Đọc được bài này ở đâu đó không nhớ rõ, nay tìm được nhưng 
	không rõ nguồn, post lại ở đây để dành - xin cảm ơn tác giả về bài viết thú 
	vị này. Đây là bài phân tích sâu sắc nhất về các câu hát "Ví dầu" của miền 
	Nam mà tôi đọc được. Một số người không hiểu văn hoá, sinh hoạt dân miền Nam 
	nên đã đổi không đúng một vài từ ngữ trong các câu hát, ví dụ bài Ví 
	dầu cầu ván đóng đinh /Cầu 
	tre lắc lẻo gập ghình khó đi/ Khó đi mượn chén ăn cơm / Mươn li uống rượu 
	mượn đờn kéo chơi... 
	
	họ đổi chẳng hạn mượn đỜn KÉO chơi thành mượn đÀn KHẢY chơi... 
	(không biết người Nam nói 'đờn' thay vì 'đàn' và thường sử dụng đàn cò/nhị, 
	đàn gáo... chỉ 'kéo' chớ không có 'khảy'). Tuy thế cũng không quá tệ hại 
	bằng việc chính trị hoá ca dao, họ đổi mấy câu sau ý tứ hay ho thành mấy câu 
	gương gạo, khó nghe Khó 
	đi mẹ dắt con đi / Con đi trường học mẹ đi trường đời... !!!??? 
	
	Thật ra 
	Khó đi mẹ dắt con đi 
	
	còn Ok vì nói tới tình mẹ thương yêu, lo lắng cho con phù hợp văn cảnh,
	
	
	nhưng 
	Con đi trường học mẹ đi trường đời 
	
	thì phải nói là quá 'chính trị', quá đoảng (đang chờ xem mẹ 
	thương con thế nào nữa, hoá ra nói chuyện trớt quớt, không đúng mạch). Sống 
	và đi cũng khá nhiều nơi ở miền Nam, tôi chưa từng nghe người dân quê nào 
	hát 'ví dầu' như thế. Phiền một cái là bây giờ khi google trên net thì bài 
	ca dao 'chính trị hoá' kia lại phổ biến hơn :-(( và lại được in vào sách phổ 
	biến cho công chúng, trong đó có sách về ca dao của Bến Tre quê tôi, thật 
	đáng buồn...
	
	
 
	Ví dầu cầu ván 
	đóng đinh
	Cầu tre lắt lẻo 
	gập ghình khó đi…
	Buổi trưa, bên nhà 
	ai đó văng vẳng tiếng hát ru. Từ xa xưa, những bà mẹ dỗ con ngủ trên cánh 
	võng đong đưa thường cất tiếng hát ru. Và biết bao câu hát đã ra đời bên 
	chiếc nôi truyền thống của con trẻ như thế. Những câu hát thiên hình vạn 
	trạng, mang sắc thái riêng của vùng miền hay phổ biến, quen thuộc trên cả 
	nước đều được cất lên từ cảm xúc, từ tình yêu thương gắn bó của con người 
	với quê hương, làng mạc, với những người thân thiết. Nhưng không chỉ vậy, 
	những câu hát còn ghi dấu những sinh hoạt, cách sống, cách nghĩ của cả một 
	thời…
	Trong những câu ca 
	dao miền Nam, loại câu hát “Ví dầu” chiếm một số lượng không nhiều lắm nhưng 
	lại rất thú vị bởi những biểu hiện độc đáo mặn mòi của nó. Hãy thử điểm qua 
	một vài câu “Ví dầu” quen thuộc.
	Bắt đầu là câu hát 
	mộc mạc đơn giản nhất như:
	Ví dầu ví dẩu 
	ví dâu,
	Ví qua ví lại, 
	ví trâu vô chuồng.
	Câu ca dao lũ trẻ 
	thường hát nghêu ngao chẳng cần để ý gì đến nội dung ý nghĩa của nó nhưng 
	khi đọc đi đọc lại, trước mắt ta hiện ra nét đặc thù của đời sốngnông nghiệp 
	luẩn quẩn, tù túng của người nông dân nghèo khổ, với công việc đơn điệu, 
	buồn tẻ ngày qua ngày như câu hát buồn, để rồi họ lại cất tiếng than:
	Ví dầu nhà dột 
	cột xiêu,
	Muốn đi lấy vợ 
	sợ nhiều miệng ăn.
	
	
 
	Quả là một suy 
	nghĩ rất thực tế! Cái thực tế thực đến nỗi bật lên cả tâm trạng não nùng của 
	anh thanh niên đang hát. Cái nỗi sợ muôn đời của những người nghèo bởi cảnh 
	tượng gia đình đông vui trở lại thành tai họa, thành sự nơm nớp lo âu. Cứ 
	hình dung cảnh chàng trai ấy đang ngồi trong “nhà dột cột xiêu” của mình 
	buồn bã với nỗi cô đơn mà nao lòng. Có lẽ vì vậy mà những món ăn ngon, dù là 
	của đồng ruộng, cũng thường ám ảnh tâm trí mọi người nên nhiều câu “Ví dầu” 
	đã vang lên trên từng mảnh vườn, từng con rạch, con sông:
	Ví dầu tình bậu 
	muốn thôi,
	Bậu gieo tiếng 
	giữ cho rồi bậu ra
	Bậu ra bậu lấy 
	ông câu
	Bậu câu cá bống 
	chặt đầu kho tiêu
	Kho tiêu, kho 
	mỡ kho hành
	Kho ba lạng 
	thịt để dành bậu ăn.
	Bài ca dao như một 
	câu chuyện “hôn nhân gia đình” thời xưa. Hai câu  đầu hoàn toàn là chuyện 
	thế thái nhân tình, là chuyện gút mắc vợ chồng trong đó cô vợ có vẻ đanh đá, 
	thủ đoạn trong cách ứng xử. Nhưng chuyện “bứt nài, tháo ống” cũng là chuyện 
	thường tình. Sự thú vị có lẽ nằm trong phần sau. Hóa ra cái món “cá bống kho 
	tiêu” cùng với “ba lạng thịt” ấy quả là ngon và quý đến nỗi cô vợ quyết  lấy 
	ông câu để được ăn? Dĩ nhiên đó chỉ là một cách ví von nhưng qua đó ta vừa 
	thấy được vị ngọt bùi của cá bống, loài cá thường ra khỏi hang bám vào những 
	giề lục bình mùa nước nổi để thành một món ăn ngon đặc biệt vùng châu thổ, 
	vừa thấy nếp sống khổ cực của người nhà quê, sự hiếm hoi của từng miếng thịt 
	trong bữa ăn hàng ngày của họ. Vì vậy, đằng sau sự mỉamai, châm biếm của câu 
	hát hình như vẫn ẩn chứa chút ngậm ngùi thương cảm!
	Cũng có lúc, câu 
	hát “Ví dầu” chỉ là để miêu tả như thể phú đơn thuần của ca dau:
	Ví dầu cá lóc 
	nấu canh
	Bỏ tiêu cho 
	ngọt, bỏ hành cho thơm
	Nhắc đến món ăn 
	quen, nhân dân xưa vẫn có cách làm mới câu hát bằng cách hoán vị từ rất thú 
	vị. Lẽ ra phải “Bỏ tiêu cho thơm, bỏ hành cho ngọt” mới đúng. Song âm vận 
	bằng, trắc của câu thơ lục bát đã dẫn đến sự sáng tạo trong cách đổi chỗ cho 
	những mùi vị trên khiến câu hát lấp lánh hẳn lên đồng thời cũng là thử thách 
	với người thưởng thức về sự sâu sắc, tinh tế trong ca dao.
	Nhưng hay nhất, 
	sâu lắng nhất vẫn là câu hát “Ví dầu” mà ai cũng thuộc lòng bởi từ bao đời 
	nó vẫn được hát ru bên nôi trẻ:
	Ví dầu cầu ván 
	đóng đinh
	Cầu tre lắc lẻo 
	gập ghình khó đi.
	Khó đi mượn 
	chén ăn cơm,
	Mượn ly uống 
	rượu, mượn đàn kéo chơi
	Ở hai câu đầu, bài 
	ca dao có vẻ chỉ nhằm ý mô tả những hình ảnh thường thấy ở làng quê: cầu ván 
	đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghình (ghềnh). Và dĩ nhiên, gập ghình như thế 
	ắt dẫn đến chuyện “khó đi”. Ý thơ lại liền mạch, chặt chẽ bởi sự lặp đi lặp 
	lại của từ “mượn”: mượn chén, mượn ly, mượn đàn. Thoạt nghe cũng chưa thấy 
	gì lạ lùng, đặc biệt. Ừ, thì chắc có khách đến chơi nên phải đi mượn? Nhưng 
	mà, nhà nghèo khó gì đến nỗi một cái chén ăn cơm, một cái li uống rượu cũng 
	thiếu? Mà uống rượu đế, rượu nếp thì cần gì nhiều ly? Thiếu chăng là thiếu 
	tiền mua rượu. Hay đi mượn  chén, mượn ly lại là chuyện mượn tiền? Không, 
	bài ca dao không hề nhắc điều đó. Để rồi cuối cùng, đến chi tiết “mượn đàn 
	kéo chơi” ý tứ như mở ra, lồng lộng, tuyệt vời. một chữ “chơi” đã làm nên 
	thần sắc, hồn vía của bài ca dao nói riêng và cả vùng đất Bộ 
	nói chung. Tất cả nét phóng khoáng, hào sảng, thênh thênh của những lưu dân 
	đi mở đất đã nằm trọn trong tiếng đàn kéo chơi ấy. Rõ ràng, cuộc sống vất vả 
	lam lũ hằng ngày không làm mất đi vẻ đẹp của nếp sống bình dị mà tươi tắn, 
	nhọc nhằn mà nhẹ tênh của những bần nông biết vượt lên số phận để có được 
	niềm vui, niềm hạnh phúc. Có lẽ từ những ngày xa xưa, câu ca tiếng hát, chút 
	rượu đưa cay trong những lần quây quần họp mặt đậm đà tình làng nghĩa xóm đã 
	đem lại chút nồng ấm, nên thơ cho từng cảnh đời cơ cực. Và họ cứ thế mà:
	Kéo chơi ba 
	tiếng đờn cò
	Đứt dây đứt nhợ 
	quên hò xự xang.
	Hay làm sao khi 
	cuộc vui bốc trời đến “đứt dây đứt nhợ”! Có thể dây đàn đứt, tiếng đàn hết 
	vang nhưng sợi dây đàn trong tâm hồn thì vẫn còn rung mãi, rung mãi cho đến 
	hôm nay, khi câu hát cứ tiếp tục cất lên từ lời ru của những người bà, người 
	mẹ.
	Điểm lại vài câu 
	ca dao với hình thức những câu hát “ví dầu”, bức tranh sinh hoạt và đời sống 
	tâm linh của người dân Nam Bộ như hiện ra trước mắt, thấm sâu vào suy nghĩ, 
	tình cảm của những người yêu quý nó. Ai đó từng nói: “ Không gì làm trẻ 
	trung, tươi mát tâm hồn con người cho bằng tắm trong nguồn suối của văn học 
	dân gian”. Quả đúng như thế, chỉ cần ngân nga một bài ca dao, một câu hát 
	Ầu ơ… Ví dầu nào đó, lòng ta đã bay bổng, lâng lâng.
	Hãy nghe, câu hát 
	ru một lần nữa lại cất lên, êm ả, ngọt lịm buổi trưa hè:
	Ví dầu cậu giận 
	mợ hờn,
	Cháu theo cùng 
	cậu kéo đờn cậu nghe./.
	
	------------------------------------------------------------------------------
	Cũng xin post lại bài thơ 'Cầu tre' 
	của nhà thơ Kiên Giang lấy ý từ câu hát 'ví dầu' trên cho đủ bộ:
	
	CẦU TRE 
	
	
	
	
	
	
	
	
	
	Ai ở làng quê 
	
	
	đă từng qua nhịp, 
	
	
	Qua nhịp cầu tre; 
	
	
	Lặng nghe, lặng nghe 
	
	
	Tiếng hò tiếng hát 
	
	
	Dưới mái nhà tranh. 
	
	
	
	Ầu ơ .... "Ví dầu cầu ván đóng đinh, 
	
	
	Cầu tre lắc lẻo, gập ghềnh khó đi . 
	
	
	Khó đi mượn chén ăn cơm, 
	
	
	Mượn ve mua rượu, mượn đờn kéo chơi". 
	
	
	Kéo lên: ọ é ò e .... 
	
	
	Cầu tre lắc lẻo, cầu tre gập ghềnh. 
	
	
	Cầu tre một nhịp chênh vênh, 
	
	
	Bắc ngang dòng nước lênh đênh sóng bèo . 
	
	
	Cầu tre lắc lẻo, cheo leo, 
	
	
	Những đêm trăng xế, trăng treo đầu cầu . 
	
	
	Cầu tre soi bóng sông sâu, 
	
	
	Ánh trăng sóng nước đượm màu lung linh. 
	
	
	Cầu tre gối nhịp đất lành, 
	
	
	Nằm nghe tiếng hát, tâm tình quê hương. 
	
	
	Cầu tre làm chiếc đò ngang, 
	
	
	Nối đôi bờ đất đôi làng thương nhau . 
	
	
	
	Nhà anh ở kế bên cầu, 
	
	
	Nhà em ở cuối đầu cầu bên sông. 
	
	
	Bên sông cứ mỗi hừng đông, 
	
	
	Em ra vo gạo, bến sông bên cầu . 
	
	
	Anh vừa mở cổng thả trâu, 
	
	
	Thấy em, anh vội xé rào nhìn em. 
	
	
	Rồi qua cầu nói với em: 
	
	
	"Cô vo nếp anh thèm mùi xôi" 
	
	
	Vì anh, khi mới hừng trời, 
	
	
	Qua cầu, em biếu dĩa xôi muối mè . 
	
	
	Cầu tre lắc lẻo cầu tre, 
	
	
	Con đò chở tấm tình quê qua cầu .... 
	
	
	Từ đây cứ mỗi mùa cau, 
	
	
	Anh qua cầu để bẻ cau cho nàng. 
	
	
	Khi nào trầu hút trầu khan, 
	
	
	Anh qua xin lá trầu vàng bên em. 
	
	
	Khi mùa cấy hái "đông ken", 
	
	
	Ruộng anh em cấy, đất em anh cày . 
	
	
	Vần công lối xóm tiếp tay, 
	
	
	Kết tình lưu luyến gái trai đôi làng. 
	
	
	đôi tim trang lứa nhịp nhàng, 
	
	
	Hoà theo nhịp sóng lúa vàng mênh mông. 
	
	
	đôi lòng cách một dòng sông, 
	
	
	Tơ hồng chưa buộc, tơ lòng đã xe . 
	
	
	Cầu tre lắc lẻo cầu tre, 
	
	
	Duyên nghèo đầm thấm, tình quê nồng nàn. 
	
	
	Trong tình yêu nước, yêu làng, 
	
	
	Có tình chăn gối, đá vàng lứa đôi . 
	
	
	Mẹ chàng cậy mối cậy mai, 
	
	
	Tặng quà lễ nói một đôi bông vàng. 
	
	
	Hai bên cô bác họ hàng, 
	
	
	Chọn ngày lễ cưới qua rằm tháng Giêng. 
	
	
	Bỗng rồi lửa cháy xóm giềng, 
	
	
	Cầu tre gãy nhịp gục nghiêng giữa dòng. 
	
	
	Lửa tràn lan cháy bên sông, 
	
	
	Máu pha nước mắt đỏ lòng trường giang. 
	
	
	Giặc tràn về bắt sống nàng, 
	
	
	. . . . . . . . . . . . . . . . 
	
	
	Thôi đành dập liễu vùi mai, 
	
	
	Bóng hồng gục giữa rừng người hung hăng. 
	
	
	Từ đây sông lạnh bóng trăng, 
	
	
	Nước như ngừng chảy sầu vương mối hờn. 
	
	
	Vườn xanh úa hết chồi non, 
	
	
	Cau khô, trầu héo chẳng còn nồng cay . 
	
	
	đôi trâu bỏ dở vốc cày, 
	
	
	Lòng người lòng đất đắng cay não nề . 
	
	
	đêm đêm như vẳng còn nghe, 
	
	
	Tiếng than khóc của cầu tre một mình: 
	
	
	"Ví dầu cầu ván đứt đinh, 
	
	
	Cầu tre găy nhịp, chung tình khóc nhau . 
	
	
	Cầu tre khóc một hôm nào, 
	
	
	Mẹ qua cầu bỏ trầu cau cho chàng. 
	
	
	Còn đâu mùi vị xôi vàng, 
	
	
	Buổi đầu trai gái đôi làng biết nhau . 
	
	
	Còn đâu những buổi thả trâu, 
	
	
	đứng bên hàng trúc xé rào nhìn em. 
	
	
	Còn đâu mùa ruộng "đông ken" 
	
	
	Ruộng anh em cấy, đất em anh cày . 
	
	
	Còn đâu vị lá trầu cay, 
	
	
	Miếng cau dầy trắng mà say miếng trầu . 
	
	
	Bây giờ quê cũ còn đâu, 
	
	
	Còn đâu người đẹp với cầu tre xưa" 
	
	
	
	Chiều chiều gió thổi, gió đưa 
	
	
	Nhớ người một buổi chiều mưa lên đường. 
	
	
	Người lên đường ra lính. 
	
	
	Trong lòng và trên đầu súng, 
	
	
	Có hình ảnh nước Việt Nam. 
	
	
	Trong ấy có đôi làng thân mến, 
	
	
	Một dòng sông và đôi bến ngó nhau, 
	
	
	Một tình thương bắc một nhịp cầu, 
	
	
	Chìm sâu giữa đôi lòng trang lứa, 
	
	
	Thân yêu nhau từ thuở thanh b́nh. 
	
	
	đến khi thời loạn đao binh.... 
	
	
	Lòng còn chôn chặt khối tình đầu tiên. 
	
	
	Mai này trời lặng phong yên, 
	
	
	Bóng cờ tươi thắm ngự trên hoang tàn. 
	
	
	Anh sẽ về làng, 
	
	
	Về tận bên sông quê; 
	
	
	Anh bắc nhịp cầu quay, 
	
	
	Anh xây chân cầu sắt 
	
	
	Trên xác chiếc cầu tre, 
	
	
	Nối liền đôi bờ đất 
	
	
	Hàn lại vết thương đau . 
	
	
	Bến xưa dù đổi nhịp cầu, 
	
	
	đất nghèo còn giữ lấy màu quê hương. 
	
	
	Dù cầu sắt nọ giàu sang, 
	
	
	Áo cầu rực rỡ phết vàng sơn son. 
	
	
	Dù sông cạn với núi mòn, 
	
	
	Trong hồn quê vẫn có hồn cầu tre . 
	
	
	Dù đời tham tướng bỏ xe, 
	
	
	Lòng anh lắng xuống niềm quê chân thành. 
	
	
	Dù đời mê bã hư danh, 
	
	
	Lòng quê bắc lại mối t́nh cầu tre . 
	
	
	Cầu tre ới hỡi cầu tre, 
	
	
	Cầu tre lắc lẻo, cầu tre chung tình... 
	
	
	(Rạch Giá, Thượng tuần tháng Chạp, 53)