lắng, hối thúc họa sĩ Ruffier mau chóng hoàn tất công việc. Đến đây lại gặp trở ngại. Hội đồng thị xă nhận ra rằng v́ kiểu cách thay đổi mà mặt tiền của ṭa nhà trông có vẻ kỳ dị quá nên đưa ra đề nghị là phải phá bỏ cái lầu cao chênh vênh đằng trước (lầu đồng hồ như gác chuông). Viên thị trưởng muốn công việc sớm hoàn tất, nên đă cho chụp ảnh lầu chuông tiền sảnh gửi về bên Pháp để họa sĩ Ruffier xem rồi t́m một kiến trúc khác thiết kế lại, thay cái lầu chuông đồng hồ không đẹp ấy. Đến đây, thấy việc xây cất tốn kém và lại chậm trễ, nên viên Thống đốc Rodier đă từ chối cấp thêm kinh phí. Năm 1907 vẫn chưa xong công tŕnh, nên hợp đồng của họa sĩ Ruffier bị băi bỏ và họa sĩ Bonnet đứng ra thay thế, đảm nhận hoàn tất trang trí những phần c̣n lại. C̣n họa sĩ Ruffier bị Hội đồng thị xă đem ra Tham chính viện kiện v́ không thực hiện đúng hợp đồng, do kéo dài đến năm 1914. Kết quả ṭa đă bác đơn của họa sĩ Ruffier và xử ông phải trả hai phần ba án phí, cộng thêm khoản bồi thường thiệt hại cho Hội đồng thị xă nhưng Ruffier vắng mặt v́... không có tiền nên kết quả huề cả làng và cũng chẳng biết sau đó họa sĩ Ruffier lưu lạc nơi đâu.
Ngày Ṭa thị sảnh được khánh thành, người ta đọc thấy hàng chữ ở mặt tiền sảnh như sau: Hôtel de Ville nhưng người dân Việt lại gọi đơn giản: Xă Tây. Theo tự điển Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ là “Ṭa đô sảnh một thành phố đời Pháp: Xă Tây Sài G̣n”. Xă Tây theo nghĩa dân gian là làng của Tây, do các viên chức Pháp làm việc, công việc của Xă Tây do một viên thị trưởng người Pháp điều hành, và bên cạnh có một Hội đồng thị xă đều do nhà cầm quyền Pháp chỉ định.
Xă Tây trên giấy tờ gọi là Ṭa thị sảnh. Đến thời Bảo Đại th́ được đổi lại là Ṭa đô sảnh và do các đốc phủ sứ được bổ nhiệm làm thị trưởng. Chế độ Ngô Đ́nh Diệm thay thế Bảo Đại, dinh Xă Tây do những đốc phủ sứ làm đô trưởng (1954 - 1963). Khi chế độ quân nhân lên thay Ngô Đ́nh Diệm, các tướng tá lần lượt thay nhau làm đô trưởng Sài G̣n - Chợ Lớn. Người đô trưởng cuối cùng, trước ngày 30.4.1975 là đại tá Đỗ Kiến Nhiễu.
Sau giải phóng, dinh Xă Tây trở thành trụ sở làm việc của UBND TP.HCM, là một di tích kiến trúc cổ nổi tiếng thu hút khách trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng.
Lư Nhân Phan Thứ Lang
L.C.S (lược trích)
Sài G̣n - Gia Định một thời để nhớ - Kỳ 2: Những câu chuyện về chợ Bến Thành
Chợ Bến Thành xưa được lập ở phía bờ sông Bến Nghé cận thành Gia Định. “Anh ngồi quạt quán Bến Thành/Nghe em có chốn, anh đành quăng om”, câu ca dao này nhiều người Sài G̣n hẳn c̣n nhớ.
Theo nhiều tư liệu, lúc đầu phố chợ Bến Thành ở phía đông H.B́nh Dương (lúc đó là một huyện của Gia Định). V́ chợ dọc theo bến sông trước thành Phiên An nên gọi là chợ Bến Thành (nghĩa là chợ ở bến sông thành Gia Định). Chợ nằm vào khoảng giữa tính từ cột cờ Thủ Ngữ đến đầu đường Nguyễn Huệ hiện nay.
Năm Minh Mạng thứ 14 (1833), trải qua trận binh lửa với Lê Văn Khôi, phố chợ bị tàn phá không c̣n nguyên như lúc ban đầu. Thời kỳ thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, chợ được dời đến chỗ kinh Lấp ở quăng giữa đường Nguyễn Huệ. Khi người Pháp muốn dời ngôi chợ cũ ở gần bến sông lùi vào trong, có thông tin rằng họ đă cho người đốt cháy chợ.
Năm 1870, ngôi chợ người Pháp cho dựng lại nằm phía trong kinh Lấp (đường Nguyễn Huệ ngày nay), với cột sắt mái tôn, tường gạch khang trang. Lúc đó đường Nguyễn Huệ có con kinh chạy từ bờ sông Bến Nghé tới cuối đường (hiện là UBND TP.HCM), quẹo sang phía chỗ Nhà hát Thành phố rồi tới Sở thú, cầu Thị Nghè. Con kinh ở đường Nguyễn Huệ lúc đó là phố chợ người Chà và (Ấn Độ), Miên dựng nhà san sát để buôn bán, xen vào có nhà gạch phố lầu của người Pháp trú ngụ và làm văn pḥng hăng buôn. Những dăy phố trệt c̣n dăm ba căn ở cạnh sở Ngân khố, là nhà của người Hoa mở ra bán hủ tíu, thịt quay, cháo cá, cà phê, dăm hiệu thuốc bắc và đôi ba hiệu của người Ấn bán vải, tơ lụa, tạp hóa, cà ri, nước hoa...
Phố chợ mỗi ngày một thêm sầm uất v́ trên bến dưới thuyền lục tỉnh lui tới giao thương. Khi tờ báo Lục tỉnh Tân Văn xuất bản, lúc đầu ban biên tập cũng tới đây thuê hai căn phố lầu để làm ṭa soạn cho tiện giao dịch với các cộng tác viên.
Chợ Bến Thành hiện tại hồi đó gọi là chợ “Bến Thành mới” hay “chợ mới Sài G̣n”. Khi người Pháp có dự án chỉnh trang mở rộng đường phố Sài G̣n - Chợ Lớn đă dời chợ Bến Thành cũ về khu bùng binh ở giữa các trục lộ: Hàm Nghi Lê Lai - Lê Lợi - Phan Bội Châu - Phan Chu Trinh - Lê Thánh Tôn. Chợ mới này được khởi công xây dựng khoảng năm 1912, đến 1914 th́ hoàn thành trên khu đất khoảng 10.000 m2, bao quanh bởi 4 con đường Lê Lợi - Lê Thánh Tôn - Phan Bội Châu - Phan Chu Trinh. Chợ xây bằng gạch, cột kèo sắt, mái ngói, có cột tháp cao treo đồng hồ để cho khách đi chợ xem giờ. Ngày khánh thành chợ được tổ chức rầm rộ. Người từ các tỉnh được báo trước 1 tháng nên nô nức hẹn nhau tới chợ để mua sắm và tham quan. Người Hoa, người Chà và… th́ đổ xô đến mua sạp để bày bán thuốc điếu, tơ lụa, thực phẩm. Sáng khánh thành có múa lân, diễn vơ, hát hồ quảng, cải lương. Ban đêm có đèn cộ bông, nhạc ngũ lâm và cả nhạc kèn đồng của lính Phú-lang-sa (Pháp) tới giúp vui.
Thời đó, các tay cai tổng, hương chức, điền chủ từ lục tỉnh đi ghe thuyền, xe đ̣ lên Sài G̣n ăn chơi hay mua sắm đồ đạc, nếu ở lại đều tới khu chợ Bến Thành cũ thuê nhà trọ trú qua đêm, v́ nơi đây rất tiện cho việc đi chợ và ăn nhậu. Chính v́ nhu cầu lớn nên khu này c̣n có Nam Trung khách sạn được mở ra với sự góp vốn của nhiều cổ đông. Đặc biệt, ở Nam Trung khách sạn từ 17 đến 23 giờ đều có ca nhạc đờn ca tài tử. Đêm th́ các cô đầu tới hát, khi cô đầu ngưng hát th́ có hát thuật (hát có điệu bộ, cử chỉ, có cốt truyện) xen vào để thay đổi không khí cho đám thanh niên thưởng thức, đỡ ngán.
Được ít năm, chợ Bến Thành cũ cũng phải dời đi để người Pháp lấp con kinh làm đường lớn chạy từ mé sông tới Ṭa Đô chính (nay là UBND TP.HCM) với những cơ sở hành chính của người Pháp được lập ra như: sở Ngân khố, sở Thương cảng và con đường được mang tên Charner - một sĩ quan thủy binh của Pháp đánh Nam Kỳ lúc đó. Khi ngôi chợ Bến Thành cũ được dời về địa điểm mới, ở khu phố chợ cũ này người Hoa vẫn duy tŕ các quán ca lâu, cà phê, hủ tíu và hiệu thuốc bắc. Rồi tiện thể gần bến sông, chiều chiều người dân chài lưới bên những con rạch gần đó mang tôm, cá, cua và rau quả… lên bán ở khu phố này, v́ vậy người dân c̣n gọi là chợ Cũ, nằm trên đường Tôn Thất Đạm, Q.1, TP.HCM hiện nay.
Dự án xây chợ Bến Thành mới
Dân số Sài G̣n năm 1970 khoảng 4 triệu người nên ngôi chợ giữa trung tâm thành phố trở nên lỗi thời, chính quyền cũ mở cuộc thi vẽ đồ án để xây dựng một ngôi chợ mới. Có 8 tác phẩm gửi tới dự thi và đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Măng đoạt giải nhất. Theo dự trù vào năm 1972, kinh phí xây dựng chợ lên tới gần 2 tỉ đồng, chính quyền không đủ tài chính nên việc xây dựng chợ mới chưa thực hiện được. Và nhờ thế, TP.HCM có được kiến trúc xưa của ngôi chợ Bến Thành xây dựng từ hồi đầu thế kỷ 20.
|
Lư Nhân Phan Thứ Lang
(L.C.Sơn lược trích)
Post ngày:
12/08/18
Nguồn: Internet |
|