|   | 
		
		 
		
		Bí Mật Nơi Cây Dầu Đôi 
		 
		
		Kỳ 1 
		 
		
		Ông nội tôi là người cuối cùng trong ḍng họ c̣n biết chữ nho. Ông có 
		chín người con, hai trai bảy gái. Ba tôi là con trai trưởng. Cái thời 
		của ông c̣n nặng nề trọng nam khinh nữ. Trước khi mất ông ngă bịnh một 
		thời gian. Biết ḿnh không sống được lâu ông cho gọi tất cả những người 
		con từ khắp nơi trở về. Sau khi dặn ḍ nhiều điều cho các con, ông đem 
		hết số tiền dành dụm trừ đi số tiền chuẩn bị hậu sự cho ḿnh, rồi chia 
		đều cho các con. Phần đất hương hỏa ông giao cho hai người con trai:  
		 
		
		Ba và chú tôi. Sau đó ông nói với tất cả các người con rằng: ông có một 
		ít giấy tờ muốn giao lại cho Ba tôi giữ. Trong số giấy tờ đó ba tôi kể 
		lại, có tập gia phả phần đầu viết bằng chữ nho do tiền nhân để lại, cho 
		đến đời ông Cố của tôi phần sau viết bằng chữ quốc ngữ. Rồi ông bảo các 
		người con đi ra chỉ giữ lại ba tôi, để dặn ḍ mấy điều mà ông Cố tôi 
		truyền lại. Và tôi là cháu đích tôn trong họ, nên trước khi mất ba tôi 
		gọi tôi về, truyền lại những điều này.   
		  
		 
		 
		
		*** 
		 
		
		Những năm cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi, người Pháp phát 
		triển đường xá từ Phan Rang ra Thành, rồi xuống Nha Trang, ra Ninh Ḥa. 
		Ông Cố tôi nằm trong số những người mà Pháp tuyển mộ để mở đường này. Và 
		v́ thông thạo chữ nho cũng như hiểu biết chút ít tiếng Pháp, sau một 
		thời gian cần mẫn làm việc, ông đă tạo nên sự tin tưởng, và trở thành 
		một người giúp việc gần gũi với vị kỹ sư đứng đầu công tŕnh này. Trong 
		những ngày tháng ấy, ông Cố tôi đă biết được nhiều việc, ông cho là hệ 
		trọng, nên đă ghi lại và truyền lại cho ông Nội tôi.  
		 
		
		Trong số đó có ba điều chính. Thứ nhất, là Lời nguyền của người Chăm 
		được phát hiện ở đèo Rù Ŕ và sau đó được chôn lại trên đỉnh đèo. Thứ 
		hai, bí mật được giấu trong cây dầu đôi tại Diên Khánh. Thứ ba, kho tàng 
		của nghĩa quân trên vùng núi Ḥn Hèo, nơi có liên hệ đến phong trào Cần 
		Vương chống Pháp, cuối thế kỷ mười chín. Trong ba điều ấy, Lời nguyền 
		của người Chăm, tôi đă kể lại trong truyện "Lời Nguyền Trên Đỉnh đèo Rù 
		Ŕ". 
		 
		
		*** 
		  
		 
		
		Khởi đi từ ngă ba Thành chạy về hướng Nha Trang, nh́n bên tay phải du 
		khách sẽ nh́n thấy cây dầu đôi. Cây cao nhưng tàn lá không nhiều. Đứng 
		xa xa có thể thấy cả ngọn. Đến gần sẽ thấy rễ cuồn cuộn như những con 
		trăn lớn uốn lượn trên mặt đất. Trên thân cây cách mặt đất khoảng một 
		đầu người có một cái bướu lớn. Ông Cố tôi ghi lại rằng khi đường xá từ 
		Phan Rang mở ra đến Thành, ông có nghe các vị bô lăo trong vùng kể lại 
		rằng: Vào đầu thế kỷ mười chín cây dầu đôi chỉ có một thân cao nghệu 
		nghễ. Sau một đêm mưa to, sấm chớp đầy trời, sáng ra mọi người thấy cây 
		mất ngọn thân cây tét làm hai sau khi bị sét đánh. Người dân dọn dẹp 
		khúc bị sét đánh ngă và nghĩ rằng cây sẽ chết. Vậy mà không. Cây dầu đôi 
		lại vươn lên từ chỗ bị sét đánh, hai nhánh chọc thẳng lên trời như thách 
		thức ông Thiên. Không biết có phải từ đó được gọi là cây dầu đôi? 
		 
		
		Cũng có người cho rằng, cây dầu đôi có hai gốc, và lâu ngày hai thân cây 
		dính vào nhau nên gọi là cây dầu đôi. Không biết truyền thuyết nào đúng, 
		nhưng hơn trăm năm nay cây dầu đôi vẫn sừng sững giữa trời mặc bao lịch 
		sử đổi thay. Giờ đây, dưới gốc phải khoảng bảy, tám người ôm mới hết, 
		c̣n hai thân chọc thẳng lên trời th́ mỗi thân ấy phải ba, bốn người cùng 
		nắm tay ôm không giáp ṿng. Nhiều người kể rằng, bác sĩ Yersin, người 
		khám phá ra Đà lạt, lúc sinh thời, mỗi lần từ Nha Trang qua trại chăn 
		nuôi Suối Dầu làm việc, khi đi ngang qua cây dầu đôi, bác sĩ Yersin 
		thường xuống xe, để ngă mũ như chào một bậc cao niên! 
		 
		
		Vậy cây dầu đôi có niên đại bao nhiêu? Chưa có một câu trả lời chính xác. 
		Chuyện kể rằng, năm Quư Sửu 1793 thành Diên Khánh bắt đầu được xây dựng, 
		sau khi Nguyễn Ánh rút quân từ Qui Nhơn về. Cả khu vực c̣n là những dăy 
		rừng ngút ngàn. Quan đă cho lính và dân phu mở mang khu vực, tạo dựng 
		xóm làng. Nhiều người từ miền ngoài được đưa vào lập nghiệp ở đây. Người 
		ta cho rằng, ngay từ thời này giữa những dăy rừng già đó, cây dầu đôi 
		này đứng vượt trội hơn hết. Đến nửa cuối thế kỷ mười chín, thành Diên 
		Khánh đă trở thành một địa danh quen thuộc như các địa danh khác, chợ 
		Thanh Minh, Ninh Ḥa, Vĩnh Điềm, Ngọc Hội, Lư Cấm, Vĩnh Hội...của Khánh 
		Ḥa.  
		 
		
		Lúc bấy giờ, Nha Trang c̣n là một băi cát trắng mênh mông, hoang sơ với 
		vài dăy nhà tranh lụp xụp, của ngư dân người Việt sống bên nhau bằng 
		nghề đánh cá ở xóm Cồn. Con đường từ Nha Trang đi lên Diên Khánh lúc này 
		chỉ mới là con đường rải đá sơ sài. Giao thông chủ yếu vẫn là con đường 
		thủy qua sông Cái. Trung tâm buôn bán, sinh hoạt kinh tế, văn hóa tập 
		trung tại Vĩnh Điềm Hạ. Đường liên lạc duy nhất với Huế và Sài G̣n chỉ 
		là con đường biển. Năm 1885, quân Pháp đổ bộ lên Nha Trang, phong trào 
		Cần Vương lan tới Khánh Ḥa. Do lực lượng địch quá mạnh, nghĩa quân Cần 
		Vương dưới sự lănh đạo của các vị Trịnh Phong, Trần Đường và Nguyễn 
		Khanh, được người dân ca tụng là Khánh Ḥa tam kiệt, đă phải chịu thất 
		bại vào năm 1886. Nền đô hộ của người Pháp tại Nha Trang chính thức bắt 
		đầu từ đây.  
		 
		
		Cũng như các tỉnh khác ở Trung Kỳ, Khánh Ḥa nằm dưới ách cai trị của 
		hai thế lực: Chính phủ Bảo hộ Pháp và Chính phủ Nam triều Nguyễn. Cấp 
		chỉ huy tỉnh thuộc Nam triều đóng tại Diên Khánh c̣n gọi là cơ quan tỉnh. 
		Cơ quan lănh đạo của Chính phủ Pháp đóng ở Nha Trang gọi là Ṭa Sứ. Từ 
		đó Nha Trang trở thành tỉnh lỵ của Khánh Ḥa. Nhằm phục vụ cho quá tŕnh 
		khai thác thuộc địa, Pháp không ngừng từng bước xây dựng và mở rộng khu 
		vực Nha Trang, làm cho nơi đây trở thành trung tâm kinh tế, chính trị, 
		văn hóa và xă hội của tỉnh Khánh Ḥa. 
		 
		
		*** 
		 
		
		Cơn gió nhè nhẹ của buổi chiều tạo nên những gợn sóng nhỏ lăn tăn trên 
		mặt con sông Cái. Mặt trời đă ngă về tây làm hực lên những áng mây hồng, 
		phản chiếu trên sông tạo nên một h́nh ảnh rất đẹp. Viên kỹ sư Pháp và 
		ông Cố tôi đang đi dọc bờ sông. Y nói rằng y nhớ nước Pháp. Nhớ những 
		buổi chiều đi dọc bờ sông Sein thơ mộng. Đó là lư do dường như mỗi buổi 
		chiều, sau khi công việc xong xuôi Cố tôi hay thấy y hay đi dạo một ḿnh. 
		Hôm ấy như có ǵ muốn chia sẻ y đă gọi ông Cố tôi đi cùng. Cả hai sóng 
		bước dọc theo bờ sông Cái. Sau khi hỏi han vài thứ y nói với Cố tôi rằng: 
		con đường mở rộng từ Thành xuống Nha Trang có vài trở ngại. Tuy nhiên, 
		có một điều làm y áy náy măi, đó là không biết có nên không, nếu phải 
		chặt đi cây dầu đôi cao ngút để mở rộng con đường.  
		 
		
		Y im lặng thật lâu. Thả ḍng suy nghĩ theo từng bước chân. Rồi đột nhiên 
		quay sang Cố tôi, y hỏi, ông nghĩ thế nào. Ông Cố tôi không biết trả lời 
		sao cho tiện đang phân vân suy nghĩ. Bởi v́ trong ḷng ông sự hiện diện 
		của cây dầu đôi như một nhân chứng qua bao sóng gió lịch sử. Giờ đây, 
		nơi chân cây, c̣n cái miếu nhỏ thờ người anh hùng Trịnh Phong. Làm sao 
		mà phá đi được! Nhưng làm sao góp ư với Y mà không để bị nghi ngờ? Cái 
		áy náy của viên kỹ sư Pháp không phải không có lư do. Bởi nơi cái miếu 
		nhỏ, lúc nào cũng khói hương nghi ngút. 
		 
		
		Người ta bảo rằng: miếu này rất linh thiêng. Chính ở cái khoảng tâm linh 
		ấy đă cắn rứt thâm tâm của viên kỹ sư này. Y không phải là mẫu người của 
		tâm linh. Y trưởng thành trong cái nôi của công nghệ, được học tập kiến 
		thức từ trường kỹ thuật. Tuy nhiên, có nhiều việc mà y đă từng thấy tại 
		Phi châu, trong công việc của một kiến trúc sư đă làm y thay đổi. Ngày 
		ấy, khi c̣n là một kỹ sư cầu đường mới ra trường, với ḷng ham mê đi đó 
		đi đây y đă hăng hái đi nhận nhiệm vụ tận Phi Châu. Công việc của y là 
		chỉ huy những công tŕnh hạ tầng, xây dựng đường xá, cầu cống cho công 
		việc đi lại được dễ dàng, và cũng để phục vụ cho mẫu quốc trong việc 
		khai thác tài nguyên khoáng sản và chuyên chở về những hải cảng một cách 
		thuận lợi.  
		 
		
		Trong một công tŕnh dựng một con đường lớn, băng qua nơi chôn cất của 
		một bộ lạc thổ dân. Nếu làm con đường ṿng, nó sẽ phải băng qua một khu 
		đầm lầy rộng lớn sẽ tốn nhiều vật liệu. Và dĩ nhiên thời gian thực hiện 
		sẽ lâu hơn nhiều. Sếp của y quyết định bằng mọi cách phải thực hiện con 
		đường thẳng. Trong quyết định này thổ dân đă chống trả kịch liệt, v́ con 
		đường phải băng qua nơi thờ phượng, chôn cất của những người đă khuất 
		của thổ dân. Bằng sức mạnh của ṇng súng, người Pháp dễ dàng dẹp tan sự 
		chống trả kịch liệt của họ. Tuy nhiên không phải dễ dàng để họ khuất 
		phục. Những công đoạn làm xong ban ngày, ban đêm thổ dân phá đi. Chuyện 
		cứ tái diễn nhiều lần, người Pháp quyết định áp dụng bàn tay sắt và canh 
		giữ nghiêm ngặt hơn vào ban đêm. Và dĩ nhiên, máu đă đổ xuống của cả hai 
		phía và hận thù ngày càng dâng cao. Trong lúc công tŕnh đang xây dựng, 
		nhiều việc kỳ bí đă xảy ra. Chiếc cầu không lớn lắm, bắt ngang ḍng sông 
		nhỏ trên con đường ấy phải xây đến lần thứ ba mới hoàn tất 
		 
		
		Kỳ 2 
		 
		
		Lần thứ nhất, một tai nạn khủng khiếp khi hai nhịp cầu nối liền với nhau 
		bị sụp xuống, dẫn đến cảnh người chết kẻ bị thương la liệt máu chảy lênh 
		láng khi một nhịp cầu đổ nghiêng, đè xuống hàng trăm người đang thi công. 
		Tiếng rên la thảm khốc. Và từ hôm đó, đêm nào nằm ngủ y cũng mơ thấy 
		những tiếng kêu cứu hăi hùng. Có khi là những tiếng hú từ cơi xa xăm 
		vọng về. 
		 
		
		Lần thứ hai, khi cầu sắp hoàn tất th́ mùa nước lũ kéo về, và như chưa 
		từng có trong lịch sử, cơn lũ cuốn phăng những chân cầu đang xây dựng và 
		cả những ǵ mà người Pháp đă xây dựng trong vùng. Thế là đoàn của y phải 
		làm lại hoàn toàn, từ đồ án thiết kế đến chi tiết thời gian xây dựng. 
		 
		
		Lần thứ ba, khi cây cầu hoàn tất, lẽ ra y được về Pháp nghỉ hè nhưng cơn 
		bệnh bất ngờ đă quật ngă y. Một căn bệnh quái lạ: ban ngày nóng bức 
		nhưng y run lên cầm cập; ngược lại, ban đêm khí lạnh từ núi rừng lan tỏa 
		vậy mà y lại tháo mồ hôi hột. Bác sĩ không t́m ra căn bệnh. Y nằm liệt 
		rất lâu, sức sống xuống đến mức cùng kiệt chỉ c̣n làn da bọc xương như 
		những kẻ nhịn đói hằng tháng trời. Đến nỗi về sau có một người thổ dân, 
		một bộ hạ của y tỏ ḷng thương hại mách nước rằng: y phải cúng giải 
		thiêng, mới thoát khỏi những tai ương, v́ y và những người khác đă san 
		phá những phần mộ và nơi chôn cất của những thổ dân.  
		 
		
		Những oan hồn đó đă vây lấy và quật y gục ngă. Khi đang trong cơn bệnh 
		chỉ nằm chờ chết y đành nghe theo. Và lạ thật sau khi cúng kính theo quy 
		tắc của thổ dân, người thầy cúng mà bộ hạ của y kiếm về từ một vùng khác, 
		đă cho y uống một thứ nước xanh lè, đậm đặc được chiết ra từ những loài 
		cây ǵ đó. Ông ta dặn y uống mỗi ngày bốn lần, mỗi lần gần 1/3 lít. Chỉ 
		hai ngày sau y dần dần khỏe lại. Y uống tiếp thứ nước ấy đến ngày thứ 
		bảy th́ bệnh t́nh như chấm dứt hẳn. 
		 
		
		Từ đó, y trở thành một con người c̣n ḷng tin vào đất trời, vào những 
		oan hồn đă khuất. Đó là lư do y ngại ngùng phá cây dầu đôi. Mà thực ra 
		mấy tuần trước y đă có ư định phá cây dầu đôi này. Y đă dùng một mũi 
		khoan lớn, khoan xuyên thân cây, từ bên này qua bên kia tạo nên một lỗ 
		hổng xuyên suốt. Đêm ấy y nằm mơ. Trong giấc mơ y thấy chân tay ḿnh như 
		bị cột tại gốc cây dầu đôi. Từng giọt mủ cây chảy ra chạy dài từ mắt y 
		trở xuống làm y không mở mắt được. Và chung quanh y những bóng ma đang 
		nhảy múa la hét liên hồi. Khi bật dậy cả người vă đầy mồ hôi trong một 
		tâm thần hỗn loạn. 
		 
		
		Mấy ngày nay y nằm thiêm thiếp như chờ chết. Cơn bệnh cũ từ Nam Phi tái 
		phát. Y run cầm cập ngay cả trong những ngày nắng quái, trong lúc miệng 
		khô khốc nứt nẻ. Mỗi đêm y đều nằm thấy những cơn mộng dữ. Y cho người 
		gọi ông Cố tôi tới kể cho ông nghe những giấc mơ hăi hùng. Y bảo trong 
		giấc mơ y thấy một người trung niên Á châu, râu quai nón dáng dấp bặm 
		trợn, nơi thắt lưng đeo một đoản kiếm. Ông ta bảo rằng: đây không phải 
		là nơi của y. Rồi bỗng nhiên ông ta nắm chuôi kiếm đưa về phía trước. Y 
		sợ hăi lùi về phía sau tay chụp khẩu súng ngắn. Nhưng tất cả đă muộn 
		màng. Lưỡi kiếm quét ngang mặt, nhưng y không cảm thấy đau đớn ǵ, mà 
		nghe một mùi tanh lợm giọng quét ra từ đoản kiếm và máu từ đầu kiếm tuôn 
		trào quét vào mặt y. Chẳng bị thương tích ǵ y chỉ bị ngộp thở khi làn 
		máu phun mạnh từ đoản kiếm quật vào mặt. Y cuối xuống van lạy. Người 
		trung niên đó bỏ đi không thèm quay lại. Giấc mơ ấy cứ hiện ra hằng đêm. 
		Thấy y kiệt quệ một cách đáng thương, ông Cố tôi gợi ư t́m một thầy cúng 
		trong vùng để cúng cho y. Y đồng ư.  
		 
		
		Ông tôi kiếm một thầy pháp nổi tiếng. Sau khi nghe kể hết sự t́nh. Ông 
		thầy pháp ngồi trầm ngâm suy nghĩ. Một hồi sau ông lên tiếng. "Tôi không 
		muốn chữa bệnh cho những kẻ xâm lược. Tuy nhiên theo ông nói hắn không 
		phải là một con người tàn ác. Tôi sẽ cố gắng. Nhưng tôi biết chắc một 
		điều: hắn c̣n giữ rất nhiều thứ thu vét được. Hắn phải trả lại hết. 
		Không phải trả cho tôi, cho ông, mà là gởi trả lại cho vùng đất này hay 
		một nơi nào đó mà hắn muốn. Ngày nào hắn chưa trả nợ đó vẫn c̣n đè nặng 
		trên vai, những oan hồn u uẩn vẫn c̣n bám víu theo. Hắn sẽ từ từ kiệt 
		quệ mà chết. Nếu muốn sống điều kiện duy nhất là phải thành thật, trả 
		lại tất cả và ra khỏi nới này với hai bàn tay trắng. Tôi sẽ trấn một lá 
		bùa. Hắn phải đem lá bùa này cất cùng chung với tài sản đang có. Cất ở 
		đâu tùy hắn. Và tài sản này măi măi không bao giờ hắn nên nghĩ tới. Ông 
		về nói lại như vậy khi nào hắn đồng ư th́ hăy t́m tới tôi." 
		 
		
		Ông Cố tôi thuật lại lời ông thầy pháp, trong khi viên kỹ sư nằm rên hừ 
		hự như một kẻ sắp rời khỏi trần gian. Nhưng đôi mắt chợt sáng lên, khi 
		nghe ông Cố tôi có nhắc đến những tài sản mà y thu vét từ bao lâu nay. 
		Nghe xong y gục xuống thiểu năo. Y gật đầu đồng ư. Chiều hôm đó, ông Cố 
		tôi lại đi t́m ông thầy pháp và báo tin. Ông ta bảo ông tôi chờ. Gần nửa 
		giờ sau ông đem ra một cái gói nhỏ màu vàng. Ông bảo trong đó có lá bùa. 
		Không ai được phép mở nó ra. Nếu không người mở ra sẽ mang nhiều bệnh 
		tật và tai ương, không chỉ một ḿnh mà cả một gia tộc của người đó cũng 
		phải gánh chịu. Ông dặn ông Cố tôi về giao cho viên kỹ sư người Pháp và 
		cho y biết như vậy.  
		 
		
		Trưa hôm sau viên kỹ sư Pháp lại kêu ông Cố tôi lên, miệng th́ thào: "Tôi 
		đă bỏ tất cả tài sản cùng lá bùa vào trong cái ống này". Y đưa cái ống 
		lên và lắc lắc. Ông Cố tôi nghe như có cái ǵ chuyển động trong cái ống. 
		Tiếng phát ra là từ những vật rắn chắc va chạm với cái ống đồng. Cái ống 
		tṛn, dạng như cái ống thổi lửa bằng tre của người nhà quê, dài khoảng 
		hai gang tay, đường kính khoảng hơn bốn xăng ti mét. Y nói rằng: tất cả 
		những tài sản mà y kiếm được tại Châu Phi và Đông Dương này, đều nằm 
		trong đó.  
		 
		
		Tuy nhiên bây giờ chúng không c̣n ư nghĩa ǵ cả. Y phải sống phải về lại 
		Pháp. Y không muốn cuộc đời tàn tạ chôn vùi nơi xứ sở khỉ ho c̣ gáy này. 
		Ông Cố tôi chỉ lặng im. Một hồi sau y cho biết: đó chỉ là những viên đá 
		nhỏ có màu. Một số có màu trăng trắng, số lớn c̣n lại có màu xanh lục và 
		hồng tía. Bên trong kèm theo lá bùa của ông thầy pháp, y c̣n viết những 
		ḍng chữ trên một trang giấy vàng xỉn, bỏ chung với số tài sản và lá bùa 
		vào trong cái ống đồng. Tối hôm đó người thầy pháp đến làm phép và cúng 
		cho y. 
		 
		
		Sáng sớm hôm sau, y cho gọi ông Cố tôi lên và bảo cùng đi ra chỗ cây dầu 
		đôi. Y đứng lên tự ḿnh di chuyển dù rất nặng nhọc. Rồi đích thân Y thắp 
		hương lầm bầm khấn nguyện. Trong lúc nh́n y ông Cố tôi chợt nh́n thân 
		cây dầu đôi đang rỉ mủ. Chỗ thủng mà y khoan hôm trước đă biến mất. Một 
		phần vỏ cây to bằng bàn tay, bịt lại bên ngoài thân có dấu đinh đóng 
		chặt. Một hàng mủ c̣n mới tinh nguyên đang rỉ xuống, như một con rắn cái 
		đuôi quấn vào bộng cây, cái đầu chúi mạnh xuống dưới. Y phóng tia nh́n 
		rất sắc sang ông Cố tôi, rồi nh́n chỗ mủ đang rỉ ra, im lặng. Bỗng nhiên 
		y quỳ xuống vái mọp, hai tay đặt hẳn lên mặt đất. Y xá ba xá, thành khẩn 
		như một người mộ đạo chân chính. Thật lạ lùng, ông Cố tôi nh́n thấy chỗ 
		mủ đang rỉ ra chợt ngưng ngang và nó rút trở lại như con rắn chui tuột 
		vào chỗ có dấu đinh đóng chặt. Ông dụi mắt như không tin vào những ǵ 
		ḿnh vừa nh́n thấy. Cái lỗ mà y khoan hôm nào, lành lặn trở lại thành 
		một đóm tṛn như cổ chai, sần ś như một cục u trên thân cây dầu đôi! 
		 
		
		Không bao lâu sau viên kỹ sư Pháp khỏi bệnh y trở về Pháp. Vài ngày sau 
		một viên sĩ quan người Pháp khác thay thế, đường xá hoàn thành xuống Nha 
		Trang, qua khỏi đèo Rù Ŕ, chạy dài ra đến đèo Rọ Tượng ở Ninh Ḥa, th́ 
		Cố tôi xin nghỉ việc. Tôi về, từ trên mây. Về một cách vội vă ở lại chỉ 
		trong ṿng một tuần. Sau khi nghe Ba tôi giao lại gia phả của ḍng họ 
		tôi đă đọc sơ qua. Tôi đă đến đă quan sát cây dầu đôi. Thấy có một cái 
		bướu lớn, chỗ cái bướu cao hơn đầu người, chứ không phải chỉ khoảng hơn 
		một thước như Cố tôi thuật lại.  
		 
		
		Không biết có phải cái bướu hiện giờ và cái bướu mà Cố tôi nhắc đến là 
		một? Tôi đă sờ lên vết sẹo của cây và thầm nhủ rằng: Cây đă mang những 
		vết sẹo đời để cho người sống sót. Tôi chụp vài tấm h́nh. Tôi lấy cận 
		ảnh cái bướu như một chút kỷ niệm. Rồi ṿng tay ra ôm lấy thân cây, như 
		ôm một thân t́nh đă xa cách rất lâu bây giờ mới gặp lại. Tôi áp tai ḿnh 
		vào lớp da sần sùi nghe như có tiếng rộn ràng di chuyển của nhựa sống. 
		Rồi từ giă cây dầu đôi như từ giă một người thân thiết mà biết chắc rằng: 
		phải lâu rất lâu tôi mới cơ hội trở về. 
		 
		
		Lạ lắm, khi tôi xuống Nha Trang rửa những tấm h́nh đă chụp. Không thấy 
		cái bướu đâu cả. H́nh tôi chụp cận ảnh cái bướu bây giờ lại thấy lớp vỏ 
		lành lặn và tương đối bằng phẳng chứ không gồ ghề nhô cao. Tôi quyết giữ 
		điều lạ này cho riêng ḿnh. Tuy nhiên gần đây dù ở xa nửa ṿng trái đất, 
		tôi có nghe tin người ta đang bàn thảo, bứng cây dầu đôi này trồng lại 
		một nơi khác, có thể gần thành Diên Khánh cũ, để giải phóng mặt bằng. 
		Tôi nghe một niềm đau dấy lên từ phế phủ. Tôi chỉ mới biết cây dầu đôi 
		sau chuyến trở về ấy, nhưng lại thấy cây như một người thân quen, với 
		thân vươn cao, tán lá bung ra như một chở che, rộng lượng.  
		 
		
		Với tôi cây dầu đôi đă chứng kiến nhiều xáo trộn của cuộc đời. Cây đứng 
		sừng sững như một chứng nhân của đất trời Diên Khánh, đă chứng đă nghe 
		bao cảnh đổi dời. Cây cũng đă buồn bă dơi theo bao trận chiến ác liệt 
		giữa quân Tây Sơn với quân Nguyễn Ánh. Cây cũng lắng nghe tiếng reo ḥ 
		vang dậy của nghĩa quân, dưới sự thống lănh của B́nh Tây đại tướng Trịnh 
		Phong, dùng thành Diên Khánh làm Tổng hành dinh để chống Pháp trong 
		phong trào Cần Vương, do vua Hàm Nghi khởi xướng. Cây cũng đă mưng mủ 
		lắng nghe tiếng ḷng của bao người dân nổi trôi theo vận nước. 
		 
		
		Tôi tự hỏi: Có cần không, cho chút mặt bằng, mà phế bỏ một chứng nhân im 
		lặng của lịch sử? 
		 
  
		
		Lời Nguyền Trên Đỉnh Đèo Rù Ŕ 
		 
		
		Tôi khom người xuống. Chiếc xe đạp đổ đèo mỗi lúc một nhanh. Đường vắng. 
		Đến gần khúc quẹo đầu tiên, tôi đạp nhẹ chân thắng phía sau vừa đủ để bẻ 
		một ṿng cua thật hách. Xe tiếp tục đổ nhanh, đợi gần đến miếu, tay bóp 
		thắng trước chân đạp thắng sau, nghe phựt, rồi phựt, bóp mạnh thắng tay, 
		gót chân phải đè xuống thắng chân phía sau. Tất cả đều nhẹ hều, chiếc xe 
		như một mũi tên bắn cứ lao nhanh về phía trước, tôi gập người xuống đến 
		mức tối đa, lạng xe qua khúc quành, chiếc xe vượt khỏi tầm kiểm soát của 
		tôi, lao thẳng giữa hai bệ chắn, mũi tên đă đạt tốc độ tối đa vút về 
		phía trước. Bên dưới là thung lũng đen ng̣m. Tôi bay, bay, bay... từ 
		trên cao độ gần năm mươi mét, so với mặt đường bên dưới chân đèo. Tôi 
		nhắm mắt, hét lớn. Vùng dậy... Cả người vă mồ hôi.  
		 
		
		Giấc mơ trở đi trở lại nhiều lần, làm cho tôi dù cố gắng quên đi lời 
		nguyền, nhưng không thể nào thoát khỏi. Vâng, đó là một lời nguyền hết 
		sức cay độc, từ xa xưa lắm đă được ông Cố tôi đích thân chôn xuống trên 
		đỉnh đèo Rù Ŕ.  
		
		  
		 
		 
		
		*** 
		 
		
		Ba Má tôi quyết định đưa gia đ́nh về sống tại một vùng thôn quê hẻo lánh 
		này từ đầu năm 1970. Từ đỉnh đèo Rù Ŕ nh́n về hướng đông bắc, một eo 
		biển nhỏ hiện giữa những đồi núi chập chùng. Eo biển đó là eo biển Lương 
		Sơn, trên đường ra Ninh Ḥa. Làng quê đó chính là làng Lương Sơn như mọi 
		người thường gọi. Đây là một làng nhỏ cách chân đèo Rù Ŕ khoảng ba km 
		và trung tâm thành phố Nha Trang chừng mười hai km. Lưng dựa vào núi mặt 
		nh́n về hướng biển, nên dân trong làng sống chủ yếu vào nương rẫy trên 
		núi và tôm cá ngoài biển khơi.  
		 
		
		Từ lúc hiểu được, tôi đă nghe đă biết về những tai nạn thảm khốc trên 
		đèo Rù Ŕ. Lên sáu, bảy tuổi, tôi đă nghe những lời than khóc buồn bă từ 
		thân nhân của những người mất bị tai nạn trên vùng đèo này. Lớn lên tí 
		xíu tôi đă chính mắt nh́n thấy những thân thể đầy máu sau những tai nạn 
		nơi đây. Khi tôi bắt đầu vào Trung học, mỗi ngày dắt xe đạp lên đèo, xổ 
		đèo, những h́nh ảnh đó luôn ám ảnh tôi. Tôi lo một nhưng ba má tôi lo 
		đến mười. 
		 
		
		Mỗi năm ít nhất một vụ tai nạn khủng khiếp xảy ra. Ngôi miếu nhỏ nằm 
		giữa lưng chừng đèo ở mặt Nam, luôn là nỗi ám ảnh mỗi khi một ḿnh dắt 
		xe đạp đi qua. Tôi sợ nên thường đi chung với các bạn. Hoặc khi đạp xe 
		đến tận chân đèo, nhưng chưa thấy ai thế là ngồi chờ. Chờ có người nào 
		đó cùng dắt xe lên đèo. Năm 1983 số tai nạn quá nhiều, mà hai tai nạn 
		thảm khốc, một vào giữa năm xảy ra ngay miếu thờ và một vào cuối năm 
		những ngày cận tết, bên kia dốc đèo tại hướng ngă ba: một đường lên 
		Thành và đường hướng kia về Nha Trang. Tai nạn này đă cướp đi mất một 
		người bạn mà tôi quen biết học trên tôi một lớp. Có lẽ nhiều tai nạn quá 
		khủng khiếp xảy ra liên tiếp, và chúng tôi cũng đă khôn lớn, Ba tôi, 
		quyết định kể một chuyện hệ trọng mà ông giấu từ lâu. Câu chuyện đó liên 
		quan đến ông Cố tôi và lời nguyền cay độc ngày xưa ấy. 
		 
		
		*** 
		 
		
		Ba tôi kể rằng, vào những năm đầu 1900's, người Pháp mở đường xá từ miền 
		Nam ra tận miền Trung. Mở ra rộng hơn tạo cho môt vóc dáng mới cho quốc 
		lộ một. Ông Cố tôi, là một người nhà quê giỏi chữ nho từ nhỏ, nhưng thi 
		nhiều lần không đỗ nên ông chỉ làm một ông giáo làng. Nhưng điều ngạc 
		nhiên là không biết ông học từ đâu, mà có thể đọc và hiểu được ít nhiều 
		tiếng Pháp. Và khi người Pháp vừa ép buộc vừa tuyển mộ khắp nơi để mở 
		đường, v́ kinh tế gia đ́nh ông cố tôi quyết định gác nghề dạy học và 
		tham gia đoàn người đi mở đường này. Thông thạo chữ nho và hiểu ít nhiều 
		tiếng Pháp ông được giao cho việc phụ sổ sách. Dần dần, tạo được tín 
		nhiệm với viên sĩ quan Pháp đứng đầu công tŕnh này, ông được giao phó 
		nhiều công việc quan trọng hơn. Cuối cùng ông được trọng dụng như là một 
		người giúp việc gần gũi và tín cẩn. 
		 
		
		Từ thành Diên Khánh đường được mở rộng xuống Nha Trang. Rồi từ Nha Trang 
		ra Ninh Ḥa. Nỗi vất vả của những người mở đường này là đoạn đèo Rù Ŕ. 
		Đường dốc quanh co. Không ít người đă bỏ ḿnh ở đó. Một hôm trong lúc 
		đang đào đất, những người phu đă phát hiện một hầm lớn bên chân đèo phía 
		Bắc. Khi ông Cố tôi đến, người ta phát hiện trong hầm này có nhiều lọ cổ. 
		Trong đó có một cái lọ lớn và mười cái lọ nhỏ hơn. Tất cả đều làm bằng 
		sành. Cái lọ lớn cao hơn nửa mét màu xanh lá cây đậm, dạng như cái trống 
		chính giữa ph́nh hai đầu hơi nhỏ lại.  
		 
		
		Trên mặt lọ có cái nắp đậy kín không một khe hở. Với kích cở và h́nh 
		dáng này, khi tôi c̣n nhỏ nghe mọi người gọi là cái thạp hay khạp. Xung 
		quanh thân lọ, nửa dưới là những hoa văn phần trên là những h́nh thù nửa 
		thú nửa người trông rất kỳ quái. Mười ba cái lọ c̣n lại cùng một kích cở 
		cao khoảng ba tấc. Dưới chân thật nhỏ rồi ph́nh ra lớn hơn khi lên cao. 
		Chỗ ph́nh cao nhất khoảng hai phần ba từ chân lọ. Phần trên cùng hơi túm 
		lại nhưng vẫn lớn hơn phần đáy. Lọ không có h́nh thù quái gở, nhưng 
		ngược lại là một màu đỏ sẫm trên khắc những hoa văn tỉ mỉ. Tất cả đều có 
		nắp đậy và dán kín.  
		 
		
		Không ai biết bên trong lọ có ǵ. Ông Cố tôi cho tŕnh lên viên sĩ quan 
		người Pháp. Lúc đó viên sĩ quan này đang trên đường từ Phan Thiết ra. Ba 
		ngày sau y mới được dịp chiêm ngưỡng những chiếc lọ cổ quái này. Tối hôm 
		đó vị sĩ quan cho người mở ra. Có hai người Việt Nam được chứng kiến, 
		người thông dịch và ông Cố tôi. Bắt đầu từ cái lọ nhỏ. Thoạt đầu không 
		làm sao mở được cái nắp lọ. Một chất keo đặt biệt đă dán kín không một 
		khe hở. Vị quan người Pháp được cố vấn là nên nung nó lên rồi mới mở, 
		nhưng cũng không thành công. Sau đó v́ nóng ḷng chiếc lọ bị đập bể trên 
		miệng.  
		 
		
		Bên trong chẳng có ǵ ngoại trừ một ít tro xam xám. Cái thứ hai cũng thế. 
		Cái thứ ba cũng thế. Viên sĩ quan Pháp ra hiệu ngừng. Đến lượt chiếc lọ 
		lớn, hai tay cầm hai đầu y giơ lên rồi rung nhè nhẹ. Bên trong dường như 
		có tiếng ǵ khua động nhẹ nhàng. Tuy nhiên cũng không cách nào mở được 
		nắp lọ. Vị quan Pháp cho dừng tay và sai thủ hạ t́m cách khoang miệng lọ. 
		Khi miệng lọ được mở ra, hai miếng da dày màu xám đen chồng lên nhau 
		cuốn tṛn lại. Ngoài ra không c̣n một thứ ǵ khác. Mọi người đều ngạc 
		nhiên nhất là viên sĩ quan Pháp. Ông cầm lên ngắm nghía rồi trải hai 
		miếng da thú lên bàn.  
		 
		
		Mỗi miếng da có chiều dài khoảng gần một thước, chiều ngang khoảng ba 
		tấc. Khó đoán biết được là da dê hay da trâu. Miếng da thứ nhất có nhiều 
		hàng chữ nhỏ dọc ngang. Miếng thứ hai vẽ những h́nh thù quái gở. Những 
		h́nh người nam cụt đầu những h́nh người nữ không lành lặn. Đằng sau 
		miếng da thứ hai như có dấu triện màu đỏ và bốn con số viết rời nhau. 
		Tất cả nh́n nhau im lặng. Viên quan Pháp hỏi ông Cố tôi về ư nghĩa của 
		hai tấm da này, v́ biết ông Cố tôi thạo chữ nho. Ông Cố tôi lắc đầu. Đó 
		không phải là tuồng chữ nho. Tuy nhiên trong ông bừng lên một ư nghĩ. Đó 
		là chữ của người Chăm Pa. Và ông tŕnh bày ư nghĩ của ḿnh. Muốn hiểu 
		phải t́m cho bằng được những người c̣n đọc được lối chữ cổ này. Và sau 
		đêm đó ông Cố tôi xuôi Nam mang một sứ mệnh quan trọng trong đời.  
		 
		
		***  
		 
		
		Những h́nh nhân kỳ dị không thể là những điềm lành. Biết nhưng vẫn phải 
		đi. Tôi và bốn người tùy tùng lên ngựa ngay sáng hôm sau ngược về hướng 
		Phan Rang. Một người mang chiếc bao dày trên lưng bên trong chứa hai 
		miếng da kỳ dị. Ba người c̣n lại mang lương thực. Tôi như một người 
		trưởng nhóm. Đi nhưng trong ḷng không chút hy vọng. Ngay ở ngày thứ hai 
		một chuyện lạ đă xảy ra. Người mang hai tấm da đột nhiên ngă quỵ sau khi 
		nghĩ trưa. Anh ôm bụng mặt mày tái ngắt. Một hồi sau anh ngưng thở. Sự 
		việc xảy ra quá nhanh mà không ai trong đoàn biết lư do tại sao và phải 
		làm ǵ. Chúng tôi chôn anh ta lại và chiếc bao được giao lại cho một 
		người khác trước khi tiếp tục lên đường.  
		 
		
		Chúng tôi đến Phan Rang vào một buổi chiều mưa buồn bă. Mưa ră rích suốt 
		đêm. Sáng hôm sau vào chợ gặng hỏi nhiều người. Hầu như ai cũng lắc đầu 
		không hiểu. Có người chỉ cho chúng tôi đi về những khu xa vắng khác ḍ 
		t́m. Chúng tôi đi xa hơn về phía Nam. Ḷng vẫn c̣n mang một chút hy vọng. 
		Qua nhiều ngày t́m kiếm hỏi thăm vô vọng, lại một việc kỳ lạ khác xảy ra. 
		Người mang hai miếng da đó bị tiêu chảy. Chúng tôi kiếm những người thầy 
		thuốc trong khu vực gần đó vẫn không chữa nỗi. Anh ta ra đi mà đôi mắt 
		c̣n trợn lên một màu trắng dă.  
		 
		
		Hai người c̣n lại không ai dám mang hai miếng da này. Ba chúng tôi đều 
		nghĩ, những chuyện xui xẻo chắc phải đến từ hai miếng da này. Tối hôm đó 
		cả ba nh́n chiếc bao đựng hai miếng da mà ngán ngẩm. Ai cũng mang trong 
		ḷng những ư nghĩ riêng tư nhưng không nói ra. Tôi quyết định mang hai 
		miếng da này dù ǵ ḿnh cũng là trưởng đoàn. Tôi khấn vái thiên địa 
		thánh thần cùng linh hồn những người đă khuất rằng: chúng tôi chỉ phụng 
		mệnh đi t́m ư nghĩa những ǵ ghi lại trên hai miêng da này mà thôi. 
		Chúng tôi không có một ư nghĩ ǵ xấu cả. Xin thiên địa thánh thần phù hộ 
		cho chúng tôi được b́nh an tai qua nạn khỏi mà trở về với gia đ́nh. 
		Chúng tôi sẽ cúng tạ trời đất khi an toàn trở về.  
		 
		
		Vẫn tiếp tục ḍ hỏi. Vẫn vô vọng. Lương thực cạn dần. Hy vọng đă lùi xa. 
		Chắc phải quay về. Về? làm sao ăn nói với viên sĩ quan? Sáng hôm cuối 
		cùng trước khi trở về chúng tôi chậm chạp trở ra con đường lớn. Bất ngờ 
		gặp một bà lăo, người khô khốc như một thanh củi đang ngược hướng chúng 
		tôi. Điều ngạc nhiên là khi bà cụ chận chúng tôi lại và hỏi rằng: có 
		phải chúng tôi từ xa đến và đang đi t́m một cái ǵ đó phải không? Tôi 
		thuật lại cho bà cụ nghe đầu đuôi câu chuyện. Bà nh́n cả ba rồi nh́n tôi 
		kỷ hơn. Sau đó bảo ba chúng tôi đi theo bà. Bà dẫn chúng tôi qua một 
		đoạn đường khá xa, dẫn tới một quả đồi nhỏ.  
		 
		
		Trên đồi là một nóc nhà cũ kỹ và có phần xiêu vẹo. Chúng tôi được bảo 
		ngồi chờ phía trước sân. Bà lăo đi ra sau th́ thầm chuyện ǵ đó với ai 
		khá lâu. Một lúc sau một người đàn ông già nhỏ thó, cḥm râu bạc trắng 
		dài ngang tận bụng đi lên. Ông cụ gọi chúng tôi ra sau, mời chúng tôi 
		ngồi xuống những ḥn đá được kê làm ghế dưới một tàn cây. Tôi tháo chiếc 
		bao lấy hai miếng da ra. Ông cụ nh́n ngang thất sắc. Một hồi sau định 
		thần ông cụ bắt đầu kể... 
		 
		
		Tôi cũng không biết chi tiết những ḍng chữ nhảy múa này. Ông chỉ vào 
		tấm da thứ nhất. Rồi tiếp. Nhưng ư nghĩa của nó và những h́nh thù trong 
		tấm da kia th́ tôi hiểu. Bộ tộc chúng tôi khi nh́n vào h́nh ảnh vẽ trên 
		miếng da đó, hiểu được người vẽ muốn nói ǵ. C̣n tấm da có viết chữ... 
		Ông lăo như nghẹn lời. Đôi mắt buồn hiu như muốn khóc. Trời đứng gió. Ai 
		nấy nhễ nhại mồ hôi. Nh́n xa xa những đồi cát như bốc lên từng đợt, từng 
		đợt lửa, muốn thiêu đốt cả một vùng rộng lớn. Ông già đưa tay quệt mồ 
		hôi rồi kể tiếp... 
		 
		
		Tôi là một đứa trẻ mồ côi. Tôi sống với Thầy tôi khi c̣n nhỏ lắm. Thầy 
		tôi không dạy tôi những chữ cổ này. Ông dạy tôi thứ chữ mới mà người ta 
		đang dùng bây giờ. Tôi học được nhiều điều ở thầy từ việc thờ phượng 
		cúng bái, đến việc ăn ở; từ chuyện lịch sử hưng thịnh đến sự suy vong 
		của Chăm Pa nói chung và của bộ tộc tôi nói riêng. Khi tôi khôn lớn thầy 
		bảo: nếu một mai ông mất hăy đem tất cả gia sản trong cái ḥm gỗ mà đốt 
		đi với ông. Tôi cúi đầu vâng dạ. Tôi cũng không hỏi Thầy là trong đó có 
		chứa đựng những ǵ.  
		 
		
		Chúng tôi ngồi im lặng, nhưng cảm nhận được dường như ông già đang nấc 
		lên theo từng hơi thở. Sau đó vài hôm Thầy tôi bảo: trong cái ḥm gỗ đó 
		không có tài sản ǵ quí giá về tiền bạc, nhưng nó chứa đựng mồ hôi nước 
		mắt và máu của ḍng họ ông. Đó là những bộ da thú ghi chép về gia phả 
		của Thầy. Một gia phả đẫm máu. Những người đi trước muốn ông phải trả 
		thù. Nhưng v́ biết ḿnh là hậu duệ cuối cùng và không làm được, nên ông 
		muốn đốt đi những tấm da thú ghi lại những máu và nước mắt ấy. Thầy tôi 
		dạy rằng: hơn hai trăm năm mươi năm trước giặc phương Bắc đă đánh vào 
		tận nơi này. Vua của chúng tôi v́ thế yếu đầu hàng và đồng ư dâng đất để 
		cầu ḥa. Trước khi rút lui nhiều phần thành quách bị đập phá.  
		 
		
		Những vị tướng lănh và thuộc hạ của họ dù đă quy hàng vẫn bị đưa lên 
		ngọn đầu đài. Chỉ riêng gia tộc ông có tất cả mười người bị chém cùng 
		một kiểu, một dao ĺa đầu. Người phương Bắc nói rằng: chém để làm gương! 
		Ngày mà họ bị đưa lên ngọn đầu đài là một ngày đen tối trong lịch sử 
		Chăm Pa. Sau đó, rất nhiều thanh niên bị bắt làm nô lệ. Nhiều phụ nữ bị 
		hành hạ bị bắt đi làm những kẻ hầu. Sử sách người Chăm Pa có ghi chép, 
		số người bị chết trong trận chiến bị chém sau khi quy hàng, bị bắt đi 
		làm nô lệ không dưới nửa vạn. Tiếng khóc than oán hờn dậy đất. Nước mắt 
		ông lăo trào ra theo từng lời kể, cùng với mồ hôi, chảy xuống thành từng 
		ḍng. Ba chúng tôi cũng không cầm được nước mắt.  
		 
		
		Trước khi sứ thần chính thức mang lệnh Vua dâng đất cho giặc phương Bắc, 
		vị Vua của chúng tôi đă cho người chuẩn bị rất kỷ càng. Vua sai người 
		viết một lời nguyền trên một tấm da thú. Tấm thứ hai vẽ lại những cảnh 
		chém đầu mà giặc phương Bắc gây nên cùng những cảnh phụ nữ bị làm làm nô 
		lệ. Đây chính là hai miếng da lịch sử mà thầy tôi kể lại vào những ngày 
		cuối đời. Người viết lời nguyền này là một vị pháp sư nổi tiếng cả nước 
		lúc bấy giờ. Thầy đă dạy rằng: tấm da thú ghi lại lời nguyền được chôn ở 
		một nơi hẻo lánh. Để xuôi về phương Nam người ta phải bước qua nó. Vị 
		Vua của chúng tôi hiểu rằng ḿnh đang trong thế yếu. Trước sau đất đai 
		này bá tánh này cũng sẽ rơi vào tay giặc. V́ thế lời nguyền có chủ ư 
		mong người phương Bắc đối đăi tử tế với bá tánh chúng tôi. Tôi không nhớ 
		chính xác từng chữ.  
		 
		
		Đại ư lời nguyền nói rằng: "mai này khi bất cứ ai vượt qua lời nguyền để 
		xuôi về Nam, người đó phải có một tấm ḷng rộng mở, phải sống tử tế với 
		người khác. Là dân thường, sau khi bước qua lời nguyền này mà ḷng của 
		họ c̣n mang những dă tâm, th́ chính bản thân hay người thân sẽ bị bao 
		nhiêu điều xấu xảy ra, có khi phải bỏ xác nơi đèo heo gió hút này. Là 
		quan, sau khi bước qua lời nguyền xuôi về Nam, th́ phải có một tấm ḷng 
		bao dung mới mong giữ được ḥa thuận trong bá tánh, mới giảm được máu và 
		nước mắt của dân t́nh. Nếu làm trái lại, ḍng họ hay bá tánh dưới sự cai 
		quản của người này phải gánh chịu những hậu quả trùng trùng. Là Vương, 
		sau khi bước qua lời nguyền này để xuôi Nam, ḷng Vương phải như trời 
		biển, thương dân như thương con, đối với kẻ cựu thù như đối với trăm họ 
		của chính ḿnh, cứu vớt những người cùng khổ bất chấp họ là ai; phải 
		mang lại cơm no áo ấm cho người người, th́ mới mong xă tắc vững bền, 
		giang san mới hưng thịnh. 
		 
		
		Ngược lại, là Vương mà ḷng dạ hiểm độc, coi bá tánh như ngọn cỏ xem kẻ 
		cựu thù như loài thú, trong ḷng chỉ nghĩ đến hận thù, th́ muôn đời lời 
		nguyền vẫn c̣n đó. Máu của bá tánh không bao giờ ngưng chảy. Máu sẽ chảy 
		dài từ nơi này đến bất cứ nơi nào mà có dấu chân của người hiểm độc đứng 
		đầu xă tắc đă bước qua. Và chính gia đ́nh hay hậu duệ của Vương phải 
		gánh lấy những điều tệ hại nhất... Trong bá tánh, ai có lỡ tay đào thấy 
		lời nguyền phải chôn ngay lại tức khắc, nếu khôn hậu quả sẽ không lường"... 
		Sau đó, nhà vua cho làm một buổi lễ tế thần linh. Trong buổi lễ đó, hai 
		tấm da được đặt vào trong cái lọ lớn. Vị Pháp sư cho rằng: phải có người 
		theo giữ lời nguyền này th́ lời nguyền mới măi được linh thiêng. Nhà vua 
		nghe theo và lựa chọn mười ba dũng sĩ dám hy sinh v́ bá tánh. Nhà Vua 
		bảo đảm bổng lộc cho gia đ́nh họ đến suốt đời.  
		 
		
		Hôm đó, trời nóng như thiêu đốt. Đến gần giữa ngọ khi vị pháp sư tụng 
		niệm những điều bí ẩn vừa chấm dứt, những hồi trống rền ră gióng lên, 
		mười ba dũng sĩ chuẩn bị bước lên giàn thiêu th́ gió ở đâu bỗng nổi lên 
		ào ạt. Cờ phướn bay phần phật như muôn ngàn âm binh đang lũ lượt kéo về. 
		Những hồi trống chấm dứt gió mới ngưng. Vạn vật như im lặng. Mười ba 
		dũng sĩ, từng người, từng người bước lên giàn thiêu. Đó đây tiếng thút 
		thít của các người thân cùng những người tham dự, nhỏ nước mắt cho những 
		người hy sinh v́ đại nghĩa. Khi họ bước lên giàn thiêu, cả mười ba người 
		cùng đứng trong thế tấn, nh́n xuống cả quảng trường rộng với một sự b́nh 
		thản lạ lùng.  
		 
		
		Một viên quan đọc những lời châu ngọc của Vua, ca tụng ḷng hy sinh của 
		họ cho bá tánh. Rồi lửa bốc lên, bốc lên. Tiếng khóc đó đây trong đám 
		đông càng lúc càng lớn. Lửa hận thù. Lửa hy sinh, Lửa cứu độ... Xác thân 
		c̣n lại của họ được bỏ trong mười ba cái lọ nhỏ. Lời nguyền cùng tro bụi 
		của mười ba người dũng sĩ, sau đó được chôn tại phía bắc của một ngọn 
		đèo. Sau đó Vua mới sai người mang lệnh Vua đi về phương Bắc, ḷng đau 
		đớn cắt đất tiền nhân dâng cho cường địch, để nhận lấy sự an b́nh trong 
		giai đoạn nhất thời... 
		 
		
		Ông già người Chăm, nước mắt rưng rưng sau khi kể xong: Những tranh 
		giành lịch sử, dù thành công hay thất bại, luôn luôn nhuốm máu của bá 
		tánh.  
		 
		
		*** 
		 
		
		Trong lúc ông Cố tôi măi mê đi t́m ư nghĩa của hai mảnh da đó, th́ viên 
		sĩ quan người Pháp, nhận được điện tín từ Pháp quốc cho biết vợ ông bịnh 
		nặng. Công việc chăm coi mở đường giao lại cho người sĩ quan mới. Khi 
		ông Cố tôi về tŕnh bày tường tận chuyến đi cùng những lời giải thích 
		của ông già người Chăm, viên sĩ quan mới lắc đầu. Trong đầu y nối kết 
		những tai họa vừa xảy ra và nhanh nhẩu bảo rằng y không muốn nh́n nó nữa. 
		Hăy chôn lại theo như lời ông già người Chăm đă nói. Ngay sáng hôm sau, 
		ông Cố tôi cho người chôn lời nguyền cùng mười ba cái lọ nhỏ trở xuống, 
		tại một nơi nào đó trên đỉnh đèo Rù Ŕ. Sau đó ông xin được nghỉ việc 
		trở về nhà, cúng tạ trời đất thần linh như đă hứa và tiếp tục công việc 
		của ông, công việc của một thầy giáo làng cho đến cuối đời. 
		 
		
		Sau khi biết được lời nguyền đó, tôi đi t́m những dấu tích lịch sử theo 
		lời ông già người Chăm đă kể. Tôi t́m được một chút đầu mối liên quan. 
		Sử sách cho biết, năm Mậu Tư 1648, khi Chúa Nguyễn Phúc Lan đột ngột qua 
		đời, Nguyễn Phúc Tần lên ngôi ở tuổi hai mươi chín, thường được gọi là 
		Hiền vương. Năm 1653, Hiền Vương sai quan cai cơ Hùng Lộc đem quân vượt 
		đèo vượt núi Thạch Bi, đèo Cả, đánh Chăm Pa. Lực lượng mạnh cộng thêm 
		yếu tố bất ngờ, Hùng Lộc đă đánh đến tận Phan Rang. Vua Chiêm đại bại 
		dâng thư xin hàng và cắt châu Kaut Hara của Chiêm Thành từ sông Phan 
		Rang ra đến Đèo Cả dâng cho.  
		 
		
		Chúa Nguyễn đặt dinh Thái Khang với hai phủ, năm huyện. Hai phủ là Thái 
		Khang và Diên Ninh. Năm huyện là Phước Điền, Ḥa Châu, Vĩnh Xương thuộc 
		phủ Diên Ninh; Tân Định, Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang. Hùng Lộc được 
		cử làm Thái Thú cai trị hai phủ, dinh đóng tại Thái Khang tức Ninh Ḥa 
		bây giờ. Đây cũng là thời điểm Chăm Pa nộp cống xưng thần với các chúa 
		Nguyễn. Tuy vậ, sự trả thù vẫn luôn luôn là một nỗi niềm thao thức của 
		các v́ vua Chăm Pa. Gần bốn mươi năm sau, năm 1692 Chúa Chăm tên Bà 
		Tranh, đă tấn công vào phủ Diên Ninh và dinh Thái Khang, nhằm chiếm lại 
		núi sông đă cắt dâng từ thuở trước. Cuộc tấn công này đă thất bại. Quân 
		Chăm bị tướng Nguyễn Hữu Cảnh đánh tan tác vào năm 1693. Chúa Nguyễn đổi 
		tên Chăm Pa thành Thuận Thành Trấn, sau đó đổi Thuận Thành Trấn thành 
		B́nh Thuận Phủ. 
		 
		
		***** 
		 
		
		Sau này tôi hỏi Ba: Vậy chứ lời nguyền ấy được ông Cố chôn tại địa điểm 
		nào trên đèo Rù Ŕ? Ba bảo rằng gia phả không ghi lại đích xác. Chỉ biết 
		trước khi ông Cố mất, có bảo chôn trên đỉnh đèo ngọn núi cao nhất ở phía 
		tây, dưới chân cây cổ thụ già cách đỉnh khoảng 15-20 thước.  
		 
		
		Thời gian đă bào ṃn tất cả. Bây giờ trên ngọn đèo Rù Ŕ không c̣n một 
		cây cổ thụ nào cả. Tuy vậy tôi không suy nghĩ nhiều về địa điểm chôn 
		giấu lời nguyền mà lại bị ám ảnh về một đoạn trong lời nguyền: "Là dân... 
		Là Quan... Là Vương...". Suy nghĩ lại tôi thấy lời nguyền không cay độc 
		như lần đầu ḿnh được nghe. Nó chỉ cay độc khi bất cứ ai sau khi vượt 
		qua nó xuôi về Nam, mà không sống tử tế với đời, với người. Bao nhiêu 
		năm rồi lời của ông già Chăm nói với ông Cố tôi được ghi lại trong gia 
		phả, luôn luôn đeo đuổi tôi: Những tranh giành lịch sử, dù thành công 
		hay thất bại luôn luôn nhuốm máu của bá tánh.  
		 
		
		Hy vọng, sau khi viết ra những ḍng chữ này, tôi sẽ thoát khỏi giấc mơ 
		hăi hùng đó và máu sẽ thôi chảy trên ngọn đèo Rù Ŕ này. 
  
		 
		
		Đoàn Nhă Văn    Nguồn: saigontimesusa  |