Hơn 300 h́nh
thành và phát triển, Sài G̣n
đă trăi qua nhiều thời kỳ,
nếm trăi thăng trầm lịch sử
cùng con người phương nam.
Hăy t́m hiểu Sài G̣n thân
yêu qua các thời kỳ đó...
Ngàn năm trước (trước 1698)
Trước khi
Chúa Nguyễn thiết lập bộ máy
cai trị (1698) th́ Sài G̣n -
Gia Định c̣n là một vùng đất
hoang vu, rừng rậm, sông
nước, xen lẫn những g̣ đất
cao nằm trong vùng đất mới,
rộng lớn, mênh mông ở phía
Nam trải dài tới biển Đông.
Cách đây
khoảng 3000 - 4000 năm trên
vùng đất này đă có những
nhóm cư dân cổ sinh sống với
nhiều nền văn hóa từ thời kỳ
đồ đá cho đến thời kỳ kim
khí. Những cư dân cổ từng
sinh sống trên vùng đất Sài
G̣n từ nhiều thiên niên kỷ
trước đă biết canh tác nông
nghiệp và bắt đầu chinh phục
vùng đất thấp ở phía nam và
phía đông nam. Lúc bấy giờ
cuộc sống con người ở đây
hết sức tự do, không có lănh
thổ quốc gia, không có địa
giới hành chánh và cũng chưa
có khái niệm về vùng đất "Sài
G̣n."
Sài
G̣n vào thế kỷ 16 - 17
Măi đến giữa
thế kỷ 17, vào thời Chúa
Nguyễn Hoàng (1558-1613)
được đặc quyền cai trị đất
Đàng trong, đă bắt đầu công
cuộc di dân người Việt đến
khai phá vùng đất mới phía
Nam. Vùng đất Sài G̣n lúc
bấy giờ ở vị thế trung tâm
vùng đất mới, thuận tiện cho
việc làm ăn sinh sống, là
một trong những nơi mà nhóm
dân cư Việt đầu tiên đến đây
định cư.
Đến năm 1623
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho
đặt trạm thu thuế thương
chính đầu tiên tại Sài G̣n
và Bến Nghé. Đây là dấu hiệu
ban đầu xuất hiện h́nh thức
kiểm soát của nhà nước trên
vùng đất Sài G̣n xưa.
Tháng 3 năm
1679 Chúa Nguyễn lại cho lập
đồn binh Tân Mỹ (vùng chợ
Thái B́nh, quận I ngày nay).
Quyền lực nhà nước của Chúa
Nguyễn được áp đặt vào vùng
đất mới phía Nam chuẩn bị
cho việc h́nh thành bộ máy
cai trị. Cho đến thời điểm
này, vùng đất mới phía Nam
vẫn chưa phân định địa giới
hành chánh. Song Sài G̣n đă
giữ vị trí trung tâm v́
quyền lực cai trị vùng đất
phía Nam tập trung ở đây.
Về
địa danh Sài G̣n
Tên "Sài G̣n"
đă xuất hiện từ nhiều thế kỷ
trước, cách đây đă hơn 300
năm. Đó là tên gọi một vùng
đất (địa danh) do cư dân
Việt đặt ra để chỉ một khu
vực đông dân cư sinh sống
tập trung, sinh hoạt theo
vùng đất đô thị ở vùng đất
mới phía Nam.
Tên gọi "Sài
G̣n" đă lần lượt để chỉ bốn
vùng đất khác nhau. Thoạt
đầu "Sài G̣n" dùng để chỉ
đất của tiểu quốc Thù Nại,
bao gồm phần lớn vùng đất
Đông Nam bộ (khoảng 20.000 -
25.000km2). Năm 1698 tên
Sài G̣n để chỉ vùng đất
huyện Tân B́nh rộng khoảng
5.000 km2, tính từ phía bờ
tây sông Sài G̣n, một phần
của xứ Sài G̣n ngày nay là
địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh. "Sài G̣n" c̣n là tên
gọi của vùng đất của hai khu
vực đô thị được bảo vệ bởi
lũy Lăo Cầm (1700), lũy Hoa
Phong (1731) và lũy Bán Bích
(1772) với diện tích khoảng
25 km2. Sài G̣n cũng là tên
gọi của khu vực chợ buôn bán
của người Hoa vào thế kỷ 18
(rộng khoảng 1km2), sau này
trở thành khu Chợ Lớn.
Thành phố Hồ
Chí Minh ngày nay bao gồm cả
đô thành Sài G̣n - Chợ Lớn,
tỉnh Gia Định và một phần
tỉnh Chợ Lớn cũ, địa bàn
thành phố rộng lớn hơn xưa,
nhưng cũng là khu vực trung
tâm của đất Gia Định xưa.
Sài
G̣n buổi ban đầu
Năm 1698 là
mốc lịch sử đánh dấu sự khai
sinh vùng đất Sài G̣n xưa,
khi Thống xuất chưởng cơ
Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh
Chúa Nguyễn vào Nam kinh
lược lập ra phủ Gia Định để
cai quản vùng đất mới phía
Nam và lập ra hai huyện đầu
tiên Phước Long và Tân B́nh
thuộc phủ Gia Định. Diện
tích phủ Gia Định lúc này
khoảng 30.000km2.
Huyện Tân
B́nh được lập ra từ xứ Sài
G̣n với dinh Phiên Trấn và
những đơn vị hành chánh cơ
sở đầu tiên (lân, làng,
phường, xă, thôn, ấp) là
h́nh dáng Sài G̣n trong buổi
ban đầu.
Sài
G̣n thế kỷ 18
Trong suốt
thế kỷ 18, thời Sài G̣n
thuộc Gia Định phủ
(1698-1802) th́ địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh ngày
nay gồm địa phận hai tổng
B́nh Dương và Tân Long của
huyện Tân B́nh, (thuộc Dinh
Phiến Trấn) và trên một nửa
địa phận tổng B́nh An (tức
huyện Thủ Đức) của huyện
Phước Long thuộc Dinh Trấn
Biên. Năm 1795, Le Brun vẽ
bản đồ vùng đất Sài G̣n -
Chợ Lớn có ghi vị trí thành
Bát Quái, các phố thị Minh
Hương, Bến Nghé rồi đặt tên
chung là Thành phố Sài G̣n.
Có thể h́nh dung tổng quát
vào cuối thời Gia Định phủ,
địa bàn Thành Phố (nay) được
phân biệt bởi hai vùng với
hai bộ mặt khác nhau: vùng
chợ nằm trong ṿng "cổ lũy"
và vùng quê đất rộng, thưa
dân thuộc các tổng B́nh
Dương, Tân Long, B́nh An.
Sài
G̣n thời Gia Định Trấn và
Gia Định Thành (1802-1832)
Sau khi chiến
thắng Tây Sơn lấy lại kinh
thành Phú Xuân - Huế (năm
1802), Nguyễn Ánh bỏ Gia
Định kinh, đổi Gia Định phủ
thành Gia Định trấn và đến
năm 1808 lại đổi Gia Định
trấn ra Gia Định thành, các
"dinh" đều đổi thành "trấn".
Gia Định thành thống quản
năm trấn (toàn Nam Bộ). Dinh
Phiên Trấn đổi thành trấn
Phiên An. Huyện Tân B́nh đổi
thành phủ, 4 tổng của huyện
Tân B́nh nâng lên thành
huyện lập ra nhiều tổng mới.
Thời kỳ này địa bàn thành
phố nay bao gồm địa phận của
2 tổng B́nh Trị, Dương Ḥa
của huyện B́nh Dương và 2
tổng Tân Phong, Long Hưng
của huyện Tân Long (4 tổng
trên đều thuộc phủ Tân B́nh,
trấn Phiên An), phần c̣n lại
là địa phận của tổng An Thủy
- Huyện B́nh An và một phần
của tổng Long Vĩnh - huyện
Long Thành (thuộc phủ Phước
Long - trấn Biên Ḥa).
Từ sau 1820,
dưới mắt của thương gia và
phái bộ nước ngoài đă có một
thành phố gồm hai đô thị lớn
không kém ǵ kinh đô nước
Xiêm ở cách nhau hai dặm,
thành phố Sài G̣n (là Chợ
Lớn nay) và thành phố Bến
Nghé mới xây dựng. Họ gọi
chung là thành phố Sài G̣n
nơi đô hội cả nước lúc bấy
giờ không đâu sánh bằng.
Sài
G̣n thời Lục tỉnh Nam kỳ
(1832-1862)
Từ sau năm
1832, Minh Mạng giải thể cấp
Gia Định thành, chia năm
trấn thành sáu tỉnh. Trấn
Phiên An đổi thành tỉnh
Phiên An, trấn Biên Ḥa đổi
thành tỉnh Biên Ḥa.
Năm 1836,
tỉnh Phiên An được đổi tên
là tỉnh Gia Định có thêm một
phủ mới là phủ Tây Ninh. Năm
1841, phủ Tân B́nh lại lập
thêm huyện B́nh Long (lỵ sở
tại Hốc Môn). V́ vậy, sau
1841, địa bàn thành phố
(nay) nằm trên địa phận ba
huyện B́nh Dương, B́nh Long,
Tân Long (của phủ Tân B́nh)
và một phần đất của huyện
Ngăi An và Long Thành thuộc
phủ Phước Long tỉnh Biên
Ḥa.
Sài
G̣n thời Pháp cai trị
(1862-1955)
Địa bàn thành
phố (nay) lúc này bao gồm
địa giới của hai huyện B́nh
Dương, Tân Long của phủ Tân
B́nh, với phần đất đai của
huyện B́nh Long thuộc phủ
Tây Ninh (tỉnh Gia Định) và
cộng thêm trên một nửa địa
phận huyện B́nh An cùng với
địa phận tổng Long Vĩnh Hạ,
huyện Long Thành, cùng thuộc
phủ Phước Long của tỉnh Biên
Ḥa.
Vùng đô thị
Sài G̣n - Bến Nghé nằm trên
đất của phủ Tân B́nh, được
xác lập ranh giới từ chùa
Cây Mai đến rạch Thị Nghè,
nằm trong kênh vành đai giáp
tới sông Tân B́nh (sông Sài
G̣n nay) được qui hoạch là
thành phố Sài G̣n (theo bản
đồ Coffin năm 1862). Năm
1865 qui hoạch "Thành phố
Sài G̣n" lại được chia thành
hai thành phố: Thành phố Sài
G̣n ở về phía Đông địa bàn
thành phố cũ, tức vùng Bến
Nghé xưa nơi có tỉnh thành
Gia Định và thành phố Chợ
Lớn, vùng trước đây gọi là
"Phố thị Sài G̣n".
Sài
G̣n thời kỳ 1956-1975
Trong khoảng
20 năm (1955-1975), thành
phố Sài G̣n cũng có nhiều
biến đổi. Từ năm 1956, đô
thành Sài G̣n - Chợ Lớn trở
thành thủ đô chính quyền ở
miền Nam, được quen gọi là "đô
thành Sài G̣n". Năm 1959, đô
thành Sài G̣n được chia
thành 8 quận hành chánh, mỗi
quận chia ra nhiều phường.
Tháng 12-1966, quận I thêm
hai phường mới từ xă An
Khánh (Gia Định) lập ra.
Tháng 1-1967 tách hai phường
mới của quận I (xă An Khánh
cũ) lập thêm quận 9. Tháng
7-1969 lập thêm quận 10 và
quận 11. Từ đấy đến năm
1975, đô thành Sài G̣n có 11
quận.
Tính đến
trước ngày giải phóng
(30-4-1975) th́ địa bàn
thành phố nay bao gồm 11
quận của đô thành Sài G̣n,
toàn bộ địa phận tỉnh Gia
Định, quận Củ Chi (tỉnh Hậu
Nghĩa) và quận Phú Ḥa (tỉnh
B́nh Dương).
Sài
G̣n sau ngày thống nhất đất
nước
Sau ngày
thống nhất 30/4/1075 thành
phố Sài G̣n - Gia Định trở
thành Thành phố Hồ Chí Minh
là một thành phố lớn nhất
của cả nước với tổng diện
tích tự nhiên 1.295,5km2 bao
gồm vùng nội đô Sài G̣n -
Chợ Lớn với vùng ven đô và
ngoại thành thuộc tỉnh Gia
Định trước đây. Từ 11 quận
nội thành được điều chỉnh
lại c̣n 8 quận. Lập ra 4
quận mới: G̣ Vấp, Phú Nhuận,
B́nh Thạnh (từ hai xă B́nh
Ḥa và Thạnh Mỹ Tây), Tân
B́nh (từ xă Tân Sơn Ḥa và
Tân Sơn Nh́ cũ). Diện tích
các quận nội thành và ven đô
là 142,7 km2 chia ra 267
phường. Khu vực ngoại thành
gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc
Môn, Củ Chi, B́nh Chánh, Nhà
Bè với tổng diện tích tự
nhiên 1.152,8 km2 chia ra 77
xă.
Năm 1978,
thành phố tiếp nhận thêm hai
huyện Duyên Hải (nay đổi là
Cần Giờ - là quận Quản Xuyên
và Cần Giờ trước đây) của
tỉnh Đồng Nai. Nhờ vậy, diện
tích mở rộng thêm 714km2 và
có bờ biển dài 15km. Huyện
Cần Giờ rộng lớn nhưng chỉ
có 39.000 dân (59 người/km2)
sống rải rác trên 7 xă. Đây
là nơi đời sống dân cư rất
khó khăn, lúc đầu không có
điện, không có nước ngọt,
không có đường bộ...
Năm 1979, sau
khi điều chỉnh đơn vị hành
chánh cấp cơ sở, toàn thành
phố có 261 phường, 86 xă.
Đến năm 1989 thành phố điều
chỉnh lại c̣n 182 phường và
100 xă, thị trấn. Năm 1997,
sau đợt điều chỉnh tháng 4,
toàn thành phố có 17 quận, 5
huyện với 303 phường xă, thị
trấn. Đến nay thành phố có
19 quận và 5 huyện.
|