| 
 |  | 
 
    BÀI CH̉I B̀NH ĐỊNH
     ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG 
    
     
    Các tỉnh miền Trung từ Quảng Ngăi đến B́nh Thuận, đâu đâu cũng biết chơi bài 
    cḥi. Nhưng nhiều nhất là ở B́nh Định, có thể nói, đây là cái nôi của tṛ 
    chơi lư thú này. Cứ vào dịp Tết Nguyên đán, khắp miền quê, hội bài cḥi được 
    tổ chức trong khoảng thời gian dựng nêu, tức từ 30 tháng chạp đến mồn 7 Tết. 
    Đôi khi cuộc chơi kéo dài đến rằm tháng giêng âm lịch, tức từ Tết Nguyên đán 
    đến Tết Thượng nguyên. 
SỰ H̀NH THÀNH 
Vùng đất Vijaya trở thành lănh thổ Việt Nam từ năm 1471, dân 
các tỉnh phía Bắc vào định cư c̣n thưa thớt, nơi đây rừng núi rậm rạp đan xen 
với chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, việc trồng tỉa thường bị tàn phá bởi thú hoang. 
Trên những vạt đất khai khẩn, phải dựng nhiều cḥi có người canh giữ, bảo vệ hoa 
màu. Để được an toàn, các cḥi phải vững chắc, sàn cao quá tầm tấn công của mănh 
thú và bố trí theo h́nh vuông, chữ nhật, hay h́nh thuẫn tùy theo địa h́nh để 
tiện thanh viện cho nhau. Trên mỗi cḥi đều có thanh la, mơ, trống; khi thú rừng 
kéo đến, các âm thanh đồng loạt nổi lên rung chuyển cả rừng núi, dă thú dù gan 
ĺ đến đâu cũng phải khiếp sợ bỏ chạy và không dám bén mảng đến phá phách. Rồi 
có những đêm trăng thanh gió mát, đối cảnh sinh t́nh, giữa các cḥi người ta 
dùng loa nói chuyện hay ca hát đối đáp nhau cho giải buồn, dần dần trở thành một 
mô h́nh sinh hoạt văn nghệ ở vùng nương rẫy.  
Theo truyền thuyết, do nhiều nghệ nhân của tỉnh nhà, đơn cử như cụ Phan Đ́nh 
Lang tức là nghệ sĩ Bốn Trang, sinh năm 1910, người xă Nhơn Thành huyện An Nhơn, 
tỉnh B́nh Định, kể lại rằng lúc cụ c̣n trẻ đă từng nghe ông nội, ông thân và 
nhiều bô lăo truyền lại là chính Đào Duy Từ (1572-1634), người Thanh Hóa vào lập 
nghiệp ở B́nh Định, đă dựa theo mô h́nh văn nghệ ở các cḥi canh miền núi mà 
sáng lập ra hội bài cḥi. Đáp ứng tŕnh độ thưởng thức văn nghệ dân gian ngày 
càng cao, đến thế kỷ 20 người ta lập ra điệu ḥ để nâng cao nghệ thuật của bộ 
môn này. Điệu bài cḥi theo nhịp hai, nên loại thơ lục bát, những bài vè và nói 
lối bốn chữ rất thích hợp với điệu bộ này. Người hô phải theo nhịp trống, nhịp 
sanh, có tiếng đàn tiếng kèn đệm theo, làm cho điệu ḥ thêm réo rắt, hấp dẫn. 
Người hô với chức năng quản tṛ, được gọi là "Hiệu". Tùy theo tuổi tác và giới 
tính, người ta gọi là "anh Hiệu", "chú Hiệu", hay "cô Hiệu", người này phải rành 
các điệu hát nam, hát khách, hát lư... thuộc nhiều thơ và ca dao, biết pha tṛ 
đồng thời ứng đối nhanh nhẹn. 
Vậy bài cḥi là lối đánh bài mà người chơi ngồi trên 9 cái cḥi cất sẵn. Có nơi, 
để giản tiện người chơi bài ngồi trên ghế thay cḥi, nên gọi là bài cḥi ghế. 
Nhưng cả hai lối chơi bài này không có tính cách sát phạt, đỏ đen, mà chỉ nặng 
tính văn nghệ. 
CÁCH TỔ CHỨC 
Làng xă nào muốn tổ chức cuộc chơi bài phải t́m đến những gánh bài cḥi nổi 
tiếng mới lôi cuốn được đông người tham gia và có thể kéo dài trong nhiều ngày. 
Vào thập niên 1930, ở vùng An Nhơn và Tuy Phước có gánh bài cḥi Sáu Cóc được 
nhiều người hâm mộ hơn cả. Trong tỉnh có nhiều cô, chú Hiệu tài hoa, đến nay c̣n 
truyền tụng, như các chú Bùng, Đốc, Kim, Kích, Miệt, Ngô Quang Thắng, Tuấn Phong, 
Tư Liên... và các cô Đạm, Hương, Liễu, Nhảy...  
Một gánh bài cḥi có ban hô bài gồm một Hiệu chính và một hoặc hai Hiệu phụ, 
trong đó có đủ nam nữ th́ diễn xuất mới linh hoạt. Ban nhạc thường chỉ gồm bốn 
người: một đàn c̣, một kèn, một sanh, một trống chiến (nhỏ hơn trống chầu và lớn 
hơn trống tum, có dây mang trước ngực khi di chuyển). 
1.- Hội Bài Cḥi 
Nơi tổ chức bài cḥi thường ở sân đ́nh, sân chùa hay sân chợ. Nói chung, nơi có 
khoảng đất trống bằng phẳng. Người ta cất 9 cḥi, xếp chung quanh h́nh chữ nhật, 
mặt quay vào sân chơi. Tám cḥi nằm dọc theo hai cạnh h́nh chữ nhật, mỗi bên bốn 
cḥi, đối diện tương ứng nhau từng cặp một. Cḥi trung ương ở giữa cạnh nắn h́nh 
chữ nhật. Cạnh bên kia, đối diện với cḥi trung ương, là rạp hội đồng, dành cho 
ban tổ chức. Khoảng đất trống ở giữa là sân khấu trệt, có bốn mặt dành cho Hiệu; 
rạp và các cḥi đều quay mặt vào sân này. Cḥi được cất theo kiểu nhà sàn, trang 
hoàng đẹp đẽ, nền sàn cao quá đầu người, có thang lên xuống. Mái cḥi lợp tranh 
hay lá dừa để che mưa nắng. Mặt sau và hai hông cḥi che kín, chỉ chừa trống mặt 
trước. Mỗi cḥi chứa được 4 hoặc 5 người. Trong cḥi có một cái mơ và một khúc 
thân cây chuối hay bó rơm để người chơi găm con bài và cờ đuôi nheo. Cḥi trung 
ương, lớn hơn cái cḥi thường một ít, dùng trống thay mơ và dành riêng cho các 
vị có chức tước hay có uy tín trong làng muốn tham gia cuộc chơi, cũng có thể 
dành cho cặp vợ chồng mới cưới. Những khi không có khách đặc biệt th́ người dân 
thường vẫn có thể ngồi cḥi này. 
Rạp ban tổ chức cũng có mái che mưa nắng, trang hoàng đẹp đẽ hơn. Các cột được 
bó lá ngâu hay lá đùng đ́nh để tăng thêm vẻ trang trọng. Trong rạp kê một bộ 
phản ngựa rộng dành cho các hương chức và quan khách có địa vị ngồi. Đầu phản 
đặt một cái trống chầu dùng làm trống lệnh để ban tổ chức điều khiển cuộc chơi. 
Bên cạnh bộ phản có đặt hàng ghế cho ban nhạc của gánh bài cḥi ngồi ḥa âm. 
2.- Bộ Bài Cḥi 
Trong sân, trước rạp, chỗ Hiệu đứng hô bài, có đặt ống đựng bài. Ống bài là một 
khúc tre lớn, rỗng ruột, cắm lỏng trên một cái cột cố định để ống bài có thể lúc 
lắc được. Trong ống đựng 27 thẻ bài. Đầu nằm trong ống, chân thẻ nhô ra ngoài và 
đật cao quá tầm mắt. 
Con bài làm bằng tre, đầu trên bè ra để dán lá bài lấy trong bộ bài tới. Đầu 
dưới là chân thẻ nhỏ tṛn như chiếc đũa, vót nhọn. Các chân bài nhuộm nửa xanh 
nửa đỏ, giống hệt nhau để không phân biệt được. 
Bộ thẻ bài cḥi gồm 27 cặp, có tên như sau:  
Pho VĂN: Nhất Gối, Nh́ Bánh, Ba Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Rốn, Sáu Xưởng, Bảy Liễu, 
Tám Miểng, Chín Cu. 
Pho VẠN : Nhất Tṛ, Nh́ Bí, Tam Quăng, Tứ Ghế, Ngũ Trượt, Lục Trạng, Thất Vung, 
Bát Bồng, Cửu Chùa.  
 
Pho SÁCH: Nhất Nọc, Nh́ Nghèo, Ba Gà, Tứ Xách, Ngũ Dụm, Sáu Hường, Bảy Thưa, Tám 
Dây và Cửu Điều.  
Trên mỗi con bài không ghi tên con bài, chỉ vẽ h́nh như kiểu siêu thực, bằng mực 
đen, làm kư hiệu riêng cho mỗi con bài. Đôi khi người ta rút 3 cặp bài bất kỳ, 
mỗi pho rút một cặp, thế vào đó 3 cặp Yêu, màu đỏ, có tên là Lăo, Thang, Chi. 
Nếu Lăo th́ gọi Ông Ầm, Thang gọi là Thái Tử và Chi gọi là Bạch Huê. Miễn sao bộ 
thẻ bài cḥi vẫn giữ y số ấn định là 27 cặp, chia đều mỗi pho 9 cặp. Ngoài 27 
thẻ bài bỏ vào ống, c̣n 27 con bài cũng y như vậy, đem dán vào thẻ lớn. Cú 3 con 
bất kỳ dán chung vào một thẻ. Có 9 thẻ phát mỗi cḥi một thẻ, nên thẻ lớn c̣n 
gọi là thẻ cḥi. Cũng có nơi không dán chung 3 con bài vào một thẻ lớn mà vẫn 
dùng 27 thẻ nhỏ, y như 27 thẻ bài đă dùng trong ống để phân phát cho 9 cḥi, mỗi 
cḥi 3 thẻ bài. Như vậy, cả hai cách, mỗi bộ bài cḥi phải có 27 cặp như đă kể 
trên, chia làm hai phần y nhau về số lượng và tên con bài. Một phần bỏ vào ống 
bài để cho Hiệu bốc thăm, một phần đem phân phát cho 9 cḥi.  
 
Trong bài cḥi, tên con bài đôi khi được gọi khác. Như trong pho Văn: Nhất Gối 
th́ gọi là Chín Gối, Nh́ Bánh tức là Hai Bánh rồi đảo ngược gọi là Bánh Hai, Ngũ 
Rốn gọi trại Ngũ Rún hay gọi khác là Ngũ Ruột, Tám Miểng gọi trại là Tám Miếu. 
Trong pho VẠN: Tứ Ghế c̣n gọi là Tứ Móc hoặc Tứ Cẳng, Ngũ Trượt là Ngũ Trật hay 
Ngũ Trợt, Lục Trạng gọi là Lục Chạng. Trong pho SÁCH: Tứ Sách gọi là Tứ Gióng, 
Ngũ Dụm thành Ngũ Dít, Bảy Thưa là Bảy Hột. 
 
THỂ THỨC CUỘC CHƠI 
Một hội bài cḥi, ngoài số người đến đánh bài và thân nhân của họ, c̣n có số 
người đến xem, có thể lên đến vài trăm người. Một đám hát trống, người xem 
thường có mặt từ lúc dạo tuồng đến khi văn tuồng. Nhưng ở bài cḥi, người xem có 
thể đến rồi ra về bất cứ lúc nào tùy thích, và không có lệ bán vé vào xem.  
Muốn đánh bài cḥi người ta phải báo cho ban tổ chức biết để sắp xếp ở hội kế 
tiếp. Người đến xem không cần xin phép ai cả, cú chen vào đứng dọc theo các cḥi 
và rạp, làm thành một ṿng bao quanh sân khấu. Mỗi ngày cuộc chơi kéo dài từ 
sáng tới khuya. Giờ ăn chỉ nghỉ ngơi chốc lát. Ở đám bài cḥi, lúc nào cũng có 
tiếng kèn trống, âm thanh rộn ră vang xa, lôi cuốn thúc dục: 
"Rủ nhau đi đánh bài cḥi  
Để cho con khóc đến ḷi rún (rốn) ra". 
Trống chầu một hồi ba tiếng rống lên, giàn nhạc tiếp theo phụ họa, cuộc chơi bắt 
đầu. Những người tham gia leo ngồi trên cḥi, do ban tổ chức sắp xếp. Người đánh 
bài có thể rủ bạn bè, thân nhân hay người t́nh lên ngồi trong cḥi của ḿnh. Ban 
Hiệu ra sân, thường th́ một nam một nữ, nếu thêm một người nữa để thay bài th́ 
càng tốt. Hiệu hô bài mặc áo dài đen, đội khăn đóng, thắt dây lưng đỏ, mặt đánh 
phấn thoa son, có khi hóa trang như là đào kép hát bội. Hiệu bưng khay đến từng 
cḥi thu tiền và phát bài. Người ngồi trên cḥi nhận bài, đem găm ở khúc chuối 
hay bó rơm để sẵng trên cḥi. Phát bài xong, Hiệu đến trước rạp vái chào ban tổ 
chức rồi hô lớn: "Phát bài đă đủ cho Hiệu tính tiền". Người điều khiển cho cuộc 
chơi đáp lại bằng ba tiếng trống chầu. Hiệu cúi đầu: "Dạ!" 
Trống lệnh đă cho phép. Hiệu hai tay ôm lấy ống đựng thẻ lắc mạnh nhiều lần. Khi 
các con bài đă trộn lẫn vào nhau, Hiệu vói tay rút một con bài. Mọi người hồi 
hộp chờ đợi tên con bài đang nằm trong tay Hiệu. Lúc ấy tiếng trống chầu thúc 
liên hồi, dàn nhạc cũng dồn dập tưng bừng, kích thích ḷng mong đợi của mọi 
người. Nhưng Hiệu chưa vội đọc tên con bài. Anh ta múa may, vái chào mọi người 
rồi mới cất giọng hô điệu bài cḥi bằng hai câu thơ hay cả bài lục bát tùy thích. 
Có điều câu cuối bao giờ cũng có chữ chỉ định tên con bài vừa mới rút được. 
Chẳng hạn tên con bài là Ngũ Trượt th́ hô:  
"Trời mưa làm ướt sân đ́nh  
Anh đi cho khéo trợt ́nh xuống đây  
Trợt quơi (ơi), Ngũ Trợt!" 
Tức th́ cḥi có bài trùng với con bài ấy đáp lại bằng ba tiếng mơ "cốc, cốc, cốc!". 
Nếu là cḥi trung ương trúng th́ đánh ba tiếng trống "tum tum tum!". Hiệu trao 
thẻ bài cho người chạy bài đem đến cḥi trúng. Con bài ấy được găm vào khúc 
chuối cây hay bó rơm trên cḥi. Hiệu lại tiếp tục lắc ống rồi rút con bài khác. 
Và cũng theo thủ tục hô bài như đă nói trên. Ban đầu trong ống có 27 thẻ bài, 
nhưng bớt dần theo mỗi lần rút thẻ cho đến khi có một cḥi nào trúng được ba lần, 
tức là bài đă tới th́ mới chấm dứt ván bài. Khi Hiệu hô xong con bài, nếu có 
cḥi trúng lần thứ ba th́ báo hiệu bài tới bằng một hồi mơ dài (cḥi trung ương 
th́ báo một hồi trống tum), lúc ấy, ở rạp ban tổ chức, một hồi trống chầu được 
gióng lên, báo hiệu xong một ván bài. 
Hiệu bưng khay tiền và một lá cờ đuôi nheo đến tận cḥi có bài tới. Cờ đuôi nheo 
c̣n gọi là cờ hiệu, có h́nh tam giác vuông, màu đỏ bằng giấy. Trên cờ viết số 
thứ tự ván bài, từ đệ nhất, đệ nhị đến đệ bát. Hiệu đứng trước cḥi có bài tới 
trịnh trọng thưa: 
-Vâng lệnh làng lănh lấy khay tiền. Hiệu (tui) khẩn cấp điện cờ Đệ nhất.  
Theo lệ, cḥi có bài tới, muốn lịch sự phải thưởng tiền cho Hiệu, nhiều ít là do 
tài diễn xuất của Hiệu. V́ thế, khi dâng khay tiền, Hiệu phải trổ tài múa những 
động tác đẹp mắt, miệng th́ ngâm thơ, hát Nam, hát Khách. Nếu gặp người tới có 
máu văn nghệ, hỏi đố bằng thơ, Hiệu cũng phải biết đáp bằng thơ. Chẳng hạn như 
câu hỏi đố: 
"Cái ǵ có trái không hoa?  
Cái ǵ không rễ cho ta t́m ṭi?  
Cái ǵ vừa thơm vừa tho?  
Kẻ yêu người chuộng, kẻ ḍ t́nh nhân?  
Cái ǵ mà chẳng có chân?  
Cái ǵ không vú xây vần lắm con?  
Cái ǵ vừa trơn vừa tṛn,  
Mười hai tháng chẵn không ṃn chút nao?  
Cái ǵ mà ở trên cao?  
Làm mưa làm gió làm sao được vầy?  
Cái ǵ mà ở trên cây?  
Trèo lên tụt xuống khen ai là tài?  
Cái ǵ chỉ có một tai?  
Cái ǵ một mặt cái ǵ ngẳng lưng?  
Cái ǵ anh gảy từng tưng..." 
Nếu không lanh trí, có tài ứng đối, thuộc nhiều ca dao, câu đố... Hiệu khó mà 
vượt qua nổi. Hiệu nhanh nhẩu đáp ngay: 
"Cây súng có trái không hoa  
Tơ hồng không rễ cho ta t́m ṭi  
Quế ăn vừa thơm vừa tho  
Kẻ yêu người chuộng, kẻ ḍ t́nh nhân  
Cái ốc ma không có chân  
Con gà không vú xây vần lắm con  
Sợi chỉ vừa trơn vừa tṛn  
Mười hai tháng chẵn chẳng ṃn chút nao  
Ông trời mà ở trên cao  
Làm mưa làm gió làm sao được vầy  
Con vượn mà ở trên cây  
Trèo lên trợt xuống khen ai là tài  
Cối xay đậu có một tai  
Trống mảng một mặt, mâm bồng ngẳng lưng  
Đàn bầu anh gảy từng tưng..." 
Hiệu vừa đáp xong, người chủ cḥi trúng khoái quá, đổ cả khay tiền xuống thưởng. 
Các cḥi thua cuộc, chẳng buồn việc ăn thua, vẫn ném tiền xuống thưởng tài nghệ 
của Hiệu, người đứng xem cũng hùa theo, văi tiền vào sân như bươm bướm lượn. Màn 
thưởng thức xem chừng đă măn. Trống chầu của ban tổ chức vang lên một hồi ba 
tiếng, báo hiệu cuộc chơi cho ván kế tiếp. Người chạy bài đi thu con bài ở các 
cḥi đem bỏ vào ống thăm chuẩn bị. Người xem chỉ cần nh́n cây cờ đuôi nheo cắm ở 
cḥi trúng có đề số thứ tự th́ biết hội bài này đă chơi đến ván thứ mấy. 
Thời gian cho một ván bài không chừng, tùy sự may rủi của việc bốc bài. Nhanh 
nhất, bốc ba lần đă thấy bài tới. C̣n chậm nhất phải bốc đến lần thứ 19. Ngoài 
ra c̣n tùy thuộc vào việc hô bài của Hiệu. Nếu hô những bài dài th́ chiếm nhiều 
thời gian. V́ vậy Hiệu thường hô những câu thai chỉ có hai hoặc bốn câu lục bát. 
Thỉnh thoảng mới chen một bài dài hoặc bài có tính hài hước để thay đổi không 
khí, tránh sự nhàm chán. Chẳng hạn như câu thai của con bài Bạch Huệ chọc cười 
dưới đây: 
"Con vợ tui tốt tợ tiên sa  
Coi trong thiên hạ ai mà dám beng (b́, sánh)  
Lưng kḥm rồi lại da đen  
C̣n hai con mắt tợ khoen trống chầu  
Gị cao đít lớn to đầu  
Lại thêm cái mặt cô sầu bắt ghê  
Việc làm trăm việc tui chê  
Chỉ thương có chút... ... ... ... ... ... ... " 
Những câu thai thường có sẵn, Hiệu phải thuộc ḷng hàng trăm câu. Cũng có khi 
Hiệu phải sáng tác hoặc chắp nối, ráp câu nọ với câu kia, miễn sao câu thai nói 
lên được tên con bài Hiệu vừa mới bốc. Để tăng sự hấp dẫn, khi hô Hiệu phải diễn 
tả bằng điệu bộ, nét mặt, giọng nói như một diễn viên hát bội rành nghề. Nội 
dung câu thai cũng luôn thay đổi. Chẳng hạn ván thứ nhất, gặp con bài Nh́ Nghèo, 
Hiệu hô: 
"Chắp tay với chẳng tới kèo  
Cha mẹ anh nghèo chẳng cưới được em!" 
Ván thứ hai, nếu gặp lại con bài đó, Hiệu hô câu thai có nội dung khác: 
"Cây khô tưới nước cũng khô  
Vận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo". 
Ván thứ ba Hiệu đổi khác: 
"Nhiều quan thêm khổ thằng dân  
Nhiều giàu th́ lại chết trân thằng nghèo". 
Ván thứ tư lại khác: 
"Thấy anh em cũng muốn theo  
Chỉ sợ anh nghèo anh bán em đi". 
Ván thứ năm khác nữa: 
"Buồn từ trong dạ buồn ra  
Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo" 
Ván thứ sáu, vẫn c̣n nhiều câu khác nữa: 
"Ngày thường thiếu áo thiếu cơm  
Đêm nằm không chiếu lấy rơm làm giường  
Dù dơi, dép bướm chật đường  
Màn loan gối phượng ai thương thằng nghèo" 
Ngoài ra tên con bài cũng được gọi trại đi hoặc đổi khác để ứng vào một câu thơ 
hoặc câu ca dao nào đó.  
Gọi khác chữ, chẳng hạn Bảy Thưa thành Bảy Hột. Gặp cái bài này, Hiệu xử dụng 
một trong hai câu thơ sau đây làm câu thai: 
"Ước ǵ em chửa có chồng  
Anh về thưa với cha mẹ mang rượu nồng đón em". 
hoặc: 
"C̣n duyên mua thị bán hồng  
Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ  
Gặm xơ rồi lại gặm cùi  
Có ba bảy hột để lùi cho con". 
Nói trại, chẳng hạn Ngũ Rốn thành Ngũ Rún rồi thành Ngũ Ruột:  
"Rủ nhau đi đánh bài cḥi 
Để cho con khóc đến ḷi rún (rốn) ra" 
hay: 
"Tḥ tay vào ngắt ngọn ng̣  
Thương em đứt ruột, giả đ̣ ngó lơ". 
Suy diễn, từ Ngũ Dụm thành Ngũ Dít: 
"Một cây làm chẳng nên non  
Ba cây dụm lại thành ḥn núi cao". 
Có khi dùng câu đố làm câu thai. Trường hợp này th́ nội dung của câu đố đă diễn 
tả tên con bài nên câu chót không cần phải trùng chữ với tên con bài nữa. Chẳng 
hạn gặp con bài Ba Gà, Hiệu có thể hô câu thai: 
"Ḿnh vàng vận áo mă tiên  
Ngày ba bốn vợ tối nằm riêng một ḿnh" 
Có trường hợp không cần nêu tên con bài mà chỉ giải nghĩa đầy đủ là được. Gặp 
con bài Thái Tử, có thể dùng câu: 
"Thuyền ai thấp thoáng bên bờ  
Hay thuyền ông Lữ đợi chờ con vua". 
Đôi khi Hiệu dùng câu thai h́nh tượng để suy diễn ư nghĩa con bài Tứ Cẳng (c̣n 
gọi là Tứ Ghế hay Tứ Móc):  
"Một hai bận nói rằng không  
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người". 
Thỉnh thoảng c̣n dùng những câu thai mơ hồ, người xem khó đoán được tên con bài 
Nh́ Bánh mà Hiệu đang nắm trong tay: 
"Biết rằng ai có mong ai  
Sao trời lại nỡ xé hai thế này  
Có sao hôm mà chẳng có sao mai  
Hai đàng hai đứa t́nh phai hoa tàn". 
Cũng có lúc, cả bốn câu đều nhắc đến tên con bài. Gặp con bài Chín Cu th́ câu 
thai sau đây điển h́nh cho trường hợp này:  
"Tiếc công bỏ mẩn cho cu  
Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu bay  
Cu say mũ cả áo dài  
Cu chê nhà khó phụ hoài duyên anh!" 
C̣n như gặp những câu thai nêu trọn vẹn tên con bài th́ Hiệu không bao giờ bỏ 
qua cơ hội. Chẳng hạn như con bài Ba Bụng mà dùng câu thai sau đây th́ tuyệt: 
"Xét ra cho kỹ sự đời  
Ba người ba bụng không ai thời giống ai". 
Khi bài tới ván thứ tám th́ xong một hội. Lẽ ra phải chín ván v́ có chín cḥi 
đóng tiền, nhưng phải dành tiền ván thứ chín để ban tổ chức chi phí cuộc chơi và 
trả tiền công cho gánh bài cḥi. Vậy khi văn một hội th́ ban tổ chức được một 
khoản tiền bằng số tiền cáp của một cḥi, và cứ xong một hội th́ ít nhất cũng 
phải có một cḥi thua. Xong một hội, trống chầu vang lên một hồi rất dài. Ban 
nhạc cũng tạm nghỉ giải lao, chuẩn bị cho hội khác. Người đánh bài nếu muốn chơi 
tiếp th́ vẫn ngồi trên cḥi của ḿnh, bằng không th́ xuống, để cḥi trống cho 
người khác lên thay.  
CÂU THAI TRONG BỘ BÀI CH̉I  
Như đă nói trên, một bộ bài cḥi có 27 con bài. Mỗi tên con 
bài Hiệu phải dùng một câu thai và nội dung câu thai phải luôn luôn thay đổi khi 
gặp lại con bài cũ.  
1.- Câu Thai Các Con Bài Trong Kho VĂN:  
Nhất Gối, nhưng thường gọi là Chín Gối: 
"Đêm nằm gối gấm không êm  
Gối lụa không mềm bằng gối tay em". 
Nh́ Bánh: 
"Bánh bèo trục lúc không tai  
Bánh in to hột, dện hoài đổ ra". 
Ba Bụng: 
"Gió sao gió mát sau lưng  
Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này". 
Tứ Tượng: 
"Ai đi ngoài ngơ ào ào  
Hay là ông tượng đạp rào ổng vô?" 
Ngũ Ruột: 
"Bởi v́ chai rượu Bạch Liên  
Mai dong điềm chỉ tới miền nhà em  
Cũng v́ chai rượu gói nem  
Mà cha mẹ đă gả em đi rồi  
C̣n ǵ than thở anh ơi  
Chỉ thêm đau ruột, em có chồng rồi, biết sao!" 
Sáu Xướng: 
"Hồi nào đói rách có qua  
Bây giờ nên xưởng nên nhà lại lơ". 
Bảy Liễu:  
"Biết đâu mà đợi mà chờ  
Tấm thân liễu yếu đào tơ gió lồng". 
Tám Miểng:  
"Văn chương đựng không đầy lá mít  
Vơ th́ đá khổng bể nổi miểng sành  
Nghe vua treo bảng cũng x̣ng xành ra thi  
Bảng đề không biết chữ chi  
Mài nghiên múa bút có khi hết ngày". 
Chín Cu: 
"Sự đời có bốn cái ngu  
Mai dong, hứng nợ, rập cu, cầm chầu". 
2.- Câu Thai Các Con Bài Trong Kho Vạn:  
Nhất Tṛ:  
"Không ngon cũng bánh lá gai 
Dù anh có dại cũng trai học tṛ". 
Nh́ Bí: 
"B́nh Định có núi Vọng Phu  
Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh  
Em về B́nh Định cùng anh  
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa". 
Tam Quăng: 
"Anh đang viết liễn trong đ́nh  
Nghe em, chồng hỏi, giật ḿnh quăng nghiên". 
Tứ Móc: 
"Ḷng thương chị bán thịt heo  
Hai vai gánh nặng c̣n đèo móc cân". 
Ngũ Trợt: 
"Bớ chị em ơi! đi chợ  
Chợ nào bằng chợ G̣ Chàm  
Tôm tươi cá trụng thịt ḅ thịt heo  
C̣n thêm bánh đúc bánh xèo  
Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u  
Những con cá chép cá thu  
Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon  
Ngó ra ngoài chợ  
Nẫu bán thịt phay  
Nem tươi chả lụa  
Rượu trà no say  
Ngó ra ngoài chợ  
Vẫn bán tranh cày  
Roi mây, lưỡi cuốc  
Nẫu bày nghinh ngang  
Ngó ra ngoài chợ  
Nẫu bán sàn sàn  
Khoai lang, bắp đỗ  
Đục, chàng, kéo, dao...  
Xem ra chẳng sót hàng nào  
Quảng Nam, Quảng Ngăi cũng vào đây mua ...  
Lại c̣n những món bánh khô  
Xem đi xét lại nhiều đồ lắm thay  
Những c̣n hàng giép hàng giày  
Nón ngựa nón chóp bán rày liên thiên  
Lại c̣n những món nhiều tiền  
Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm...  
Song thần An Thái  
Dừa trái Tam Quan  
Đường cát Dương An  
Đĩa bàn nội phủ  
Kể đủ hàng hoa...  
Cà dê, cà dĩa, cà ch́nh  
Ơ¨t ngà, ớt bị, ớt sừng, ớt cay  
Rau răm, rau húng  
Bầu thúng, cà tây  
Mua bán bạc cây  
Những người hàng xén  
Mấy chú rón rén  
Ăn cắp thiệt lanh  
Mấy chú gian manh  
Là anh trùm chợ  
Buôn mọi bán rợ  
Mấy chú An Khê  
Ở trển đem về  
Xấp trần nài rể  
Dễ mua dễ bán  
Bánh tráng, kẹo cà  
Xoa xoa, đậu hũ  
Mè xửng , bánh canh  
Dạo hết xung quanh  
Hành ng̣, cúc cải  
Dây dừa, dầu rái  
Kẹo đỗ, kẹo dừa  
Mấy chị ngủ trưa  
Nẫu mua trợt lớt". 
Lục Trạng: 
"Bậu khoe giỏi, sao chẳng chịu đi thi  
Cú ăn xó bếp, ngủ th́ chuồng trâu  
Bậu ơi tôi chẳng ưng đâu  
Trạng ǵ như thế có hầu cũng uổng công". 
Thất Vung: 
"Ngó lên ḥn núi chóp vung  
Thấy bảy cô gái cùng chung một nhà". 
Bát Bồng: 
"Chầu rày đă có trăng non  
Để tôi lên xuống có con em bồng!" 
Cửu Chùa: 
"Con vua th́ được làm vua  
Con săi ở chùa phải quét lá đa". 
3.- Câu Thai Các Con Bài Trong Pho SÁCH:  
Nhứt Nọc:  
"Đ̣ em đưa rước bộ hành 
Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề  
Trải qua băi hạc, gành nghê  
Quanh năm chèo chống, tứ bề sóng xô  
Tiếng ai văng vẳng gọi đ̣  
Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người". 
Nh́ Nghèo: 
"Dầu mà hai ngả phân ly  
Ḿnh ơi, hăy nhớ hồi khi c̣n nghèo". 
Ba Gà: 
"Khôn ngoan đối đáp người ngoài  
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau". 
Tứ Sách: 
"Gió đưa trăng th́ trăng đưa gió  
Quạt nọ đưa đèn, đèn có đưa ai  
Trăm năm đá nát vàng phai  
Đá nát mặc đá, vàng phai mặc vàng  
Trông cho én nhạn một ḷng  
Lồng đèn thiếp xách, mâm tơ hồng chàng bưng". 
Ngũ Dụm: 
"Một cây làm chẳng nên non  
Ba cây dụm lại thành ḥn núi cao". 
Sáu Hường: 
"Nghĩ duyên lận đận mà buồn  
Thương nhau vàng vơ, má hường kém tươi". 
Bảy Thưa: 
"Đừng ham nón tốt dột mưa  
Đừng ham người tốt mă mà thưa chuyện nhà" 
Tám Dây: 
"Ví dầu cha đánh mẹ treo  
Đứt dây té xuống cũng theo tới cùng" 
Cửu Điều: 
"Huỳnh Kim có bến Tân An  
Có lầu Thông Nhẫn lập đàn bán buôn  
Trước kia đường vắng hơn truông  
Bây giờ trong bán ngoài buôn đầy tràn  
Trong nhà dệt nhiễu thêu hàng  
Trong sân thợ nhuộm, ngoài đàng xe hơi  
Khen cho ông Nhẫn đủ đời  
Lụa hàng cấp giá nơi nơi cũng điều" 
4.- Câu Thai Các Con Bài Trong Cặp YÊU:  
Ông Ầm:  
"Vai mang bị bạc kè kè 
Nói bậy nói bạ nẫu nghe ầm ầm". 
Thái Tử: 
"Thuyền dời nhưng dạ chẳng dời  
Khăng khăng một lời: quân tử nhất ngôn". 
Bạch Huê: 
"Cũng v́ duyên nợ ba sinh  
Sáng trăng câu hát huê t́nh mà theo" 
SỰ CẢI TIẾN VÀ BIẾN THỂ CỦA BÀI CH̉I 
Hội bài cḥi là một tṛ chơi dân gian, mang tính văn nghệ quần chúng. Tiền thân 
của bài cḥi là sự liên lạc nhau giữa các cḥi canh trên nương rẫy. Và bài cḥi 
được h́nh thành và hoàn chỉnh ở đồng bằng. Thể thức chơi vẫn giữ nét độc đáo 
nguyên thủy, ngồi trên những chiếc cḥi, nên gọi là bài cḥi truyền thống. 
Bài cḥi truyền thống cũng chia làm hai giai đoạn: Hiệu hô những câu ca dao 
ngắn, nội dung không liên quan ǵ đến con bài, miễn sao có chữ đồng âm với tên 
con bài là được; thời kỳ này gọi là bài cḥi tạp. Dần dần có xen nhiều những câu 
thai do nghệ nhân đặt ra hoặc do Hiệu ứng chế có nội dung ăn khớp với tên con 
bài, như câu Nhứt Nọc dưới đây; thời kỳ này gọi là bài cḥi câu. 
"Tay cầm sào chống lái  
Mắt liếc băi lều tranh  
Ở đây đưa rước bộ hành  
Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề  
Trải qua băi bạc gành nghê  
Tứ mùa chèo chống đôi bề sóng xao  
Thú vui ngang dọc một sào  
Ngồi trong tịnh viện kẻ gào người kêu  
Tiếng ai văng vẳng kêu đ̣  
Mau mau nhổ nọc chèo qua rước người". 
Sau này v́ sự giản tiện, có vài nơi phá lệ cất cḥi vẫn dùng 9 cái ghế thay cho 
9 chiếc cḥi và thể thức vẫn như cũ. Khuyết điểm của bài cḥi ghế là không thể 
thay thế hết được chức năng của cḥi nên kém phần sôi nổi, giảm sự hào hứng của 
người chơi bài và cả người xem. Từ h́nh thức bài cḥi ghế, những năm đầu thế kỷ 
20, có một số nghệ nhân mạnh dạn tách khỏi mô h́nh truyền thống để kiến tạo một 
lối mới gọi là bài cḥi chiếu. Đặc tính của bài cḥi này không phụ thuộc vào 
thời vụ. Nghĩa là tổ chức lúc nào cũng được, không cần phải đợi dịp Tết Nguyên 
Đán. Bài cḥi chiếu cũng không có cḥi. Sân khấu vẫn c̣n trệt nhưng đă được giới 
hạn trong phạm vi chiếu rải. Bài cḥi chiếu cũng không c̣n độc diễn của Hiệu mà 
đă phân vai nhân vật (2 hay 3 diễn viên) nhưng c̣n đơn giản, chủ yếu là giọng ca 
mùi mẫn diễn những lớp trong các truyện tuồng như Lưu Kim Đính, Phàn Lê Huê, 
Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên... Tuy vậy, sự tŕnh diễn chỉ để giải trí và nêu tên 
con bài ở những câu thơ cuối lớp, chứ chưa đủ tŕnh độ kết cấu nghệ thuật để trở 
thành mục diễn, nên người ta gọi là bài cḥi lớp. 
Một biến cố lớn trong bộ môn bài cḥi là sự ra đời của bài cḥi truyện. Vào giữa 
năm 1933, hai nghệ sĩ sáng lập gồm Bốn Trang (tức Phan Đ́nh Lang người xă Nhơn 
Thành, An Nhơn) và Ba Nhỏ (tức Ba Huợt người xă Cát Sơn, Phù Cát) cùng với sự 
cộng tác của Tư Liên (Đỗ Liên), Năm Oanh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ) và nhiều nghệ nhân 
khác; lần đầu tiên tŕnh diễn bài cḥi truyện trên sân khấu sàn gỗ tại chợ An 
Lương xă Mỹ Chánh huyện Phù Mỹ. Đây là lần thử nghiệm, không tránh khỏi nhiều 
trở ngại, nhưng nói chung vẫn gặt hái những kết quả khích lệ. Bài cḥi truyện 
hoàn toàn dứt bỏ thể thức chơi bài truyền thống, mạnh dạn bước lên sàn sân khấu 
có đầy đủ phông màn. Nghệ sĩ được chọn sắm vai thích hợp với nhân vật, có hóa 
trang, có sự nhập vai, diễn xuất các động tác theo qui luật ước lệ và cách điệu. 
Làn điệu cũng phát triển để phù hợp t́nh cảm của mỗi nhân vật. Ngoài điệu cố hữu 
là hô bài cḥi và điệu hát chủ đạo là Xuân Nữ (có sức gợi cảm), c̣n có điệu cổ 
bản, nói lối, Hồ quảng, xàng xê, hát Nam, hát Khách, tẩu mă, lư thượng... Về âm 
nhạc ngoài đờn c̣, kèn, sanh, trống c̣n có đàn nguyệt để tạo âm non âm già phù 
hợp với làn điệu mới. Về tŕnh diễn, diễn viên có thể cương vài chi tiết nhưng 
không được đi quá xa hoặc phản lại đề tài. Về y phục và đạo cụ cần sắm đủ các 
loại để trang bị thích hợp từng nhân vật. Về ánh sáng có trụ đèn lồng thắp dầu, 
về sau có đèn măng sông. 
Dịp Tết Giáp Tuất (1934) gánh bài cḥi của ông Bốn Trang và Ba Nhỏ kiện toàn đội 
ngũ lập thành đoàn hát Tân Xuân đến lưu diễn ở thị trấn G̣ Bồi (phủ Tuy Phước). 
Nhờ rút tỉa kinh nghiệm, lần này được khán giả đón nhận nồng nhiệt và bán vé thu 
được một số tiền lớn. 
MỘT THỜI CỰC THỊNH 
Đánh dấu sự thành công của gánh hát Tân Xuân, nhiều nghệ nhân đầu tư vào việc 
lập gánh hát bài cḥi chuyên nghiệp. Đoàn lớn th́ diễn tuồng truyện trên sân 
khấu hiện đại, đoàn cỡ trung th́ diễn lớp trên sân khấu trệt trải chiếu, đoàn 
nhỏ th́ hô bài theo lối truyền thống trên sân đất. 
Từ năm 1933 đến năm 1945 tỉnh B́nh Định có trên 10 gánh hát bài cḥi nổi tiếng. 
Các đoàn hát như Tân Xuân của Bốn Trang, Long Vân Bang của Tư Miệt, Ư Chung của 
Phan Đ́nh Chi chuyên lưu diễn ở khắp các tỉnh từ B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa, 
Phan Rang, Phan Thiết đến Di Linh (Lâm Đồng). Các đoàn khác như gánh Năm Oanh 
(An Lương, Phù Mỹ), gánh Ông Dần (Hoài Nhơn), Chính Oanh (Kiến Hàng, An Nhơn), 
Sáu Sơn (Nhạn Tháp, An Nhơn), Ông Lợi (Phước Nghĩa, Tuy Phước), gánh Đồng Ấu của 
Đinh Thảo và Bốn Dân... 
Đội ngũ diễn viên của bộ môn bài cḥi cũng khá hùng hậu, không những nhiều kép 
nổi tiếng như Ba Huợt, Ba Sinh, Bốn Que (tức Bốn Trang), Tư Liên, Tư Miệt, Năm 
Oanh, Mười Vạn, Kim Kích... mà c̣n có nhiều khuôn mặt nữ tài hoa "một thời vang 
bóng" như đào Nhảy và Dần (Hoài Nhơn), đào Trang và Đài (An Thái, An Nhơn), đào 
Sanh và Đồng (Phước Sơn, Tuy Phước), đào B́nh (Phú Tài, Tuy Phước), đào Chung và 
Liệu (Qui Nhơn), đào Giàu, Ba Danh... Lớp diễn viên mầm non có Văn Bá, Đinh Thị 
Bích Hải, Nguyễn Thị Hường, Lê Quí, Đinh Thái Sơn... đều phát triển tài năng 
trước tuổi. Về âm nhạc cũng có những nghệ sĩ xuất thần như Tám Kèn (tức Nguyễn 
Hoài Ân), Văn Bá Anh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ), Lưu Hạnh (An Nhơn), Nguyễn Mới, Sáu 
Hoạch... Về kịch bản xuất hiện nhiều tác giả soạn bài cḥi truyện như: Trương 
Ân, Năm Oanh, Sáu Cóc với những vở ca kịch nổi tiếng như Phạm Công Cúc Hoa, 
Thoại Khanh Châu Tuấn, Tam Hạ Nam Đường, Lưu B́nh Dương Lễ, Quan Công Phục Huê 
Dung, Lư Ân Lang Châu... 
Trong thời kỳ này ba thể h́nh bài cḥi đều thịnh hành và không cạnh tranh lấn áp 
nhau. Bài cḥi truyện có một chỗ đứng ở sân khấu phông màn, có rạp che chắn, lưu 
diễn ở các thị tứ, người xem phải mua vé. Bài cḥi lớp t́m đất sống trên sân 
khấu chiếu khắp các làng mạc miền quê. Bài cḥi truyền thống vẫn nở rộ mỗi dịp 
xuân về. 
THÚ TIÊU KHIỂN TRONG BÀI CH̉I 
Bản chất bài cḥi là tṛ chơi bài của dân gian xen với ca múa do tài anh Hiệu 
ứng chế đồng thời có sự cộng tác, đối thoại một cách tự nhiên giữa người hô và 
người tham gia cuộc chơi. Nếu đưa bài cḥi lên sân khấu có phông màn tức là xóa 
bỏ cuộc chơi, bài cḥi truyện trở nên hụt hẫng, cần bù đắp vào các điều kiện sau 
đây mới tạo được không khí hấp dẫn: Sự tích truyện tuy có gay cấn nhưng có hậu 
mới thỏa măn người xem. Kịch bản cần cải tiến mới tránh khỏi sự tẻ nhạt nhưng 
không làm đứt mạch truyền thống, trong đó chất liệu bài cḥi phải chiếm tỷ lệ 
cao, nếu không sẽ bị đồng hóa với các môn nghệ thuật khác, làm thất vọng khán 
giả. 
Thời ấy có thành ngữ "gánh hát xà bần" để chỉ trích những gánh bài cḥi diễn tṛ 
hổ lốn đă đưa hát bội, cải lương, chèo, Hồ quảng chen vào quá nửa. Ngoài ra bài 
cḥi truyện cần có đạo diễn thành thạo, tài diễn xuất của nhân vật và giọng ca 
đúng điệu. Sau nữa, cách trang trí, lối trang phục và sự điều chỉnh ánh sáng rất 
cần thiết, làm nổi bật cảnh sắc trên sân khấu. Nhưng bài cḥi truyền thống, 
không cần những điều kiện trên, chỉ cần một anh Hiệu tài hoa là đủ rối và tự nó 
đă đi vào ḷng dân tộc nên có sức lôi cuốn " Rủ nhau đi đánh bài cḥi, để cho 
con khóc đến ḷi rún ra" (Ca dao). Bởi thế, những người khắt khe lại cho rằng: 
chơi bài cḥi là đánh bạc v́ sử dụng bộ bài tới, có cáp tiền và có sự ăn thua 
nên mới hấp dẫn như vậy. Xin thưa "không", chơi bài cḥi không mang tính cách 
sát phạt của ṣng bài, những người có máu cờ bạc không lấy ǵ làm thích thú ở 
cuộc chơi này. Trong lịch sử bài cḥi, chưa có ai khuynh gia bại sản v́ đam mê 
tṛ chơi này, và cũng chưa thấy ai giàu có v́ trúng mánh bài cḥi. 
Ở bài cḥi, ngoài việc thử thời vận, bói hên xui vào dịp đâu năm, người ta c̣n 
t́m đến bài cḥi để mua vui qua giọng hô, tài ứng đối và lối diễn tṛ của Hiệu. 
V́ vậy, đánh bài cḥi là một thú tiêu khiển, một h́nh thức vui chơi nhẹ nhàng, 
tao nhă, ít tốn kém. Một hội chơi dân gian đă trở thành tập tục vào dịp đầu 
xuân, mang tính chất khuyến khích sáng tác và duy tŕ thi ca b́nh dân. 
Ở các tỉnh miền nam Trung phần, nhất là B́nh Định ngày nay c̣n lưu lại rất nhiều 
ca dao qua lối chơi này, đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn chương b́nh dân của 
nước nhà. Tiếc rằng hội bài cḥi và tṛ chơi truyền thống của nó từ sau năm 1945 
đă mai một dần, đến nay hầu như mất hẳn... 
 
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG  
Giai Phẩm TÂY SƠN Xuân Canh Th́n 2000  
Source : http://www.lebichson.net 
  
 |