| 
													 
													
													 Kể 
													từ khi Lễ Thành Hầu 
													Nguyễn Hữu Cảnh được 
													chúa Nguyễn Phúc Chu cử 
													đi lập chính quyền , thì 
													Sài Gòn - Gia Định đã 
													có hơn 300 năm lịch sử ( 
													1698 - 2008 ). Và trong hơn 
													300 năm đó , Sài Gòn đã 
													nếm trãi biết bao thăng 
													trầm sóng gió , nhưng 
													không vì thế mà Sài Gòn 
													đánh mất đi giá trị của 
													chính mình... 
													
													
													Có rất nhiều giả thiết 
													khác nhau về nguồn gốc 
													của tên gọi "Sài Gòn" , 
													thế nhưng chúng ta có thể 
													chia ra thành 4 giả thiết 
													sau : 
													
													
													Đề Ngạn
													
													
													 
													Đây là thuyết được đưa ra 
													bởi 2 người Pháp là Aubaret 
													và Francis Garnier. Theo 
													Aubaret, Histoire et 
													description de la 
													Basse-Cochinchine, và 
													Garnier, Cholen, th́ năm 
													1778 người Hoa ở Cù lao Phố 
													(Biên Ḥa) v́ giúp đỡ nhà 
													Nguyễn nên bị quân nhà Tây 
													Sơn tàn sát phải rút lui 
													theo con sông Tân B́nh (Bến 
													Nghé), chọn vùng đất ở giữa 
													đường Mỹ Tho đi Cù lao Phố 
													mà xây dựng tân sở, ngày sau 
													thành phố Chợ Lớn. Năm 1782 
													họ lại bị quân nhà Tây Sơn 
													tàn sát một lần nữa. Ít lâu 
													sau họ xây dựng lại, đắp đê 
													cao nên đặt tên chỗ mới là 
													"Tai-Ngon", hoặc "Tin-Gan", 
													phát âm theo giọng Quảng 
													Đông là "Thầy Ngồn" hay "Th́ 
													Ng̣n", đọc theo âm Hán-Việt 
													là "Đề Ngạn" (堤岸). Họ dùng 
													danh từ "Tây Cống" hoặc "Xây-cóon", 
													"Xi-cóon" để ám chỉ vùng 
													người Việt ở tức chợ Bến 
													Thành ngày nay. 
													 
													Thuyết này được hai học giả 
													là Vương Hồng Sển và Thái 
													Văn Kiểm đồng ư. Quả thật, 
													trên phương diện ngữ âm, th́ 
													"Thầy Ng̣n", "Xi Coón" rất 
													giống "Sài G̣n". Tuy nhiên, 
													theo lịch sử th́ không phải, 
													v́ lịch sử chứng minh rằng 
													Sài G̣n có trước, rồi người 
													Tàu mới đọc theo và đọc chại 
													ra thành Thầy Ng̣n, Xi Coon. 
													 
													Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê 
													Quư Đôn viết năm 1776, năm 
													1674 Thống suất Nguyễn Dương 
													Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn 
													đánh Cao Miên và phá vỡ "Luỹ 
													Sài G̣n" (theo Hán Nho viết 
													là "Sài Côn"). Đây là lần 
													đầu tiên chữ "Sài G̣n" xuất 
													hiện trong tài liệu Việt 
													Nam. V́ thiếu chữ viết nên 
													chữ Hán "Côn" được dùng thế 
													cho "G̣n". Nếu đọc theo Nôm 
													là "G̣n", c̣n không biết đó 
													là Nôm mà đọc theo chữ Hán 
													th́ là "Côn". 
													 
													Như vậy, ngay từ năm 1674 đă 
													có địa danh Sài G̣n, không 
													phải đợi đến 1778 khi người 
													Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn 
													tiêu diệt rồi chạy xuống lập 
													nên Thầy Ng̣n tức Đề Ngạn, 
													hay Xi Coón tức Tây Cống. 
													 
													Ngoài ra, về nghĩa lư th́ cả 
													hai chữ này hầu như vô nghĩa 
													theo tiếng Hán. Nếu dịch sát 
													th́ "Đề Ngạn" là "nắm lấy (đề), 
													bờ sông cao dốc (ngạn)". 
													Theo Nguyễn Đ́nh Đầu trong 
													Địa Chí Văn Hoá, tr 219, tập 
													1, th́ "thành phố trên bến 
													dưới thuyền nào mà không có 
													bờ sông cao dốc, mà không là 
													đề ngạn". 
													 
													Cuối cùng, nếu tính theo 
													hiện tượng th́ việc người 
													Tàu đặt tên cho địa danh ở 
													miền Nam hầu như không có. 
													Ngược lại, họ gọi theo địa 
													danh của Việt Nam bằng tiếng 
													của họ th́ có. Thí dụ như "Đồng 
													Nai" biến thành "Nông Nại" 
													theo tiếng Tàu. 
													
													
													  
													
														
														  
													
														
														 
  
													
													
													  
													
													
													Củi và Bông g̣n
													
													
													 
													Có thuyết nói rằng "Sài G̣n" 
													bắt nguồn từ chữ "Sài" theo 
													chữ Hán là củi và "G̣n" là 
													chữ Nôm chỉ cây bông g̣n. 
													 
													"Sài là mượn tiếng viết theo 
													chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, 
													G̣n là tiếng Nam chỉ bông 
													g̣n. Người ta nói rằng tên 
													đó phát sinh bởi sự kiện 
													nhiều cây bông g̣n do người 
													Cao Miên đă trồng chung 
													quanh đồn đất xưa của họ, mà 
													dấu vết nay vẫn c̣n ở chùa 
													Cây Mai và các vùng lân cận. 
													... Theo ư tôi, h́nh như tên 
													đó là của người Cao Miên đặt 
													cho xứ này, rồi sau đem làm 
													tên gọi thành phố. Tôi chưa 
													t́m ra được nguồn gốc đích 
													thực của tên đó." 
													 
													
													
													 
													Tương tự có nhiều thuyết cho 
													rằng "Sài G̣n" từ chữ "Prey 
													Kor" (Rừng G̣n) hay "Kai 
													Gon" (Cây G̣n) mà ra. Nói 
													chung, các thuyết này đều 
													dựa trên một đặc điểm chính: 
													cây bông g̣n. 
													 
													Nhưng thuyết này phần lớn đă 
													bị bác bỏ v́ lư do đơn giản 
													là không ai t́m được dấu 
													tích của một thứ "rừng g̣n" 
													ở vùng Sài G̣n, hay sự đắc 
													dụng của củi g̣n ở miền Nam, 
													kể cả Trương Vĩnh Kư. Ngay 
													vào thời của Trương Vĩnh Kư 
													(1885) tức khoảng hơn 100 
													năm sau mà đă không c̣n dấu 
													tích rơ ràng của thứ rừng 
													này, mặc dù lúc đó không có 
													phát triển ǵ lắm. Ngay cả 
													khi Louis Malleret khảo 
													nghiệm lại, h́nh như cũng 
													không có dấu vết ǵ của một 
													rừng g̣n ở Sài G̣n. 
													 
													Thêm nữa là cây g̣n thời đó 
													dùng làm hàng rào chứ không 
													làm củi. Và theo Lê Trung 
													Hoa trong Địa Danh th́ "sài" 
													chỉ xuất hiện trong các từ 
													ghép Hán-Việt, như "sài Tân" 
													chứ chưa bao giờ được dùng 
													như một từ đơn, nên không 
													thể nói "củi" được, là "sài" 
													được, hay là "củi g̣n" là 
													"Sài G̣n" được. 
													 
													Vậy, thuyết Sài G̣n là "củi 
													g̣n" đă bị bác bỏ bởi thực 
													tế địa lư và ngữ học. 
													
														
														  
													
													
													  
													 
													
													
													Prei Nokor
													
													
													 
													Dựa theo lịch sử và phát âm 
													có thuyết cho là "Sài G̣n" 
													là được phiên âm từ "Prei 
													Nokor" hay từ "Thầy Ngồn" mà 
													ra. Prei Nokor nguyên là 
													dinh của phó vương Chân Lạp 
													thuộc vùng Chợ Lớn tới chùa 
													Cây Mai, là dấu vết của một 
													"thành phố" có từ thời Tiền 
													Angkor (theo nhà sử học Pháp 
													Louis Malleret). Tuy nhiên 
													không có tài liệu nào khẳng 
													định rằng nơi đây từng tồn 
													tại khu dân cư trước thế kỷ 
													16. 
													 
													Ông Petrus Trương Vĩnh Kư là 
													người đưa ra thuyết này. 
													Trong tiểu giáo tŕnh Địa lư 
													Nam Kỳ, ông đă công bố một 
													danh sách đối chiếu 187 địa 
													danh Việt Miên ở Nam Kỳ, như 
													Cần Giờ là Kanco, G̣ Vấp là 
													Kompăp, Cần Giuộc là Kantuọc 
													và Sài G̣n là Prei Nokor. 
													 
													Hai ông Nguyễn Đ́nh Đầu và 
													Lê Trung Hoa đều đồng ư với 
													thuyết này, dựa theo lịch sử 
													và ngữ âm. 
													 
													Theo sử Cao Miên được dịch 
													lại bởi Louis Malleret, vào 
													năm 1623, một sứ thần của 
													chúa Nguyễn đem quốc thư tới 
													vua Cao Miên và ngỏ ư muốn 
													mượn xứ Prei Nokor và Kras 
													Krabei của Cao Miên để đặt 
													pḥng thu thuế. Tới năm 
													1674, Cao Miên có biến, chúa 
													Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm 
													đánh và phá luỹ Sài G̣n. 
													Vậy, từ 1623 tới 1674, vùng 
													Prei Nokor, hay Sài G̣n, đă 
													phát triển lắm. 
													 
													Năm 1747, theo danh mục các 
													họ đạo trong Launay, 
													Histoire de la Mission 
													Cochinchine, có ghi "Rai Gon 
													Thong" (Sài G̣n Thượng) và 
													"Rai Gon Hạ" (Sài G̣n Hạ). 
													 
													Đó la theo sử sách, c̣n theo 
													tiếng nói th́ Prei Nokor 
													(hay Brai Nagara theo tiếng 
													Phạn mà người Miên mượn), có 
													nghĩa là "thị trấn ở trong 
													rừng", "Prei" hay "Brai" là 
													"rừng", "Nokor" hay "Nagara" 
													là "thị trấn". Đây là vùng 
													mà chúa Nguyễn đă mượn làm 
													nơi thu thuế. 
													 
													Theo tiến tŕnh của ngôn 
													ngữ, Prei hay Brai biến 
													thành Rai, thành "Sài", 
													Nokor bị bỏ "no" thành 
													"kor", và từ "kor" thành 
													"g̣n". 
													
														
														  
													
													
													  
													
													
													Bến Củi
													
													
													 
													Dọc theo con đường Nam tiến 
													của dân tộc Việt Nam có 
													nhiều bến bên các ḍng sông: 
													Bến Vân đồn, Bến Thủy, Bến 
													Hải, Bến Quan, Bến Ván, Bến 
													Thóc, Bến Đ́nh, Bến Tranh, 
													Bến Tre, Bến Súc, Bến Tắm 
													Ngựa, Bến Thành, Bến Củi. 
													 
													Bến Ván đă được đổi ra Bản 
													Tân, Bến Thóc đă đổi ra Mễ 
													Tân. Bến Thành nay vẫn lưu 
													tên ở chợ Bến Thành. Bến Củi 
													có thể đă được đổi ra Sài 
													Tân, Sài Ngạn do người Quảng 
													Đông sống ở khu vực này gọi 
													chữ bến (bờ) là ngạn. Chữ 
													Sài Ngạn có lẽ sau này được 
													đọc thành Sài G̣n. 
													 
													
													
													(Sưu Tầm)   |