Sài G̣n và Tuổi Thơ của Tôi
		
		
		Trần Mộng Tú
		
		
		Tôi xa quê hương ở vào tuổi không quá trẻ dại để dễ quên và cũng không 
		quá già để chỉ dành toàn thời giờ cho một điều mất mát, rồi đau đớn. Tôi 
		ở vào tuổi mà khi bước đến vùng đất mới, đời sống đă như lôi tôi đi 
		trong một cơn lốc trên những con đường khác nhau trước mặt, hầu như 
		không ngưng nghỉ. Tôi chóng mặt, nhưng tôi vẫn biết tôi là ai và tôi ở 
		đâu trên quê người, nên những lúc tôi phải ngưng lại để thở là những lúc 
		hồn quê nôn nao thức dậy trong tôi.
		
		
		Mỗi lần nhớ đến quê nhà là nhớ đến Sài G̣n trước tiên. Sài G̣n không 
		phải là phần đất dành riêng cho người miền Nam nữa, đối với người miền 
		Bắc di cư vào Nam năm 1954, người Trung chạy giặc Cộng năm 1968 th́ Sài 
		G̣n chính là phần đất quê nhà đáng nhớ nhất.
		
		
		
		
		Thùng Thư Sài G̣n
		
		
		Tôi lớn lên, sống cả một thời niên thiếu ở Sài G̣n. Đi học, dậy th́, yêu 
		đương, mơ mộng, làm việc, lấy chồng, khóc, cười, rồi chia ly với Sài 
		G̣n.
		
		
		
		Bên hông nhà thờ Đức Bà Saigon
		
		
		ADVERTISEMENT
		
		
		Tôi nhớ lại hồi bé theo bố mẹ di cư vào Sài G̣n. Ba tôi làm việc ở Nha 
		Địa Chánh, nên từ những căn lều bạt trong trại tiếp cư Tân Sơn Nhất, gia 
		đ́nh tôi được dọn vào ở tạm một khu nhà ngang trong sở của Ba ở số 68 
		đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng) sau lưng Bưu Điện. Tôi đi học, đi bộ 
		băng qua hai con đường là tới trường Ḥa B́nh, bên hông nhà thờ Đức Bà. 
		Tôi vào lớp Ba. Ngày đầu tiên cắp sách đến lớp, ma sơ dĩ nhiên là người 
		Nam, hồi đó c̣n mặc áo ḍng trắng, đội lúp đen. Sơ đọc chính (chánh) tả:
		
		
		Hoa hường phết (phết là dấu phẩy)
		
		
		Cái tai của con bé con Bắc kỳ không quen với phát âm miền Nam nên “hoa 
		hường” thành “qua tường” và phết thành một chữ nữa. tôi viết: Qua tường 
		phết.
		
		
		Bài chính tả dài một trang của tôi chắc chắn là ăn một con số 0 mầu đỏ 
		to tướng v́ nguyên bài bị gạch xóa bằng mực đỏ lè. Tôi như một người 
		ngoại quốc nghe tiếng Việt. Nhưng tôi học thuộc ḷng trong sách th́ giỏi 
		và thuộc nhanh lắm. Khi khảo bài tôi được điểm tốt, mặc dù bạn học chung 
		lớp khó hiểu con nhỏ Bắc kỳ đọc cái ǵ. Ma sơ cứ nh́n sách, nghe tôi đọc 
		làu làu, biết là tôi có thuộc bài. Tôi nhớ một bài học thuộc ḷng về 
		thành phố Sài G̣n như thế này:
		
		
		Sài G̣n ṿi nước bùng binh
		Này bảng báo hiệu này ṿng chỉ tên
		Trụ đèn, giây thép, tượng h́nh
		Lính canh, cảnh sát giữ ǵn công an
		Mặc dầu đường rộng thênh thang
		Ngựa xe đi lại luật hành phải thông
		Mặc dầu đường rộng mênh mông
		Mũi tên chỉ rơ bảng trông dễ t́m
		Trần Hưng, Lê Lợi, Chu Trinh…
		
		 
		
		
		Trần Hưng là đường Trần Hưng Đạo, Chu Trinh là đường Phan Chu Trinh, 
		viết tắt trong bài học thuộc ḷng. Từ bài học đó, tôi hiểu được hai chữ 
		“bùng binh” là ǵ.
		
		
		
		
		
		Ngôi trường đó tôi chỉ học hết lớp ba. Sau đó Ba Mẹ tôi t́m được nhà ở 
		bên Thị Nghè, tôi được đi học lớp nh́, lớp nhất ở trường Thạnh Mỹ Tây, 
		có rất nhiều bạn cũng Bắc kỳ di cư như tôi.
		
		
		Kỷ niệm về Sài G̣n tôi nhớ nhất là lần đầu tiên con bé Bắc kỳ tṛn xoe 
		mắt, nh́n thấy đồng bạc xé làm hai, nếu chỉ muốn tiêu một nửa. Mua cái 
		bánh, gói kẹo nào cũng chỉ xé hai đồng bạc. Xé rất tự nhiên, tiền mới 
		hay tiền cũ ǵ cũng xé. Người mua xé, mua; người bán xé để trả (thối) 
		lại. Tôi đă biết bao lần, vào những buổi tối mùa hè, mẹ cho một đồng, 
		hai chị em mua ngô (bắp) nướng của người đàn bà, ngồi dưới chân cột đèn 
		điện trước cửa sở Địa Chánh với cái ḷ than nhỏ xíu, bán bắp nướng quẹt 
		hành mỡ. Dưới ánh sáng hắt lờ mờ của bóng đèn từ trên cao xuống, cái ḷ 
		than nhỏ xíu, thơm lừng mùi bắp non. Gọi là ḷ, thực sự chỉ có mấy cục 
		than hồng để trong một miếng sắt cong cong, bên trên có cái vỉ bằng giây 
		thép, rối tung, những cái bắp được xếp lên đó, mà bà bán hàng trở qua, 
		lật lại. Đôi khi cũng là một cái ḷ gạch nhỏ đă vỡ, mẻ mất mấy miếng 
		rồi, không thể kê nồi trên đó, bà hàng mang ra để nướng bắp. Hai chị em 
		đứng líu ríu vào nhau (anh và chị lớn không tham dự vào những sinh hoạt 
		của hai đứa em nhỏ này), cầm tờ giấy bạc một đồng, đưa ra.
		
		
		Tôi luôn luôn ngần ngừ không dám xé, đưa cho bà bán hàng; bà cầm lấy, xé 
		toạc làm hai, khi tôi chỉ mua một cái bắp. Bà đưa phần nửa tiền c̣n lại 
		để chúng tôi có thể cất đi, tối mai lại ra mua bắp nữa. Mỗi lần thấy 
		đồng bạc bị xé, tuy không phát ra tiếng động, tôi cũng giật ḿnh đánh 
		thót một cái như nghe thấy đồng bạc của ḿnh bị bể hay bị gẫy. Cảm tưởng 
		như mất luôn cả phần tiền đưa ra và phần giữ lại. Phải mất bao nhiêu lần 
		nh́n đồng tiền bị xé mới quen mắt cái h́nh ảnh “Đồng bạc xé hai” này và 
		tin là nửa kia vẫn dùng mua bán được.
		
		
		Bẻ cái bắp làm đôi, tôi với em tôi chia nhau. Ngon ơi là ngon! Bắp dẻo, 
		thơm mùi lửa than, thơm mùi hành mỡ. Chị em tôi ăn dè xẻn từng hạt bắp 
		một. Ăn xong chúng tôi dắt nhau đi t́m ve sầu ở những thân cây me trong 
		bóng tối. Buổi tối ve sầu mùa hạ, chui ở đất lên, ḅ lên các thân me, 
		lột xác. Chúng tôi bắt những con chưa kịp lột cho vào cái hộp (không) 
		bánh bích quy đă mang theo sẵn. Đó là những con ve mới ngơ ngác ḅ lên 
		khỏi mặt đất, mang về nhà. Thuở thơ dại những tṛ chơi này là cả một thế 
		giới thơ mộng và đầy hấp dẫn. Chị em tôi mang hộp ve sầu vào giường ngủ, 
		ban đêm những con ve này sẽ chui ra ḅ lên màn, lột xác. Đêm chúng tôi 
		đi vào giấc ngủ, th́ ve chui ra, lột xác xong bỏ lại những vệt dài nhựa 
		thâm đen trên những cánh màn tuyn trắng toát. Khi chúng tôi thức dậy 
		nh́n thấy, chưa kịp dụi mắt t́m mấy con ve, đă thấy mẹ đứng ở ngoài màn 
		với cái chổi phất trần trên tay. Chúng tôi chưa bị roi nào th́ đă có bố 
		đứng bên, gỡ cái chổi ở tay mẹ mang đi, trong lúc những cái lông gà trên 
		chổi c̣n đang ngơ ngác.
		
		
		Sài G̣n c̣n cho tuổi thơ của chúng tôi biết thế nào là cái ngọt ngào, 
		thơm, mát của nước đá nhận. Trong sân trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây, tôi 
		được ăn cái đá nhận đầy mầu sắc đầu tiên. Một khối nước đá nhỏ, đặt trên 
		một lưỡi dao bào, bào vào cái ly bên dưới, khi đầy ly, ông bán hàng ấn 
		(nhận) nước đá ép xuống, đổ ngược ly lại, lấy cái khối nước đá xôm xốp, 
		có h́nh dáng cái ly ra. Rắc si-rô xanh đỏ, có khi c̣n có mầu vàng và mầu 
		xanh lá cây với vị bạc hà nữa. Gọi là nước đá nhận. Học tṛ trẻ con, bạn 
		thân, sung sướng chia nhau ở sân trường, mỗi đứa mút một cái, chuyền tay 
		nhau. Nước đá nhận, bánh kẹo ở sân trường trong những giờ ra chơi đều 
		được mua bằng đồng bạc xé hai này.
		
		
		
		
		Đồng bạc này thường bị xé đôi khi cần năm cắc
		
		
		
		
		
		Gánh hàng rong
		
		 
		
		
		Ba tôi bảo cầm đồng tiền xé hai một cách tự nhiên như thế quả là một 
		điều rất dung dị, xuề x̣a, dễ dăi mà chỉ người miền Nam mới có được. Xé 
		tiền mà như xé một tờ giấy gói hàng, giấy gói bánh, như xé một tờ báo. 
		Mảnh xé ra có giá trị lúc đó, mảnh c̣n lại cũng vẫn c̣n giá trị sau này. 
		Người Hà Nội cầm tờ giấy bạc rách, th́ vuốt cho thẳng thắn lại, có khi 
		lấy hạt cơm dẻo miết lên chỗ rách cho dính vào nhau, rồi cẩn thận gấp 
		lại trước khi cho vào túi. Một thời gian sau, tiền không xé nữa, được 
		thay bằng đồng bạc 50 su bằng nhôm, h́nh tṛn, một mặt có h́nh tổng 
		thống Ngô Đ́nh Diệm, mặt sau là h́nh khóm trúc. (Biểu hiệu cho: Tiết 
		Trực Tâm Hư)
		
		
		
		
		
		Tiền xu thời Đệ Nhất Cọng Hoà Việt nam
		
		
		Cuộc di cư 1954 đó giúp cho người Việt hai miền Nam, Bắc hiểu nhau hơn. 
		Người Bắc sống và lớn lên ở Sài G̣n ở thế hệ chúng tôi học được cái đơn 
		sơ, chân phương của người miền Nam và ngược lại những bạn học người Nam 
		của tôi cũng học được cách ư tứ, lễ phép (đôi khi đến cầu kỳ) của người 
		miền Bắc. Tôi đă được nghe một người miền Nam nói: Sau 1975 th́ chỉ có 
		những người Bắc di cư 54 là đồng bào của người miền Nam mà thôi. Hóa ra 
		những người Bắc sau này ở ngoài cái bọc (đồng bào) của bà Âu Cơ hay sao? 
		Nếu thật sự như thế th́ thật đáng buồn!
		
		
		
		
		Xe 
		ngựa đực dung để chở hàng thực phẩm tươi từ vùng phụ cận vào Sài G̣n
		
		
		Sài G̣n đầu thập niên sáu mươi vẫn c̣n có xe ngựa, đưa những bà mẹ đi 
		chợ. Người xà ích lúc đó chưa biết sợ hăi trên những con đường c̣n mù 
		sương buổi sáng. Tiếng lóc cóc của móng ngựa chạm xuống mặt đường như 
		đánh thức một b́nh minh. Tôi nhớ có chỗ gọi là Bến Tắm Ngựa, mỗi lần đi 
		qua, hôi lắm. Sau vài mươi năm xe thổ mộ ở Sài G̣n không c̣n nữa, chỉ 
		c̣n ở lục tỉnh.
		
		
		
		xích lô máy
		
		
		Sài G̣n với xích lô đạp, xích lô máy, taxi, vespa, lambretta, velo, 
		mobilette là những phương tiện di chuyển mang theo đầy nỗi nhớ. Kỷ niệm 
		thơ mộng của một thời trẻ dại, hương hoa và nước mắt. Sài g̣n với những 
		cơn mưa ập xuống th́nh ĺnh vào tháng năm tháng sáu, tiếng mưa khua vang 
		trên những mái tôn, tắm đẫm những hàng me già, ướt sũng những lối đi vào 
		ngơ nhà ai, Sài G̣n với mùa hè đỏ rực hoa phượng vĩ in xuống vạt áo học 
		tṛ, với những hoa nắng loang loang trên vai áo bà ba của những bà mẹ là 
		những mảng kư ức ngọt ngào trong tâm của chúng tôi.
		
		
		
		Taxi (hang Renault) và 
		
		Velo solex
		
		
		Mỗi tuổi đời của tôi đi qua như những hạt nắng vàng rắc xuống trên những 
		hàng me bên đường, như mưa đầu mùa rụng xuống trên những chùm hoa bông 
		giấy. Những tên đường quen thuộc, mỗi con phố đều nhắc nhở một kỷ niệm 
		với người thân, với bạn bè. Chỉ cần cái tên phố gọi lên ta đă thấy ngay 
		một h́nh ảnh đi cùng với nó, thấy một khuôn mặt, nghe được tiếng cười, 
		hay một mẩu chuyện rất cũ, kể lại đă nhiều lần vẫn mới. Ngay cả vệ 
		đường, chỉ một cái bước hụt cũng nhắc ta nhớ đến một bàn tay đă đưa ra 
		cho ta níu lại.
		
		
		
		Mía ghim
		
		
		Âm thanh của những tiếng động hàng ngày, như tiếng chuông nhà thờ buổi 
		sáng, tiếng xe rồ của một chiếc xích lô máy, tiếng rao của người bán 
		hàng rong, tiếng chuông leng keng của người bán cà rem, tiếng gọi nhau 
		ơi ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn xao khi đi qua cửa chợ, vẻ 
		im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau cơn mưa… làm nên một Sài G̣n 
		bềnh bồng trong nỗi nhớ.
		
		
		Sài G̣n mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng tôi lớn lên, đi qua 
		thời kỳ tiểu học, vào trung học th́ chiến tranh bắt đầu thấp thoáng sau 
		cánh cửa nhà trường. Đă có những bạn trai thi rớt Tú Tài phải nhập ngũ. 
		Những giọt nước mắt đă rơi xuống sân trường. Sau đó, với ngày biểu t́nh, 
		với đêm giới nghiêm, với ṿng kẽm gai, với hỏa châu vụt bay lên, vụt rơi 
		xuống, tắt nhanh, như tương lai của cả một thế hệ lớn lên giữa chiến 
		tranh.
		
		
		
		
		
		
		
		T́nh Thầy tṛ
		
		 
		
		
		
		
		Chợ Bến Thành (1960)
		
		
		Sài G̣n như một người t́nh đầu đời, để cho ta bất cứ ở tuổi nào, bất cứ 
		đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra như một vệt son c̣n chói đỏ. 
		Sài G̣n như một mảnh trầm c̣n nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương 
		trên ngực chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống.
		
		
		Sài G̣n khi đổi chủ chẳng khác nào như một bức tranh bị lật ngược, muốn 
		xem cứ phải cong người, uốn cổ ngược với thân, nên không c̣n đoán ra 
		được h́nh ảnh trung thực nguyên thủy của bức tranh.
		
		
		Sài G̣n bây giờ trở lại, thấy ḿnh trở thành một du khách trên một xứ sở 
		hoàn toàn lạ lẫm. Tôi thương Sài G̣n và thương cho chính ḿnh, đă hư hao 
		một chốn để về.
		
		
		
		Trần Mộng Tú
		Post ngày:
		12/08/18 
		Nguồn: Internet