|
Bột Gạo La Khê
THÂN TRỌNG
TUẤN
Cám ơn anh Lê Quang B́nh
đă cho nhiều tư liẹu của họ Lê
Làng La Khê thuộc huyện
Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên. Từ Kinh Thành ra hướng đông bắc, tức ra đồn
Mang Cá Lớn, xong qua Bao Vinh, hướng về phía Bàu Đồn, qua ngả lang Thế
Lại Thượng, Thế Lại Hạ, đi thêm khúc nữa là tới. Làng La Khê nằm dọc
theo con hói nhỏ. Trong làng có mấy cái g̣ đất. G̣ chính giữa làng dùng
làm nơi xây lăng ông khai canh họ Lê.
Theo chuyện kể, th́ khi
chúa Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, có viên phó tướng họ Lê theo
pḥ. Viên phó tướng họ Lê này thuộc ḍng dơi vua Lê Lợi. Tông tộc từ khi
theo vua dời đô ra Thăng Long, hệ phái của viên phó tướng này chọn làng
La Khê thuộc tỉnh Hà Đông làm nơi định cư. Vào Nam, v́ lập được nhiều
công trạng nên được chúa Nguyễn phong đất thuộc vùng phía bắc sông Hương
để lập thôn ấp, bèn lấy tên là La Khê để tường nhớ cố hương. Khi mất
chôn ở đấy.
* Thượng Hạ La Khê
Năm 1775, quân Trịnh vào
chiếm Phú Xuân, cho san bằng hầu hết các lăng mộ các tiên vương chúa
Nguyễn cùng tổ tiên các công thần xứ Đàng Trong. Lăng viên phó tướng họ
Lê cũng bị triệt hạ, mất hết dấu tích. Sau này con cháu nương theo lời
truyền, thuê người phát dọn bụi lùm xong dùng trâu cày để t́m di tích.
Kết quả chỉ thấy tấm mộ bia bằng đá bị đập bể thành ba bốn mảnh mà thôi.
Con cháu họ Lê cho xây lại lăng mộ và nhà thờ Tổ. Tên của vị Tổ v́ lâu
đời, lại theo tinh thần kiêng cữ sợ bị phạm húy không dám nói động đến
tên cha mẹ tổ tiên nên con cháu về sau không c̣n nhớ rơ. Bài vị chỉ ghi
là Lê Văn Lang để thủ lễ.
Theo gia phả họ Lê do ông
Lê Văn Kư soạn và ông Lê Tịnh thuộc đời thứ 12 dịch từ chữ Hán ra chữ
Việt La Tinh và hiệu đính, th́ ngôi mả Tổ phát ngành văn, nhưng lại bị
độc đinh, cho dù có được thêm con trai th́ cũng sẽ bị chết yểu hoặc vô
tự. Thành thử truyền xuống đời thứ tám, chỉ có bảy người con trai, mỗi
người cho một đời. Sau cuộc đại biến Phú Xuân 1775, tuy ngôi mả tổ cùng
mấy ngôi mộ đời kế tiếp bị san bằng, xương cốt chôn lạc nơi khác, con
cháu không ai biết được, nhưng về sau ḍng họ Lê lại hưng thịnh lạ
thường, văn vơ rỡ ràng. Truyền tông đời thứ tám là ông Lê Văn Hộ có tài
chữa bệnh, sung chức Ngự Y. Khi ông Hộ gần 50 tuổi, đang công cán tại
Quảng Trị, th́ được triệu vào Kinh trị chứng đẻ khó cho một bà Phi mà
quan ngự y tại triều cũng không chữa được. Lê Văn Hộ vào, cho thuốc giục
đẻ, bà Phi sanh ngay, mẹ tṛn con vuông. Vua (gia phả không ghi vua nào)
hài ḷng, tính chuyện ban thưởng. Trong khi chừa cho bà Phi tại Kinh Đô,
th́ ở Quảng Trị, thuộc địa phận huyện đường do ông trấn nhậm có chứng
dịch tả, người chết rất nhiều. Vợ và con của Lê Văn Hộ cũng chết sạch.
Lê Văn Hộ buồn chán, kịp vua triệu vào tính chuyện ban thưởng. Lê Văn Hộ
tâu hết gia cảnh hoạn nạn, xin cáo quan về hưu. Vua thấu hiểu, cưới cho
Lê Văn Hộ một lúc năm bà vợ để kiếm con nối dơi tông đường. Lại ban cho
một ngh́n mẫu đất chưa canh tác gọi là lộc triều đ́nh thưởng cho vị thầy
thuốc mát tay. Lê Văn Hộ lạy tạ nhận lănh. Ra khỏi Kinh Thành, theo
đường thiên lư, xuôi về hướng Nam cách xa sông hương cả trăm dặm. Đến
địa phận làng Truồi, thấy non nước hữu t́nh bèn xin vua cho chọn đất ở
đây. Vua ưng cho Lê Văn Hộ khai khẩn lập ấp. Ngoài huyện Quảng Điền có
xă La Khê là nơi lập nghiệp đă được tám đời. Nay tuy lập
ấp mới nhưng không v́ thế
mà bỏ quên cội nguồn, Lê Văn Hộ bèn cải lại làm La Khê Thượng. Ấp mới
tại Truồi là La Khê Hạ. Thượng Hạ cách nhau hơn trăm dặm đường quan, đi
bộ cả ngày mới tới nơi. Tại Huế phân chia ranh giới làng xóm chỉ cách
nhau bờ tre, con đường, cái hói, khúc sông hay một cánh đồng là cùng.
Vấn đề La Khê Thượng Hạ chỉ dùng riêng trong hệ họ Lê của ông Hộ, chứ
không được chính thức chấp thuận trên văn thư hành chánh, v́ vậy ở Huế
ít người biết đến ấp La Khê Hạ bên cạnh sông Truồi dưới vùng Cầu Hai Đá
Bạc. Đất nước Thừa Thiên xưa nay vẫn có nhiều làng phân chia thượng hạ
đông tây xa ngái nhưng không quá xa cách nhau như thượng hạ La Khê. Xa
xôi cho lắm cũng chỉ như hai làng Dă Lê Thượng và Dă Lê Hạ cách nhau cả
một cái đầm! (Chữ nho chữ Hán cổ hủ rắc rối chào lui nhường chỗ cho chữ
Quốc Ngữ. Có người giỏi chữ Việt gốc La Tinh viết thành Giả Lê, Giạ Lê
hoặc Dạ Lê thiệt là vô cùng thông thái!)
* Họ Lê hưng phát
Ông Lê Văn Hộ sau khi theo
lệnh vua lập gia đ́nh lần thứ hai, cưới luôn một ngh́n năm bà, sống cuộc
đời nhàn hạ tại ấp tân lập La Khê Hạ. Bà vợ Cả không con. Bốn bà kia đều
sanh con trai. Như vậy,
ḍng thứ nhất vô tự. Bốn ḍng c̣n lại đều có con nối dơi. Ông cho bà thứ
năm và con trai của bà lên thủ từ tại La Khê Thượng. Từ đây về sau, ḍng
họ Lê hết nạn độc đinh. Con cháu đầy nhà, thành công rạng rỡ. Xuống cho
tới đời thứ mười hai, vẫn lót chữ Văn hoặc tên không có chữ lót. Tới đời
thứ mười hai trở đi, con cháu vẫn giữ nguyên họ Lê nhưng chữ lót lại tùy
ư chọn cho con như chữ Quang, chữ Bá, chữ Đ́nh, v.v… Có người lấy họ vợ
ghép vào tên con. Tên gọi từ tên đơn như B́nh, Liễn v.v… đặt thêm tên
kép (hai chữ như Diệu Hương), tên mền (ba chữ như Bạch Hải Đường) hay
tên đụp (bốn chữ Thanh Hương Như Ư)... Theo sự ḍ hỏi, con cháu họ Lê
phát ở nhánh Nh́, nhánh Ba và nhánh Bốn. Nhánh Năm ở La Khê Thượng không
phát lắm. Nhà thờ Tổ vẫn ở La Khê Thượng, nhưng hàng năm con cháu tế kỵ
đều quy về La Khê Hạ bên cạnh sông Truồi. Hiện nay, con cháu họ Lê lên
đến cả ngàn người. Gần một nửa số người trong họ, Sau 1975, ra sống ở
các nước ngoài như Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi và một số nước bên Âu Châu.
* Bột
gạo La Khê
Người Huế khi nhắc tới tên
làng La Khê là ám chỉ La Khê Thượng ngoài Quảng Điền, phía bắc Hương
Giang, nổi tiếng với món bột gạo "La Khê". Gần La Khê có làng Thế Lại,
phân chia Thế Lại Thượng và Thế Lại Hạ. Hai làng Thế Lại cách nhau "cẩm
tỉ" chưa đầy ba bước, có mô "xa ngái" cả một ngày đường như Thượng Hạ La
Khê! Một điều hi hữu là con cháu ở La Khê Hạ dưới Truồi, có người tuy đă
lên lăo mà vẫn chưa bao giờ nghe biết cái thứ bột gạo La Khê, nói chi
chuyện thưởng thức? Gặp người hỏi đến, trả lời qua loa rằng “cái thứ bột
gạo nớ con liền bà tui vẫn làm”! Lần khân hỏi tới, sẽ được nghe trả lời
đại khái "mấy cái chuyện bột biếc th́ phải hỏi con liền bà tui mới đặng,
chứ tui không quen. Chờ khi mô có dịp, tui sẽ nói với con liền bà
tui...".
Quư hóa chi mô, mọi lần bột
gạo làng La Khê vẫn bán đầy chợ, nhiều nhất là tại chợ Đông Ba. Bán từng
mủng, từng gánh. Bán dễ dàng v́ đây là thứ bột ngon nhất hạng, không thể
so sánh. Giá cả lại b́nh dân. Người ta mua về thường dùng cho nhiều
việc, nhất là đổ bánh bèo, gói bánh nậm, nhưng tuyệt nhất là để gói bánh
lá ăn với chả tôm. Ui chu chao! Lại một thứ khi ăn chỉ biết ngậm mà nghe
cái thi vị của cuộc đời đang th́ thầm mấy lời rất Huế! Bánh lá chả tôm
nguyên thủy không bán ngoài đường ngoài chợ. Phải có chuyện chi như ngày
kỵ, ngày chạp, hay ngày tết ngày nhứt để mấy bà mấy cô ưa trổ tài trổ
tiếc như vẫn thường thấy trong những nhà quyền thế danh gia, lâu lâu bày
ra làm cái chuyện đổi gió chút chơi! Bột làm bánh có nhiều thứ, nhiều
loại hạng. Duy chỉ có mỗi cái thứ bột gạo chính cống làng La Khê mới
chịu được sự cuốn tṛn khít rịt cái bánh lá nhúng nhính mà không găy đổ
xếp ṿng tṛn trong dĩa sứ men xanh vây quanh mấy lát chả tôm đỏ nâu óng
ánh như e dấp “dem thèm” khiến vừa mới thấy thoáng qua đă làm cho "người
ta" bắt rệu nước miếng.
Khi nói tới bột gạo, người
ta thường h́nh dung một thứ trắng mịn đựng trong bao, trong hũ, tuyệt
đối tránh xa gió máy v́ gặp gió, bột sẽ dễ bị cuốn theo làm mây trắng
bay! Bột gạo La Khê lại khác. Bột nằm trong thúng, trong mủng trông
giong như mấy con nhộng không đầu, hoặc như bó đũa tre cột thắt lỏng le,
mấy cọng bột to dài như ngón tay út, cong cong lổn nhổn, có khi lại dính
chùm dính nút v́ khi bột vừa ép lọt qua cái sàng xưa, mỏi tay nên xếp
xoay không kịp trước khi phơi, nên bây chừ thôi th́ cứ để kệ cha ông cố
nội mượt kệ cho hắn rối, chứ ai hơi mô ngồi mà gỡ lỡ găy bể vụn bể vằn
biết bán cho ai? Người bán bốc từng nạm, đong từng chén, gạt từng phần
hay xoay nguyên cả mủng tùy theo ư người mua. Bột cũng không trắng tinh
như trứng gà bóc và thua xa màu trắng của loại bột gạo xôm xốp bỏ bao
giấy dầu đục in chữ đỏ bán từng kư trong mấy tiệm chập phô của các chú
ba tàu. Bột gạo La Khê sau khi mua về, phải bỏ vô trong chậu nước, khuấy
tan xong gạn lọc lại cho sạch hết cát sạn rác rến dính theo trước khi
dùng, thiệt là công kỹ.
* Chuyện Mợ Ấm Năm
Vấn đề chế biến bột gạo của
làng La Khê xưa nay vẫn ở trong t́nh trạng khó hiểu. Người ta cho rằng
dân làng La Khê giấu nghề thiệt kỹ, lại không truyền cách làm bột cho
con gái. Có nhà chỉ truyền cho con trai trưởng. Ôi thôi người ta đồn đủ
thứ, nghe mà phát mệt. Có dịp ra làng La Khê chơi th́ chỉ thấy một số
bột phơi sẵn, hoặc may lắm là thấy người ta đang quay bột. Hỏi th́ người
ta cũng chỉ cho cách làm, nhưng khi về làm thử, kết quả vẫn không giống
như thứ bán ngoài chợ nổi danh là Bột La Khê!
Có người chủ tâm muốn học
lóm cách làm bột, nhân việc đi mua phân heo bón ruộng cho gia đ́nh, sai
người gánh cả gánh tiền nặng trĩu để trước sân hầu chủ nhà thấy giàu sẽ
nghĩ rằng kẻ mua phân không cần chi nghề làm bột. Trong lúc người làm ra
phân, gánh xuống đ̣ đậu dưới bờ hói, kẻ chủ tâm mới thật kiên chí, tuy
đang tuổi cặp kê, tóc xơa đuôi gà, nhưng đóng bộ chủ nhân thật trưởng
giả, lững thong xem xét từng hạt lúa, hạt gạo trong cối xay. Lén xem
cách giă gạo, vút gạo, lại lén nếm cả nước ngâm, nh́n các cách khuấy
bột, ép bột và phơi bột luôn hai ba năm liên tiếp, thậm chí có lúc giả
vờ hết gạo để này mua lại thúng gạo của chủ nhà, múc luôn cả luôn cả lu
nước xong đem về làm thử. kết quả: bánh vẫn bở rời không dẻo. Sự ṭ ṃ
vẫn không thôi. Sau khi về nhà chồng, thấy giàu có bạc triêng bạc thúng
nhưng chuyện học cách làm bột của xă La Khê vẫn không nên việc, mới nghĩ
rằng muốn mượn quyền thế nhà chồng cho thỏa măn sự ṭ ṃ. Quan thượng
thấy cô dâu mới tháo vát lanh lợi, thỉnh thoảng cho gọi lên hỏi
chuyện.Cô dâu thưa gởi rơ ràng, luôn tiện xin quan Thượng cho hỏi người
để học cách làm bột gạo La Khê nghe cô dâu mới hỏi, quan Thượng cứ ừ hử
cho qua. Không nản chí, biết chị chồng có người về làm dâu làng La Khê,
vẫn gọi là Bà Cô La Khê, liền kiếm cách làm thân. Chiều ư cô vợ mới, cậu
Ấm Năm đưa đi thăm chị Huấn vài ngày. Chị em tâm sự chuyện nọ chuyện
kia, đến chuyện bột biếc, bà Cô La Khê thở dài thườn thượt nói với cô em
dâu rằng "Ń thím Ấm Năm, vợ các quan cũng như vợ những người biết chữ
không cần học chi cái nghề làm bột. Muốn bao nhiêu xe, bao nhiêu tàu,
người ta sẽ chở tới tận cửa tận nhà cho tiện. C̣n cách làm bột th́ theo
như lời người ta nói, công việc rắc rối khó nhọc nặng nề, không dám để
các cô các bà bận tâm. Chính như "tơ" đây, chồng là Huấn Đạo, ngày Tế
làng tế Họ, hay ngày kỵ ngày Tết, anh Huấn vẫn ngồi chiếu trên trọng
vọng, muốn chi có nấy. Thế mà “tơ” về làm dâu hơn mười năm nay, nếm
không biết bao nhiêu xửng bánh, nhưng nội cách làm bột th́ thiệt t́nh
chẳng biết chút chi...!"
Vốn trước tê khi chưa lấy
chồng, mợ Ấm Năm vẫn thường đi mua phân heo rải ruộng, đă quen hết cả
làng La Khê. Gặp ai, mợ cũng chào thưa liến thoắng nên được cảm t́nh.
Người làng cũng chào lại o nó o tê. Bây chừ làm em dâu bà Huấn trong
làng, nên thân hơn, thành mợ thành bà. Mấy nhà làm bột cũng chiều nể
"cái cô mợ Ấm Năm tọc mạch" nên mới cho xay, khuấy, ép, phơi phong không
thiếu thức chi. Bột ra trông thiệt ngon lành, ḷng tươi vui phơi phới.
Lấy cớ là để tỏ ḷng quư mến biết ơn chị chồng đă dạy thêm cho cách xử
sự về đạo làm dâu trong mấy ngày qua, bèn xin hấp xửng bánh đầu tay,
xong mời chị chồng thời thử mấy cái, chẳng dám thưa là bột của ḿnh làm.
Bà huấn vô t́nh, ăn xong tấm tắc khen ngon, c̣n cậu Ấm Năm cũng hỏi thêm
là bột lấy của nhà ai để sau này lúc cần sẽ nhắn biểu mang tới cho khỏe,
đỡ phải mất công lựa chọn, mợ Ấm Năm cúi đầu dạ dạ cho qua. Khi trở về,
mợ Ấm Năm không quên mua thêm thúng gạo. Tới nhà, cũng thong thả cho
ngâm xay ép khuấy không khác chút chi. Mớ lá dung bẻ tim tước cọng rửa
sạch lau khô sắp bày ngay ngắn. Chiếc đũa bếp quẹt bột phết gọn gàng
thẳng thớm thiệt đều tay. Bánh hấp xong rồi, lấy ra khỏi xửng, vuốt xếp
phẳng phiu, chờ cho nguội hẳn. Lột lá ra thấy mặt bánh cũng óng mướt
ngon lành. Dùng chiếc đũa gạt ngang nâng cái bánh lên th́ cả cái bánh
cũng uẩn cong nhún nhẩy. Nhưng mà lạ chưa tề, sau khi cuốn tṛn miếng
bánh, chưa kịp xếp vô dĩa đă thoáng thấy lớp bột bánh rung rinh, rồi
theo đó cứ từ từ nứt rạn. Ôi thôi rồi, trời chao biển động với nỗi giận
hờn lai láng! Thiệt khó chịu rơ ràng như Công Dă Tràng khi mông mang
nguyên cả một xe cát đến đổ đầy sân chận hết lối vô ra! Tức lộn ruột
muốn xáng một cái cho rồi đời xong om củ tỏi! nhưng nề nếp gia phong,
buồn phiền không cho lộ ra mặt. Kiêng kỵ khắt khe đến cả tiếng thờ dài!
Mợ Ấm Năm vẫn âm thầm kiên nhẫn lấy mớ bột cũ c̣n lại từ hồi học làm thử
ở nhà người ta ngoài nớ ra làm tiếp. Vệt bột giáo hai lần hai thứ nh́n
thiệt kỹ cũng chẳng khác chi nhau, nhưng mấy cái bánh về sau này lột
cuốn thiệt dễ dàng, xếp vô dĩa trông ngon lành hết sức, vừa gắp cho vào
miệng mà hương vị đă thấm tận đến chân răng!... Sự ấm ức cũng tạm có
cách trả lời: Bột ngon là do tại dùng nước của con hói La Khê để ngâm và
xay đăi gạo! Nếu dùng nước múc ở chỗ khác th́ sẽ hết dẻo hết ngon!
* Chút chuyện đời xưa
Bột gạo La Khê ngon lành
lại bổ! Các ông thầy thuốc bắc cũng thường chọn để dùng làm con viên cho
một số thuốc hoàn. Lớp áo bao viên thuốc không bị nứt, nên thuốc giữ
được lâu, vẫn đẹp, vẫn không hư. Lại nữa, các bà, các cô mọi lần vẫn
dùng phấn nụ làm bằng bột gạo để bôi mặt, thường kén chọn kỹ càng cho
đúng bột La Khê. Mua thứ khác về bôi, nhiều khi sinh loam đốm vết chân
ruồi, hoặc là đâm ngứa ngáy, lại phải tốn công sai người t́m con tằm
thẳng cứng lâu lâu cũng thấy bày bán ngoài chợ gọi là "bạch cương tàm”
về tán bột bôi thêm để gọi là làm tốt nọ kia. Mấy bà mấy cô đi chợ mua
phấn nụ là chuyện thường, chứ ai lại hỏi mua con tằm khô căng thiệt
thẳng nghe bắt dị, cho dù có úp nón che nghiêng vẫn không hết ngượng
ngùng.
Không nghe ai nói ông thợ
mă dùng bột gạo La Khê khuấy hồ để phất nộm, ngựa, hoa, quả, thụ, bằng
v.v… Thời đại văn minh, người ta chê chẳng c̣n mặc áo quần vải quyến
vuốt hồ thẳng thớm. Quần áo nhà binh ủi láng say sắc cạnh không câu nệ
loại hồ, miễn sao "đứng" là được. Những loại mỹ phẩm của mấy bà dùng bôi
mặt xoa tay bán đầy cửa hiệu, thơm tho đẹp đẽ và tốt gấp mấy vạn lần thứ
bột gạo quê mùa. Bây chừ ai hơi mô có th́ giờ để mắn mó làm công việc
như thời xa xưa nhàn tản, ngồi cả ngày xay rây mớ bột gạo xong bốt đổ
từng nụ phấn “don don”, h́nh dáng trông như mấy con men làm rượu. Đến
như bánh nậm, bánh lá cũng thay h́nh, đổi vị, lại c̣n trộn thêm bột nọ
bột ḱa cho dẻo cho dai! Miếng chả tôm bôi phẩm ṭe ḷe chứa toàn mấy
thứ bột khoai bột bắp bột ngọt bột tùm lum nên ngon cũng gần bằng miếng
đậu hũ loan bột ḿ căn chiếu với thứ dầu cháy cặn nâu nâu, lại cắt ngang
bổ dọc h́nh dài như thạch xoa rau câu trông thật hồng hoang của kỷ hà
thời đại. Cũng như bánh canh Nam Phổ bây chừ chỉ c̣n một chút dư âm, v́
sau khi múc ra, để một chút đă vữa tan lỏng la lỏng lét, có mô như lúc
thời xưa, chén bánh canh để từ sáng đến trưa cho dù có nguội ngơ nguội
ngắt vẫn đặc sền sệt vây quanh cọng bánh canh dẻo rền, thêm vào đó mấy
thứ nhụy tôm hồng hồng, điểm tí ớt vằm đỏ đỏ chen mấy lát hành tim tím
xanh xanh cứ đứng lưng chừng trong chén thấy thiệt đă thèm; bột gạo La
Khê thứ thiệt chứ không c̣n thấy bày bán ngoài chợ, có lẽ đang theo chân
cái vạy tre vốn có mô từ thời công chúa Huyền Trân mở nước để người ta
ăn bánh bèo, bánh nậm và mấy thứ chè đặc, đă bị bỏ quên không dùng đến
hơn năm bảy chục năm nay.
* Chú Thích:
(1)Theo Phủ Biên Tạp Lục
của Lê Quư Đôn th́ trong thời quân Trịnh chiếm Phú Xuân, La Khê chỉ là
một phường thuộc Tổng Kim Long, huyện Kim Trà, xứ Thuận Hóa. Tổng Kim
Long lúc này gồm 17 xă, 11 phường, 1 sách, 1 châu và 1 ấp.
(Phủ Kim Long nằm trong
địa phận xă Kim Long, thuộc Tổng Kim Long. Phủ, xă và tổng đồng mang tên
là Kim Long).
Nguồn: saigontimesusa |