| 
 |  | 
 B́nh Định Và Vơ Thuật 
Con Gái B́nh Định
	
	
		- Đào Đức Chương  (Thếkỷ 21 No.109, May 1998)
		
 
		- Phụ nữ ở B́nh Định được học vơ đến nơi đến chốn để trở thành bậc cao thủ, 
	đem tài vơ nghệ làm nên lịch sử như nữ tướng Bùi Thị Xuân người đất Tây Sơn 
	cũ, quán làng Xuân Ḥa xă B́nh Phú quận B́nh Khê (nay là huyện Tây Sơn) th́ 
	xưa nay chưa có người thứ hai. Nhưng con gái B́nh Định được cha mẹ cho học 
	vơ pḥng thân, nhất là trước năm 1945, th́ hầu như cô gái nào cũng biết qua 
	hai môn vơ căn bản: 
 
		-  
 
		- Ai về B́nh Định mà coi,  
 
		- Con gái B́nh Định múa roi, đi quyền (Ca dao)
        
		
 
		-  
 
		- Tuy nhiên, đôi lúc cũng có những cô gái học vơ không chỉ để pḥng thân mà 
	muốn phát huy cái đẹp của vơ truyền thống như trường hợp Thanh Tùng, hoặc 
	c̣n đi xa hơn, thi thố với đời, trở thành cao thủ trong làng vơ. Điển h́nh 
	có bà Mân sống vào thời chúa Nguyễn, cô Quyền vào giữa thế kỷ 19 và sang đầu 
	thế kỷ 20 lại có Tám Cảng. 
 
		-  
 
		- Bà Mân chưa phải là nhân vật lịch sử nhưng với tài vơ nghệ, bà được dân 
	B́nh Định ca tụng qua bài vè Chú Lía dài 1434 câu thơ lục bát và được lưu 
	truyền khắp các tỉnh miền Nam Trung phần. 
 
		-  
 
		- Theo bài vè, bà Mân ở gần vùng Truông Mây, nơi sào huyệt của một đảng 
	cướp lớn do cha Hồ chú Nhẫn và sau có thêm chú Lía cầm đầu, nay thuộc xă Ân 
	Đức huyện Hoài Nhơn. Một hôm hai tên Hồ, Nhẫn đem cả lực lượng hùng hậu đến 
	bắt heo nhà bà, cả làng khiếp sợ không ai dám tiếp cứu:
		
 
		-  
 
		- Lân la bốn chục theo rày  
 
		- Thẳng đường xuống xóm chật đầy đường quan
         
		
 
		-  
 
		- Trong tay bà chỉ có cây roi ngắn nhưng với ḷng can đảm và tự tin, bà 
	xông ra cự địch với một đảng cướp mạnh khét tiếng trong vùng: 
		
 
		-  
 
		- Mụ Mân độ khoảng bốn hai  
 
		- Làu thông vơ nghệ ít ai sánh b́  
 
		- Th́nh ĺnh chưa biết việc chi  
 
		- Tiện tay mụ với tức th́ đoản côn
         
		
 
		- Bước ra thấy rơ thiệt hơn  
 
		- Mụ không thèm hỏi huơ côn đánh liền.
         
		
 
		-  
 
		- Ai cũng tưởng phen này bà Mân bị nát thây v́ hai tên Hồ, Nhẫn không những 
	vơ nghệ phi thường mà c̣n hung bạo chưa từng có. Nhưng không may cho chúng, 
	thế vơ của bà sâu hiểm vô cùng, áp đảo được ngay đối thủ: 
		
 
		-  
 
		- Cả ba vùng vẫy đua tranh  
 
		- Mụ Mân quả thực liệt oanh ai tày  
 
		-  
 
		- Chỉ mới so tài ở hiệp đầu mà bọn cướp đă bị ngọn roi thần của bà cuốn 
	người như băo táp, chúng phải đổi từ thế công sang thế thủ rồi t́m đường 
	tháo lui: 
 
		-  
 
		- Phút thôi Hồ, Nhẫn cả hai  
 
		- Đuối tay kéo chạy như bay khác nào!  
 
		-  
 
		- Thân đàn bà mà đánh đuổi bọn cướp đông đảo để bảo vệ tài sản là điều hiếm 
	có. Nhưng cũng tại huyện Hoài Nhơn c̣n một cô gái khác, trong tay chỉ có con 
	dao mà hai lần đánh thắng cọp để cứu mẹ, mới là chuyện phi thường. 
		
 
		-  
 
		- Trần Thị Quyền, cái tên do cha mẹ đặt gắn liền với vơ nghệ, âu đó là cái 
	nghiệp tiền định làm nên kỳ tích mà chính cô cũng không ngờ được. Nhà nghèo, 
	cha mất sớm, không có anh em, cô là người duy nhứt sớm hôm với người mẹ. Cô 
	có nhan sắc, nhiều người đến xin cưới nhưng nhất mực từ chối để làm tṛn chữ 
	hiếu. 
 
		- Thường ngày hai mẹ con vào núi chặt củi đem ra chợ bán kiếm tiền nuôi 
	thân. Một hôm cô Quyền đang chặt cây để cho mẹ gom thành bó, bỗng có một con 
	cọp nhảy ra vồ người mẹ, bà phải lăn người mới kịp né tránh. Cô Quyền đang 
	cầm cái rựa, thấy thế vội xông đến cứu mẹ. Nhờ có vơ nghệ và b́nh tĩnh, cô 
	tránh được tầm nanh vuốt của mănh thú và chém trả lại nhiều nhát chính xác, 
	cọp đau quá đành bỏ chạy. 
 
		-  
 
		- Câu chuyện đánh cọp tưởng đă lăng quên theo năm tháng, không ngờ cọp luôn 
	luôn ŕnh rập quyết báo thù. Một đêm bà mẹ có việc phải ra sân, như có linh 
	tính, cô Quyền cầm dao theo mẹ pḥng thú dữ. 
 
		-  
 
		- Th́nh ĺnh cọp nhảy bổ ra vồ hai mẹ con, cô vội kéo mẹ dạt sang một bên 
	để tránh rồi dùng dao chống trả. Cọp được lợi thế nhờ đêm tối, c̣n cô Quyền 
	cũng có lợi điểm đánh cọp nơi quang đăng, tiện bề công thủ. Hai bên quần 
	thảo với nhau, cọp vồ hụt nhiều lần đâm ra mệt trở nên hung dữ, liều lĩnh 
	lao tới, cô tràn bộ ( né tránh. Cọp đang tầm phóng chưa kịp xoay ḿnh lại, 
	nửa phần thân sau của nó là mục tiêu ngon lành cho mũi dao của cô cắm phập 
	vào hông cọp. Tuy bị thương nhưng cọp c̣n thừa sức quay đầu lại chồm lên, 
	chuyển hết thần lực vào hai chân trước để trả đ̣n. Lanh như chớp, cô Quyền 
	hoành bộ (2) rồi phóng mạnh lưỡi dao ngọt xớt vào lồng ngực nở nang của đối 
	thủ, trước khi nhảy trái tránh cú vồ sinh tử. Khi dân làng đèn đuốc kéo đến 
	tiếp cứu, con cọp to lớn chỉ c̣n là một cái xác giăy giụa trên vũng máu. 
		
 
		-  
 
		- Nếu bà Mân tên tuổi sống măi trong văn học dân gian, chuyện cô Quyền giết 
	cọp được truyền tụng trong làng vơ của tỉnh nhà th́ trường hợp của bà Tám 
	Cảng là một bài học đáng suy ngẫm. 
 
		-  
 
		- Ông Hương mục Ngạc, kế tổ của phái quyền An Vinh mà phương ngôn đă có câu 
	truyền tụng "Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh" có ba người con: Bảy Lụt là 
	trai trưởng, kế là Tám Cảng và út nam là Chín Giác. Tuy là gái nhưng Tám 
	Cảng có sức mạnh hơn người và ham mê vơ thuật nên được cha cưng chiều truyền 
	dạy chu đáo. Tiếng đồn con gái ông Hương mục Ngạc mới 18 tuổi, trong tay chỉ 
	có cây đ̣n gánh mà đánh bạt cả hàng trăm thanh niên cầm gậy bủa vây tại sân 
	chùa Bà An Thái trong ngày lễ hội Đổ Giàn càng làm thiên hạ phục sát đất ḷ 
	vơ của ông Hương mục Ngạc nhưng đồng thời càng không ai dám tính chuyện trăm 
	năm với cô. Năm Tám Cảng 20 tuổi vẫn chưa được nơi nào dạm hỏi dù rất có 
	nhan sắc. Ông Hương mục Ngạc thông cảm nỗi khổ tâm của con, tuyên bố với mọi 
	người rằng nếu ai đánh bại được Tám Cảng th́ ông sẽ gả con gái cho mà không 
	đ̣i hỏi một lễ vật ǵ. Có ba người đến xin đấu vơ với Tám Cảng. Người thứ 
	nhất bị Tám Cảng cho một cú đá văng vào hàng rào. Người thứ hai, vơ nghệ khá 
	hơn, kịt ngựa (3) nhanh nhẹn, công thủ song hành nên cầm cự được hiệp đầu, 
	sang đến hiệp thứ hai th́ bị Tám Cảng dùng ngón gia truyền ép vào bể cạn, 
	đánh gục. Người thứ ba là Dư Hựu (không phải tên Hựu, quân sư trong đảng 
	cướp của Dư Đành) bị Tám Cảng đạp nhào vào hồ cá, đành bỏ ra về tầm sư học 
	đạo. Một năm sau lại đến xin đấu, lần này Tám Cảng tung cước bị Dư Hựu tóm 
	được chân, ném trả vào hồ cá. 
 
		-  
 
		- Dư Hựu thắng. Giữ lời hứa, ông Hương mục Ngạc làm lễ vui qui cho con gái. 
	Năm ấy Tám Cảng 22 tuổi. Nhưng cũng chỉ sống chung với nhau được ba năm. Một 
	hôm vợ chồng lời qua tiếng lại, Tám Cảng quen thói bướng bỉnh, trả lời khinh 
	khỉnh làm Dư Hựu điên tiết. Anh thuận tay chụp cái b́nh hoa chưng trên sập 
	gụ ném mạnh vào mặt vợ. Nếu là người khác th́ đă nát mặt, nhưng Tám Cảng nhẹ 
	nhàng đưa tay bắt lấy đem đặt trên bàn và mỉa mai: "B́nh xưa mà làm ngơ 
	không bắt, để bể cũng uổng." Dư Hựu càng giận, với lấy cái chày đâm tiêu 
	bằng đá ném mạnh vào đầu vợ. Tám Cảng cũng đưa tay chụp cười gằn giọng châm 
	chọc: "Cái đầu mà quáng mắt lầm cái cối đâm tiêu hả?" Dư Hựu giận lắm, mất 
	hết trí khôn, chụp con dao phay, bằng thế vơ rất lợi hại, phóng thẳng vào 
	ngực vợ. Đường dao quá mạnh, Tám Cảng không thể chụp được, đành phải té ngửa 
	để tránh. Con dao ngon trớn cắm phập vào vách đất ngập đến cán. Dư Hựu sực 
	tỉnh th́ mọi việc đă xảy ra rồi, suưt nữa gây nên án mạng. Tám Cảng lồm cồm 
	ngồi dậy, c̣n Dư Hựu bỏ chạy một mạch đến nhà cha vợ. Gặp ông Hương mục 
	Ngạc, anh ta sụp lạy kể lại đầu đuôi câu chuyện và nhất quyết xin trả Tám 
	Cảng mà không đ̣i hỏi một điều kiện nào. 
		
 
		-  
 
		- Chuyện Dư Hựu trả vợ nhanh chóng lan truyền khắp vùng. Nhân đó câu ca dao 
	trên được sửa lại: 
 
		-  
 
		- Ai về B́nh Định mà coi  
 
		- Con gái B́nh Định cầm roi rượt chồng
         
		
 
		-  
 
		- Các bậc phụ huynh ở B́nh Định rút kinh nghiệm, thôi không dám chiều ư con 
	gái cho học nhiều vơ nghệ nữa, sợ bị ế chồng như Tám Cảng. Họ chỉ luyện con 
	gái vài thế vơ thủ thân, thế cũng đủ cho 
		
 
		- đối phương kinh hồn rồi. Sau đây là một trong hàng trăm chuyện về phản 
	ứng tự vệ của các cô gái B́nh Định. 
 
		- Ai đến Tuy Phước cũng biết câu ca dao về các phiên chợ trong quận: "Chợ 
	Huyện liệng Cây Gia, Cây Gia xa chợ Mới, chợ Mới tới chợ Dinh, chợ Dinh rinh 
	Bồ Đề, Bồ Đề kề chợ Huyện." Phiên Huyện nhằm các ngày 1, 6, 11, 16, 21, 26 
	âm lịch, là phiên chợ lớn nhất của huyện nhà nhưng lại cách thị trấn Tuy 
	Phước hơn ba cây số. 
 
		- Ngày phiên, không những dân trong vùng tập trung về mà c̣n đủ mặt dân 
	buôn từ xa đến mua gom sản phẩm địa phương và bán hàng hóa ở nơi khác mang 
	tới. Con đường quốc lộ 1 từ huyện lỵ đến chợ Huyện người mua kẻ bán đi lại 
	tấp nập có cả những chàng trai đi dạo chợ để t́m ư trung nhân: 
		
 
		-  
 
		- Trai khôn t́m vợ chợ đông  
 
		- Gái khôn t́m chồng giữa chốn ba quân.  
 
		- (Ca dao) 
 
		-  
 
		- Tuy nhiên cũng có kẻ lợi dụng đám đông để giở tṛ xằng bậy. Từ sáng, tại 
	cổng Lư Môn có hai thanh niên ăn mặc chải chuốt, cười nói rổn rảng, chốc 
	chốc lại trông ra đường. Nh́n dáng điệu biết ngay là dân ăn chơi từ tỉnh 
	thành lạc đến. Trong ḍng người từ chợ về, có một thanh nữ cao lớn, bước đi 
	chậm chạp, hai tay xách hai giỏ nặng đầy ắp thức ăn. Đợi cho cô gái rẽ vào 
	con đường đất dẫn vào cổng làng, hai "công tử" bước tới đón đàng, buông lời 
	chọc ghẹo và giở tṛ sàm sỡ. Nhanh như chớp, cô gái buông hai giỏ thức ăn, 
	xoay nghiêng né tránh tầm tay của kẻ vô hạnh đang sấn tới ngực, rồi đưa tay 
	đánh phất qua một chiêu. Bị phản ứng bất ngờ, một trong hai tên né sang bên 
	nhưng hắn đă lầm v́ đó là hư chiêu. Cô gái thấy hắn trúng kế, thuận chân 
	tung cước trúng thẳng vào hông làm hắn lăn xống ruộng, bùn bê bết từ đầu đến 
	chân. Tên thứ hai mất tinh thần nhưng trước đám đông hắn tự ái liều mạng 
	xông tới. Cô gái trong tư thế đứng ngựa (4), đón hắn bằng ngón vơ gia 
	truyền, chiếc khăn quàng cho ấm cổ trở thành roi nhuyễn tiên quất mạnh vào 
	mặt đối thủ làm hắn không kịp tránh cú đá song phi, lảo đảo cắm đầu xuống 
	ruộng. 
 
		-  
 
		- Thanh nữ ấy là con gái út nhà họ Đào, quan Trung nghị Đại phu Quang lộc 
	Tự khanh người làng Vinh Thạnh, nay bà đă giữa tuổi thất tuần thường kể lại 
	câu chuyện năm xưa lúc bà chưa lập gia đ́nh. Và ngón vơ pḥng thân ấy do ông 
	cậu Năm Hương ở thôn Dương An nay thuộc xă Phước An huyện Tuy Phước truyền 
	dạy cho bà lúc tuổi trăng tṛn. 
 
		-  
 
		- Vào đầu thập niên một chín bảy mươi, một ngôi sao lóe sáng trên ṿm trời 
	Vơ học B́nh Định: nữ vơ sĩ Thanh Tùng của miền sông Côn. Cô được phong vơ sĩ 
	và được làng báo Sài G̣n tặng biệt danh "Hổ Cái Miền Trung" không phải v́ cô 
	đă thắng trên vơ đài hoặc đă từng tranh tài cao thấp với ai; người ta chỉ 
	thấy Thanh Tùng ở điện thờ Quang Trung trong ngày hội Đống Đa biểu diễn các 
	bài quyền như Lăo Mai Độc Thọ hay bài roi như Tấn Nhất Ô Du với thế thủ như 
	cản gió che mưa và thế công dồn dập như băo táp là đă đủ khiếp. 
		
 
		-  
 
		- Xét cho cùng, điều ấy là lẽ dĩ nhiên. Thanh Tùng là con nhà vơ, đời đời 
	nối nghiệp và thừa hưởng các ngón bí truyền của một ḍng họ cao thủ. Ông nội 
	của Thanh Tùng là một tay roi quỉ khiếp thần kinh, người đồng thời và xứng 
	tài với Hồ Ngạnh (1891 - 1976, kế tổ của phái roi Thuận Truyền). Thân sinh 
	cô vẫn nối nghiệp nhà, giữ vai tṛ đứng đầu hàng vơ tại địa phương. Rồi đến 
	Thanh Tùng, tuy là gái, cô vẫn tiếp nối thừa hưởng tinh hoa của con nhà vơ. 
	Nhưng với bản chất kín đáo và nhũn nhặn, Thanh Tùng ngoan hiền về nhà chồng 
	như bao cô gái B́nh Định khác, ngày ngày chăm chỉ bên chiếc máy may, nhỏ nhẹ 
	với khách hàng. Trông dáng dấp liễu yếu đào tơ, không ai thấy ở Thanh Tùng 
	một dấu vết ǵ về vơ nghệ, một thời nổi tiếng biểu diễn quyền roi. Chớ lầm! 
	Khi cần tự vệ, "con người vơ" của Thanh Tùng nổi dậy. Đôi mắt hiền lành sẽ 
	rực sáng như gươm bén và đôi tay mềm mại sẽ biến thành thanh sắt. 
		
 
		-  
 
		- Nhưng trên hết, người đàn bà B́nh Định đáng nói hơn cả là nữ tướng Bùi 
	Thị Xuân. Vơ nghệ của bà vào bậc siêu phàm, ngang tài với các danh tướng mày 
	râu của Tây Sơn như Nguyễn Huệ sở trường về roi, Nguyễn Lữ sáng chế và xuất 
	sắc môn Hùng kê quyền, Vơ Văn Dũng giỏi về đao, Đặng Văn Long quán thông cả 
	cương quyền và miên quyền, c̣n Bùi Thị Xuân không ai sánh kịp về độc kiếm và 
	song kiếm. Tài thao lược, bà xứng là đấng nữ kiệt. Gương dũng cảm, bà đáng 
	bậc anh thư làm cho Nguyễn Ánh khiếp sợ và căm tức. C̣n đức độ của bà, không 
	những trong hàng ngũ Tây Sơn mến phục mà ngay cả kẻ thù cũng thầm kính nể.
		
 
		-  
 
		- Bà Bùi Thị Xuân có họ hàng với vua Quang Toản, nhưng về thứ bậc gia tộc 
	lại có nhiều sách chép khác nhau: Theo tài liệu của Vương Bích Thu, viết 
	trong giai phẩm Tây Sơn Xuân Quí Dậu (1993), trang 148, Bùi Thị Xuân là chị 
	ruột của quan Thái sư Bùi Đắc Tuyên và là con của Bùi Đắc Kế. C̣n bà chánh 
	cung Hoàng Hậu họ Phạm sinh ra Nguyễn Quang Toản theo Việt sử Tân biên của 
	Phạm Văn Sơn, quyển 4, trang 204, bà này là con của Bùi Đắc Tuyên, không rơ 
	là em cùng mẹ khác cha hay anh em thúc bá bên ngoại? Nếu vậy vua Nguyễn 
	Quang Toản gọi Bùi Đắc Tuyên bằng cậu và Bùi Thị Xuân bằng d́. Nhưng theo 
	sách "Những v́ sao đất nước" (truyện danh nhân lịch sử của nhiều tác giả) 
	tập 5, trang 204, Quỳnh Cư chép "Bùi Đắc Tuyên là anh cùng cha khác mẹ với 
	vua Cảnh Thịnh (?), là cậu Bùi Thị Xuân." 
 
		-  
 
		- Nữ kiệt Bùi Thị Xuân có bốn lần đối đầu với Nguyễn Ánh sau là vua Gia 
	Long. Lần thứ nhất vào mùa hạ năm 1797, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, bản 
	dịch, tập 2, trang 261 có chép, tóm lược như sau:
		
 
		-  
 
		- Nguyễn Ánh đem binh thuyền đánh Thị Nại, rồi đích thân đem hơn 100 chiếc 
	thuyền ra đánh cửa Đà Nẵng nhưng v́ Trương Phúc Luật không tiếp tế thuyền 
	lương thực kịp thời v́ bị gió ngược, trong quân chỉ c̣n năm ngày lương nên 
	vua tạm đem quân về Gia Định và cố nhiên không thể lấy mạnh yếu mà luận. Đó 
	là lời biện bạch của sứ thần nhà Nguyễn, nhưng theo Quỳnh Cư th́ ban đầu 
	Nguyễn Ánh định đem quân đánh Thị Nại, nhân lúc triều đ́nh Phú Xuân chia rẽ 
	nội bộ (phe Bùi Đắc Tuyên bị phe Vơ Văn Dũng sát hại) nắm bắt thời cơ, đích 
	thân ông đem binh thuyền ra đánh Đà Nẵng, nơi Bùi Thị Xuân đang trấn nhậm, 
	với ư định phá tan căn cứ quan trọng nằm sát nách kinh đô Phú Xuân. Nhưng 
	đội thám mă Tây Sơn từ Bản Tân (5) đă kịp thời báo về Tổng hành dinh của bà 
	về cuộc hành quân bất thần của Nguyễn Ánh. Nhân có chiếu chỉ của vua Cảnh 
	Thịnh hối thúc bà hồi triều để dàn xếp nội bộ, tương kế tựu kế, Bùi Thị Xuân 
	phao tin ba ngày nữa sẽ kéo đại binh về Phú Xuân, cốt làm kiêu ḷng giặc. 
	Quân Nguyễn hăm hở tiến tới thành Quảng Nam nhưng đă bị 5000 quân của Bùi 
	Thị Xuân phục đánh đúng chỗ. Trận ấy, may cho Nguyễn Ánh đi đoạn hậu nên 
	thoát chết. Thua cả tài lẫn trí đàn bà, Nguyễn Ánh vừa thẹn vừa tức, thu tàn 
	quân về Gia Định, giấu nhẹm việc bại trận, nại cớ hết lương phải rút quân.
		
 
		-  
 
		- Lần thứ hai Nguyễn Ánh đụng độ với Bùi Thị Xuân tại mặt trận Trấn Ninh 
	(6). Theo hai bộ chính sử của Trần Trọng Kim và Phạm Văn Sơn, quân Tây Sơn 
	cả thủy bộ gồm ba vạn, chia làm ba đạo tấn công.
		
 
		-  
 
		- Tháng 12 năm Tân Dậu (tháng 1-1802) quân Tây Sơn vượt sông Linh Giang 
	(sông Gianh), lực lượng tiền phương quân Nguyễn đang đóng ở đây do các Tướng 
	Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường chỉ huy, phải lui 
	binh về Đồng Hới. Được tin cấp báo, Nguyễn Ánh thân chinh đem cả đại binh ra 
	tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường giữ mặt bộ, giao Nguyễn Văn 
	Trương giữ mặt biển. 
 
		- Ngày mùng Một tết Nhâm Tuất (3-2-1802) Nguyễn Quang Thùy tiến đánh lũy 
	Trấn Ninh bị hỏa lực của quân Nguyễn cầm chân lại. Bùi Thị Xuân lănh chức 
	Đại tướng đem 5000 quân bản bộ tấn công lũy Đồng Hới, địch quân bắn ra như 
	cát văi nhưng cờ lệnh của bà vẫn chúc hẳn xuống, dấu hiệu quyết chiến không 
	lùi. Đang chiến đấu anh dũng, vua Cảnh Thịnh ra lệnh lui binh, bà không 
	chịu, vua phải nghe theo. Suốt ngày hôm ấy bà ngồi trên bành voi xông xáo 
	trận tiền đôn đốc binh sĩ; tuy thế trận chưa nghiêng hẳn bên nào nhưng 
	Nguyễn Ánh đă núng thế, định tháo lui. 
 
		-  
 
		- Bỗng nghe tin thủy quân Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ bị Nguyễn Văn Trương phá 
	tan lại thêm tướng Nguyễn Văn Kiên ra hàng địch làm cho vua Cảnh Thịnh và 
	các tướng tá nản ḷng. Trước t́nh thế ấy bà vẫn quyết chiến, sai một đội 
	quân đến điền khuyết bọn làm phản rồi giành lấy dùi trống thúc quân liên 
	hồi. Được lệnh xung phong quân của bà ào ạt trèo tường chiếm thành. Thế trận 
	này nếu kéo dài thêm hai tiếng đồng hồ nữa, bà hạ được thành Trấn Ninh rồi, 
	Nguyễn Ánh và tướng tá hoảng hốt liền sai thủy quân liều chết vượt sông đánh 
	bọc hậu để chia lực lượng, ḥng giảm bớt mũi nhọn tấn công của Tây Sơn, ngơ 
	hầu mở đường máu thoát thân. Nhưng Nguyễn Quang Thùy nhát gan, thấy thủy 
	quân của Nguyễn Ánh ở mặt sau đánh tới, sợ bị vây, vội rút quân. Một lúc sau 
	Bùi Thị Xuân mới biết trên mặt trận chỉ c̣n quân dưới quyền bà đang đơn độc 
	chiến đấu, các cánh quân khác đă hỗn loạn tháo chạy. Bà vẫn b́nh tĩnh giữ 
	vững hàng ngũ, bảo vệ vua Cảnh Thịnh rút lui an toàn. 
		
 
		- Lần thứ ba, Nguyễn Ánh đối diện với Bùi Thị Xuân khi bà cùng gia đ́nh bị 
	quân Nguyễn bắt ở huyện Thanh Chương, Nghệ An và giải về Phú Xuân. Sự kiện 
	này có nhiều sách kể lại nhưng chi tiết lại khác nhau đôi chút. Nếu theo hai 
	tài liệu của Vương Bích Thu và Quách Giao viết trong Giai phẩm Tây Sơn Xuân 
	Quí Dậu (1993) và Xuân Ất Hợi (1995) th́ lời đối đáp giữa Nguyễn Ánh và Bùi 
	Thị Xuân như sau: 
 
		- Khi quân hầu dẫn Bùi Thị Xuân vào, Nguyễn Ánh với giọng tự đắc hỏi: 
		
 
		-  
 
		- "Ta và Nguyễn Huệ, ai hơn?"  
 
		- Bùi Thị Xuân ung dung đáp:  
 
		-  
 
		- "Nói về tài ba, tiên đế ta bách chiến bách thắng, hai bàn tay trắng dựng 
	nên cơ đồ. C̣n nhà ngươi bị đánh phải trốn chui trốn nhủi, phải cầu viện 
	ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp. Chỗ hơn kém như ao trời nước vũng. C̣n về đức 
	độ, tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế như đă 
	đối với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. C̣n nhà ngươi lại dùng tâm của kẻ 
	tiểu nhân mà đối với những bậc nghĩa liệt đă hết ḷng v́ chúa, chẳng nghĩ 
	rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người khác, tức là khuyến 
	khích tôi ḿnh trung với ḿnh. Chỗ hơn kém cũng rơ ràng ban ngày và đêm tối. 
	Nếu tiên đế ta đừng thừa vong sớm, dễ ǵ nhà ngươi trở lại đất nước này."
		
 
		-  
 
		- Nguyễn Ánh cười gằn: 
 
		-  
 
		- "Nhà ngươi có tài sao không giữ ngai vàng cho Cảnh Thịnh?" 
		
 
		-  
 
		- Bùi Thị Xuân đáp: 
 
		-  
 
		- "Nếu có thêm một nhi nữ như ta th́ cửa Nhật Lệ không dễ ǵ mà lạnh. Cửa 
	Nhật Lệ không dễ lạnh th́ nhà ngươi cũng khó đặt chân lên đất Bắc Hà." 
		
 
		-  
 
		- Nguyễn Ánh nén giận hỏi với giọng mỉa mai: 
		
 
		-  
 
		- "Ngươi có muốn ta ân xá không?" 
 
		-  
 
		- Bùi Thị Xuân đáp: 
 
		-  
 
		- "Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ ḿnh trước một kẻ tiểu nhân đắc 
	thế!" 
 
		-  
 
		- Nguyễn Ánh căm gan, dằn từng tiếng: 
		
 
		-  
 
		- "Không chịu nhục. Ta sẽ làm cho ngươi biết nhục..." 
		
 
		-  
 
		- Lần thứ tư, vua Gia Long lại đối đầu với bà Bùi Thị Xuân tại pháp trường.
		
 
		-  
 
		- Trước đó, Nguyễn Ánh gặp Bùi Thị Xuân ba lần đều lănh ba vố thua đau. Lần 
	một, đấu trí thua tài, lần hai đấu lực thua dũng, lần ba đấu khẩu thua lư. 
	V́ thế, sau Quang Toản, Bùi Thị Xuân là kẻ thù số một của Gia Long, nhà vua 
	dành cho gia đ́nh bà cực h́nh thảm khốc nhất và đích thân chứng kiến cuộc 
	hành quyết này. Gia Long hả hê nghĩ rằng phen này bà phải chịu đau đớn tột 
	cùng về thể xác lẫn tinh thần, dù có gan đồng da sắt cũng không thể cầm được 
	nước mắt. Thế nhưng Gia Long lại một lần nữa thua cuộc. 
		
 
		-  
 
		- Theo tài liệu của Giáo sĩ De la Bissachère viết năm 1807 (7) do một người 
	thân tín đă chứng kiến rồi tường thuật lại, tại pháp trường hôm ấy, dân 
	chúng khắp kinh thành Phú Xuân được huy động đến xem đông nghẹt. Trên khán 
	đài các quan và khách ngoại quốc đă tề tựu đông đủ, khi kiệu nhà vua đến 
	nhiều phát đại bác nổ vang làm tăng thêm uy nghi của ngày lễ hiến phù. Kế 
	bên khán đài là cḥi phát thanh cao lêu nghêu vang lên bài chiếu của Gia 
	Long, nghe câu được câu không: 
 
		-  
 
		- "V́ chín đời mà trả thù... Chợt nửa chừng gặp lúc gian truân, để ngoan 
	dân gây nên biến loạn... Chống giặc bắt xong tội nhân được hết... Yết tế 
	thái miếu, làm lễ hiến phù... Phanh xác tán xương, trả thù miếu xă, rửa hận 
	thần dân..." (8) 
 
		-  
 
		- Tiếng loa vừa dứt, một hồi thanh la vang lên báo hiệu giờ phút thi hành 
	án bắt đầu. Hàng vạn người như nín thở, mắt đăm đăm nh́n mẹ con bà Bùi Thị 
	Xuân, không khí nghiêm trọng bao trùm cả pháp trường. Từ xa, một thớt voi to 
	lớn, đen đủi, lù lù tiến tới tử tù theo lệnh của quản tượng. Cô con gái của 
	bà mới 18 tuổi xuân, bị lột hết quần áo đang co ro trong thân thể tiều tụy, 
	bỗng nàng hét lên thất thanh rồi toàn thân biến sắc trắng bệch như một bóng 
	ma, quay lại cầu cứu mẹ. 
 
		-  
 
		- Bà Bùi Thị Xuân nén xúc động, nghiêm nét mặt nói với con lần cuối: "Con 
	gái của mẹ, con không được làm thế, phải chết anh dũng để xứng đáng là con 
	nhà tướng Tây Sơn. Mẹ đây c̣n làm thế nào cứu con được!" 
		
 
		- Con voi hung hăn dùng ṿi quấn chặt cô gái, đu đưa lấy trớn tung mạnh nạn 
	nhân lên cao rồi nhảy bổ lên dùng ngà hứng lấy và lại tung lên lần nữa, cao 
	hơn lần trước. Lần này cô gái rơi xuống đất chỉ c̣n là một cái xác mềm nhũn 
	bê bết máu. Bây giờ voi dùng chân trước chà đạp lên xác nạn nhân cho đến khi 
	nát bấy thành đống bùn màu đỏ. 
 
		-  
 
		- Đến lượt Bùi Thị Xuân, bọn đao phủ mới phát hiện trong lớp áo quần bà đă 
	quấn chặt thân thể bằng lụa để tránh sự lơa lồ khi bị voi giày. Chúng định 
	tháo gỡ nhưng không kịp nữa rồi v́ con voi đang hăng máu xồng xộc chạy tới 
	toan làm phận sự như lần trước. Bà vẫn đứng b́nh thản, nét mặt không hề biến 
	sắc, đợi voi đến gần bỗng thét lên một tiếng thật lớn, nhái theo khẩu lệnh 
	dùng để nạt những con voi bướng bỉnh. Voi giật ḿnh lùi bước rồi cong ṿi 
	quay đầu lại. 
 
		-  
 
		- Một sự kiện bất ngờ! Dân chúng lại càng thán phục người nữ tướng Tây Sơn 
	trước cái chết vẫn c̣n biết tiên liệu và vẫn c̣n oai quyền khiến voi dữ cũng 
	phải khiếp sợ. Gia Long ngự trên khán đài đang hí hửng bỗng sầm mặt lại 
	khiến viên Đề Đốc chỉ huy cuộc hành h́nh tái mặt, run lập cập, truyền loa 
	giục đao phủ thi hành án lệnh gấp. Viên quản tượng hốt hoảng dùng cây sào 
	nhọn đâm vào miệng voi và quát to bảo bà phải qú xuống cho voi khỏi sợ. C̣n 
	bọn giáp sĩ cũng vội vàng bắn hỏa pháo vào đít voi, buộc nó phải tiến tới 
	phía tội nhân. Con voi bị kích thích cùng cực trở nên hung tợn và như điên 
	dại, chạy bổ tới vội vă quấn lấy bà, tung lên cao rồi cong đuôi chạy quanh 
	pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hăi, làm hàng vạn người hoảng hốt 
	theo. 
 
		-  
 
		- Về cái chết của bà, giáo sĩ Bissachère c̣n cho biết trong đám vua quan 
	Tây Sơn bị Gia Long hành h́nh tại Phú Xuân chỉ có ba người gồm em vua Quang 
	Toản (9), quan Thiếu Phó Trần Quang Diệu và vợ là nữ Đại tướng Bùi Thị Xuân 
	là vẫn b́nh thản, mặt không biến sắc trong lúc bị hành h́nh. 
		
 
		-  
 
		- Ông Nguyễn Huyền Anh, trong Việt Nam Danh Nhân từ điển, đă nhận xét về 
	bà: "Có tài binh bị, bà thường ṭng chinh chống địch, lập được nhiều chiến 
	công. Là một nữ tướng rất dũng cảm và có độ lượng, bà không bao giờ giết 
	những quân đă chạy hay đầu hàng." 
 
		-  
 
		- Trong Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam có bài thơ vịnh bà: 
		
 
		-  
 
		- Vận nước đang xoay chuyển  
 
		- Quần thoa cũng vẫy vùng  
 
		- Liều thân lo cứu chúa  
 
		- Công trận quyết thay chồng  
 
		- Khảng khái khi lâm nạn  
 
		- Kiên trinh lúc khốn cùng  
 
		- Ngàn thu gương nữ kiệt  
 
		- Gương sáng hăy soi chung  
 
		-  
 
		- Ông Nguyễn Bá Huân (1848-1899), một danh sĩ B́nh Định có chân trong phong 
	trào Cần Vương của tỉnh nhà, chuyên nghiên cứu sử Tây Sơn để viết liệt 
	truyện qua các tác phẩm như Tây Sơn tiếm long lực, Cân quắc anh hùng truyện, 
	Tây Sơn danh tướng chinh nam truyện... Ông c̣n để lại bài thơ vịnh Bùi Thị 
	Xuân (Vịnh phu nhân Bùi Thị Xuân) 
 
		-  
 
		- Cân quắc do tư báo quốc cừu  
 
		- Khả liên di hận phó đông lưu  
 
		- Dạ lan mỗi độc Tây Sơn sử  
 
		- Phảng phất phương dung hiện án đầu
        
		
 
		- Việt Thao dịch: 
 
		-  
 
		- Phận gái lo tṛn chuyện nước non  
 
		- Thương thay mối hận chảy về đông
        
		
 
		- Đêm khuya lần đọc Tây Sơn sử  
 
		- Phảng phất dung nhan trước án c̣n  
 
		-  
 
		- Và trên vùng đất quê hương của bà, miền sông Côn, người đời sauc ó bài 
	thơ hết lời ca tụng, rất phổ biến: 
		
 
		-  
 
		- Xưa nay khăn yếm vượt mày râu,  
 
		- Bùi Thị phu nhân đứng bậc đầu.
        
		
 
		- Chém tướng, chặt cờ, khoe kiếm sắc,
        
		
 
		- Vào thần, ra quỷ, tỏ mưu sâu.  
 
		- Quên nhà, nợ nước, đem toan trước,
        
		
 
		- V́ nước, thù nhà, để tính sau.  
 
		- Tài đức ngh́n thu c̣n nức tiếng,  
 
		- Non c̣n chảy ngọc biết v́ đâu?  
 
		-  
 
		- Với tài đức và gương dũng cảm ấy, anh thư Bùi Thị Xuân đáng đứng riêng 
	một danh sách và vượt hẳn các nhân vật nữ ở B́nh Định đă nêu trên.
		
 
		-  
 
		- Chú thích: 
 
		- 1. Tràn bộ: xê dịch nhanh sang bên trái hay bên phải để tránh đ̣n của đối 
	thủ. 
 
		- 2. Hoành bộ: quay ngược trở lại để tấn công vào chỗ sơ hở của đối thủ.
		
 
		- 3. Kịt ngựa: thế vơ tiến thẳng tới hoặc tiến sang bên phải, bên trái của 
	đối thủ mà bàn chân không rời mặt đất.
		
 
		- 4. Đứng ngựa: thế đứng mà bắp đùi song song với mặt đất để bảo vệ phần hạ 
	bộ. 
 
		- 5. Bản Tân: tức Bến Ván, tên của bến sông Trầu ở làng An Tân phía namcửa 
	Đại, thuộc tỉnh Quảng Nam. 
 
		- 6. Trấn Ninh: thuộc xă Trấn Ninh, sau đổi là Phù Ninh, huyện Phong Lộc 
	phủ Quảng Trạch tỉnh Quảng B́nh. 
 
		- 7. Theo Thiên Nam nhân vật chí bà Bùi Thị Xuân bị xử lăng tŕ. Các sách 
	sau này viết về cái chết của bà đều dựa vào một trong hai thuyết ấy.
		
 
		- 8. Theo tài liệu của Quỳnh Cư trong Những v́ sao đất nước, tập 5, trang 
	228. 
 
		- 9. Vua Nguyễn Quang Toản có bốn người em: Quang Thùy tự tử ở ngoài Bắc, 
	c̣n Quang Bàn, Quang Duy và Quang Thiệu cùng bị bắt với vua anh và bị đóng 
	cũi giải về Phú Xuân chịu cảnh gia h́nh. 
  
		
	
 
Bài Đọc Thêm 
																
																Đánh gậy 
																: Môn vơ truyền 
																thống 
																Phan Quỳnh 
																
																 
																
																
																Nhà vơ xưa cho 
																rằng gậy là tiền 
																thân của các 
																loại binh khí 
																cầm tay cổ điển 
																khác. Gậy vót 
																nhọn có thể trở 
																thành dáo, lao 
																hay ngọn bút v.v... 
																Gậy c̣n được gọi 
																là Roi, Hèo, 
																Trượng, Tiên, 
																hay Côn ... và 
																có nhiều loại 
																dài ngắn khác 
																nhau . Gậy dài 
																được gọi là Gậy 
																Bẩy hay Trung 
																B́nh Tiên, dài 
																bẩy thước ta (khoảng 
																2,80 mét); gậy 
																ngắn có tên là 
																Gậy Ba dài ba 
																thước ta (khoảng 
																1,20 mét) tiết 
																diện tṛn. Gậy 
																ngắn tiết diện 
																vuông hay chữ 
																nhật được gọi là 
																tay thước hay 
																giản. (Đôi khi 
																giản có tiết 
																diện lục giác và 
																cán cầm). Nhiều 
																ḷ vơ xưa thực 
																dụng hơn, không 
																phân chia gậy, 
																côn theo thước 
																tấc như trên mà 
																linh động căn cứ 
																vào tầm vóc lớn 
																nhỏ của từng 
																người xử dụng, 
																căn cứ vào chiều 
																cao từng vơ sinh 
																để phân chia gậy 
																ra nhiều loại 
																dài ngắn với 
																những tên khác 
																nhau như Trường 
																Côn, Tề Mi Côn, 
																Trung Côn, hay 
																Đoản Côn. Đoản 
																côn có chiều dài 
																từ bả vai hay 
																nách xuống tới 
																đầu ngón tay 
																người xử dụng 
																duỗi thẳng. 
																Trung côn dài từ 
																mặt đất chân 
																đứng thẳng đến 
																ngực người xử 
																dụng. Tề mi côn 
																dài từ mặt đất 
																đến ngang tầm mi 
																mắt. Trường côn 
																dài nhất, từ mặt 
																đất tới đầu ngón 
																tay với thẳng 
																của người xử 
																dụng (được gọi 
																là "dài một đầu 
																một với") . Do 
																đó Tề Mi Côn của 
																người này có thể 
																là Trung Côn của 
																người khác. 
																Đánh gậy là môn 
																vơ chiến đấu và 
																cũng là môn thể 
																thao được h́nh 
																thành rất sớm ở 
																nước ta . Truyền 
																thuyết Phủ Đổng 
																Thiên Vương nói 
																lên gậy đă được 
																xử dụng nhiều và 
																phổ biến từ hồi 
																đầu thuở các vua 
																Hùng dựng nước. 
																Cậu bé đánh giặc 
																Ân bằng ngựa sắt, 
																roi sắt. Chưa 
																hết, roi sắt bị 
																gẫy, cậu bé dũng 
																sĩ anh hùng làng 
																Gióng đă nhổ 
																từng khóm tre 
																ngà làm roi quay 
																tít hàng trăm 
																ṿng rồi quất 
																mạnh xuống đầu 
																giặc :  
																Đứa th́ sứt mũi 
																sứt tai, 
																Đứa th́ chết 
																nhóc v́ gai tre 
																ngà. 
																(Bài ca Hội 
																Gióng) 
																Truyền thuyết 
																cho biết thêm 
																theo Thánh Gióng 
																đi đánh giặc c̣n 
																có ông Đường 
																Ghềnh (Trung Mầu, 
																Gia Lâm) cầm vồ 
																đập đất, có đoàn 
																trẻ chăn trâu 
																Hội Xá (Gia Lâm) 
																cầm roi, cầm 
																khăng, có người 
																câu cá vác cần 
																câu đuổi giặc. 
																Gậy đă gắn liền 
																vào sinh hoạt 
																hàng ngày của tổ 
																tiên chúng ta . 
																Gia đ́nh nào 
																trước đây cũng 
																có cái gậy dựng 
																ở góc nhà. Cái 
																then cài cửa, 
																cái cán cuốc, 
																cán xẻng, cái 
																mái chèo thuyền, 
																cái bắp cầy, đ̣n 
																gánh, cần câu, 
																v.v. ... lúc 
																biến cũng dễ 
																dàng trở thành 
																cây gậy ngừa 
																pḥng bất trắc. 
																Tới dịp hội hè 
																đ́nh đám, đánh 
																gậy là môn thể 
																thao được thanh 
																niên trai tráng 
																trong làng đua 
																nhau thi sức , 
																trổ tài . Họ lập 
																ra những phường 
																hội để tập dượt, 
																để giúp nhau 
																trau dồi tài 
																nghệ, tinh luyện 
																về môn đánh gậy 
																. Tác giả Toan 
																Ánh nói về ngày 
																hội thi đấu 
																trung b́nh tiên 
																xưa như sau :
																 
																" Thường tại các 
																hội quê, khi có 
																đấu trung b́nh 
																tiên dân làng 
																đều có treo giải 
																như giải đánh 
																vật hoặc giải 
																bơi thuyền hoặc 
																như nhiều cuộc 
																vui xuân khác 
																vậy. Các vơ sĩ 
																dự cuộc đấu roi, 
																v́ giải thưởng 
																th́ ít, v́ tinh 
																thần thượng vơ, 
																nhất là v́ danh 
																dự của từng ḷ 
																roi th́ nhiều. 
																Hai tiếng ḷ roi 
																để chỉ những tay 
																chơi trung b́nh 
																tiên xuất thân ở 
																một xă nào, hoặc 
																ở một nhóm nào, 
																có người huấn 
																luyện chỉ dẫn. 
																"Đánh trung b́nh 
																tiên, đánh tay 
																đôi, ai đánh 
																trúng địch thủ 
																vào những chỗ 
																hiểm và đánh 
																trúng nhiều được 
																coi là thắng. 
																"Trong cuộc đấu, 
																chiếc gậy thường 
																được bịt giẻ ở 
																đầu để tránh sự 
																nguy hiểm cho 
																các đấu thủ. Đầu 
																bịt giẻ, được 
																nhúng vào nước 
																vôi trắng, để 
																một khi địch thủ 
																nào đánh trúng 
																đối phương sẽ có 
																dấu vết để lại. 
																Vết vôi ở người 
																mỗi địch thủ 
																giúp cho ban 
																giám khảo xét 
																định hơn thua. 
																Trận đấu gồm 
																nhiều hợp và mỗi 
																hợp tính theo 
																những động tác 
																của các đối thủ". 
																( 
																Năm 1258, quân 
																Nguyên lần thứ 
																nhất sang xâm 
																lược Đại Việt. 
																Khi đă chiếm 
																được Thăng Long, 
																bọn giặc xua 
																quân đi càn quét, 
																cướp phá các 
																vùng lân cận. 
																Tới Cổ Sở (nay 
																là Yên Sở phía 
																tây ngoại thành 
																Hà Nội) , giặc 
																bị nhân dân 
																trong vùng dùng 
																gậy, dùng dáo 
																đánh cho thua to 
																. Nói về trận 
																đánh này, sử cũ 
																đă ghi :" Đời 
																Nguyên Phong (Trần 
																Thái Tông), quân 
																Thoát Hoan vào 
																cướp, khi đến xă 
																Cổ Sở ngựa không 
																tiến được , 
																người trong xă 
																chống phá được 
																giặc".  
																Sử cũ cũng ghi 
																:"Năm Mậu Tuất 
																(1298) (đời Trần 
																Anh Tông), mùa 
																thu tháng tám 
																thi đấu gậy ". 
																Tuy sử không 
																thuật rơ thể 
																thức thi đấu thế 
																nào, song cuộc 
																thi được kể là ở 
																triều Trần, diễn 
																ra sau khi đất 
																nước đă ba lần 
																đánh thắng giặc 
																Mông Cổ và cuộc 
																thi đấu có ư 
																nghĩa khuyến 
																khích quân sĩ và 
																nhân dân trong 
																nước mài sắc 
																cảnh giác, luôn 
																luôn tập luyện 
																sẵn sàng đứng 
																lên chiến đấu 
																đập tan mọi cuộc 
																ngoại xâm. Một 
																sự kiện cũng 
																liên quan đến 
																đánh gậy đă được 
																Đại Việt Sử Kư 
																Toàn Thư ghi 
																chép : Quí Hợi, 
																[Đại Khánh] năm 
																thứ 10 [1323] , 
																mùa thu, tháng 
																8, ngày 22, vua 
																ngự đến nhà Thái 
																Học. Có tên Mặc 
																trong quân Thiên 
																thuộc ở Hoàng 
																Giang đỗ khoa 
																thi Thái Học 
																sinh, vua xuống 
																chiếu bắt trở 
																lại quân ngũ, 
																làm quân lại 
																quân Thiên đinh, 
																đến khi thi đánh 
																gậy, [Mặc] lại 
																đỗ cao (2) .  
																Đánh gậy là một 
																môn vơ truyền 
																thống của dân 
																tộc đă được 
																nhiều người 
																ngưỡng mộ và tập 
																luyện. Không 
																những thanh niên 
																trai tráng tập 
																luyện mà ngay cả 
																nữ giới cũng 
																trau dồi kỹ 
																thuật chiến đấu 
																này : 
																Ai vô B́nh Định 
																mà coi, 
																Đàn bà cũng biết 
																cầm roi đi quờn 
																(quyền). 
																(Ca dao) 
																Tháng 11 năm Mậu 
																Thân 1788 quân 
																Măn Thanh xâm 
																chiếm Thăng 
																Long, Bắc B́nh 
																Vương Nguyễn 
																Huệ, sau khi 
																đăng quang tại 
																Phú Xuân (Huế), 
																vội kéo đại binh 
																thần tốc đi Bắc 
																phạt. Tới Nghệ 
																An, nhà vua dừng 
																lại đây vài ngày 
																để mộ thêm quân 
																và nhanh chóng 
																tuyển dụng được 
																trăm ngàn tân 
																binh. Theo 
																truyền thuyết 
																vùng Thanh Nghệ, 
																cả cánh rừng tre 
																rộng lớn nơi đây 
																đă được nhà vua 
																trưng dụng để 
																lấy tre làm binh 
																khí, làm quân 
																dụng cho đoàn 
																tân binh nghĩa 
																quân này. Điều 
																đó nói lên gậy 
																tre vót nhọn có 
																lẽ là binh khí 
																chủ yếu của đoàn 
																tân nghĩa binh, 
																bởi với thời 
																gian ngắn ngủi 
																kỷ lục không dễ 
																rèn đúc đủ binh 
																khí bằng sắt 
																thép trang bị 
																cho cả trăm ngàn 
																quân. 
																Tới thế kỷ 19, 
																vơ gậy ở nước ta 
																đă được phát huy 
																tới tŕnh độ 
																cao. Gậy dùng để 
																tập và thi lúc 
																này ngoài gậy 
																tre c̣n có hai 
																loại nữa là sắt 
																và gỗ. Gậy sắt 
																theo qui định có 
																loại dài hơn 6 
																thước 3 tấc ta 
																(khoảng 1,50 
																mét) và nặng tới 
																40 cân ta ( 
																khoảng 25 kg); 
																c̣n gậy gỗ dài 6 
																thước 5 tấc với 
																chu vi 2 tấc 6 
																phân. Việc thi 
																gậy thời này có 
																hai môn : múa và 
																đấu. Múa gậy để 
																biểu diễn tài 
																khéo léo và sức 
																mạnh. Đấu gậy để 
																thẩm định kỹ 
																thuật chính xác, 
																dũng mănh và 
																linh hoạt cần 
																thiết cho chiến 
																đấu. 
																Thể thức thi 
																Hội, ngoài các 
																môn vơ bắt buộc 
																phải thi khác, 
																riêng môn đấu 
																gậy đầu thế kỷ 
																19 sử sách có 
																nói rơ : "Thi 
																đấu côn gỗ cứ 
																một người thi 
																đấu với hai 
																người, người nào 
																thắng luôn cả 
																hai là hạng ưu; 
																thắng một người 
																và ngang sức 
																(ḥa) một người 
																là hạng b́nh ; 
																thắng một người 
																và kém (thua) 
																một người hoặc 
																ngang sức hai 
																người là hạng 
																thứ ; không 
																thắng là hạng 
																liệt ". Rơ ràng 
																đây là môn đấu 
																đ̣i hỏi người 
																thi phải có tài 
																năng, sức lực, 
																dũng cảm, và mưu 
																trí. Đó là cuộc 
																thi đấu gậy để 
																đạt danh hiệu Cử 
																Nhân Vơ.  
																C̣n đấu gậy 
																trong thi Đ́nh 
																th́ mức độ yêu 
																cầu cao hơn. Một 
																người phải đấu 
																với năm người, 
																thắng cả mới 
																được là ưu; nếu 
																chỉ thắng bốn 
																ngang sức một 
																hay thắng ba 
																ngang sức hai là 
																b́nh. C̣n thắng 
																hai ngang sức ba 
																hoặc thắng một 
																ngang sức bốn là 
																thứ ; không 
																thắng là liệt. 
																Đó là cuộc thi 
																đấu gậy để đạt 
																danh hiệu Tiến 
																Sĩ Vơ. 
																Song dù thi Hội 
																hay thi Đ́nh, 
																người thi đều 
																phải qua cuộc 
																thử sức bằng môn 
																múa hai loại gậy 
																gỗ và sắt. Yêu 
																cầu múa phải 
																nhanh, mạnh, 
																khéo, gọn, ... , 
																gậy múa phải 
																quay tít trên 
																cao và bao kín 
																quanh ḿnh, 
																không trống 
																không hở. 
																Chàng Lía, một 
																dũng sĩ đất Qui 
																Nhơn B́nh Định 
																nổi lên chống 
																bất công của 
																triều đ́nh nhà 
																Nguyễn, có tài 
																đánh gậy rất 
																khéo léo , tinh 
																vi : 
																Đường côn trọn 
																vẹn trăm bề, 
																Múa như giông tố 
																tiếng nghe vù vù 
																. 
																( Vè chàng Lía ) 
																Khi quân Pháp nổ 
																súng tấn công 
																cướp thành Gia 
																Định năm 1859, 
																nhân dân Nam Bộ 
																đứng lên dùng 
																gậy tầm vông 
																xông ra chống 
																giặc Pháp cứu 
																nước. Tinh thần 
																chiến đấu ngoan 
																cường của nghĩa 
																quân dưới trướng 
																chủ tướng Trương 
																Định đă được cụ 
																Nguyễn Đ́nh 
																Chiểu ca ngợi 
																trong bài " Văn 
																tế nghĩa sĩ Cần 
																Giuộc " nổi 
																tiếng : 
																Ngoài cật có một 
																manh áo vải, 
																Trong tay cầm 
																một ngọn tầm 
																vông. 
																Các thế vơ gậy 
																cổ truyền với 
																những đ̣n miếng 
																lợi hại mỗi địa 
																phương trên đất 
																nước, mỗi ḷ vơ 
																xưa có những đặc 
																tính khác nhau . 
																Có ḷ vơ thích 
																xử dụng gậy dài, 
																có ḷ chỉ chuyên 
																luyện gậy ngắn. 
																Về kỹ thuật cầm 
																gậy, cầm côn, 
																thường dùng cả 
																hai tay nhưng 
																cũng có thể xử 
																dụng một tay cho 
																gậy ngắn, và có 
																nhiều lối nắm 
																cầm gậy khác 
																nhau tùy theo 
																thế vơ hay đấu 
																trường. Thông 
																thường có hai 
																lối cầm gậy dài 
																: Nhật nguyệt áp 
																chưởng và Long 
																trảo hộ châu . 
																Nhật nguyệt áp 
																chưởng là lối 
																cầm gậy hai tay 
																đối nhau hai bên 
																, tay trong tay 
																ngoài nắm chặt 
																gậy nằm gọn ở 
																giữa hai ḷng 
																bàn tay. Long 
																trảo hộ châu là 
																lối cầm gậy bằng 
																mười đầu móng 
																tay và cả hai 
																tay đều cùng ở 
																một phía gậy .
																 
																Để tạm kết thúc, 
																xin đơn cử hai 
																bài vơ gậy cổ 
																truyền, một bài 
																về gậy dài, bài 
																"Lữ Vọng Tâm 
																Côn" và một bài 
																về gậy ngắn, bài 
																"Hoàng Kim Giản 
																Pháp".  
																I/ Lữ Vọng Tâm 
																Côn  
																Thượng tŕnh thọ 
																thế lưỡng biên 
																khai , 
																Tam tấn xà 
																thương nhất điểm 
																lai , 
																Bảo tử kinh xa 
																hồi tọa mă , 
																Kinh châu hổ cứ 
																trấn Trung sơn , 
																Điểm thủy phong 
																đao phi chiếc 
																dực . 
																Thạch bàn Lữ 
																Vọng tọa lư ngư 
																, (2) 
																Phi khứ phi lai 
																biên quơ thảo , 
																Đàng địa phi xa 
																luyện trung 
																thiên . 
																II/ Hoàng Kim 
																Giản Pháp 
																B́nh thân lập 
																thế , 
																Lưỡng long thủ 
																châu , 
																Khuynh thân bái 
																tổ , 
																Thiềm thử vọng 
																nguyệt , 
																Kim giản bạt sơn 
																, 
																Tiềm tàng long 
																hổ , 
																Phượng vũ xuyên 
																lâm , 
																Phi giao đoạt 
																ngọc , 
																Mănh sư trấn 
																động , 
																Cuồng phong tảo 
																diệp nhất, 
																Cuồng phong tảo 
																diệp nh́, 
																Tiềm tàng long 
																hổ , 
																Phượng vũ xuyên 
																lâm , 
																Phi giao đoạt 
																ngọc , 
																Mănh sư trấn 
																động , 
																Cuồng phong tảo 
																diệp , 
																Tiềm tàng long 
																hổ , 
																Lăo tiều quải 
																sơn , 
																Thiềm thử vọng 
																nguyệt , 
																Lăo tiều quải 
																sơn , 
																Vân gia hồi giản 
																, 
																Đoạt mệnh kim 
																giản , 
																Khuynh thân bái 
																tổ . /. 
																Phan Quỳnh. 
																--------------------------------------------------------------------------------------------------------
																 
																Toan Ánh, 
																Nếp cũ . Hội hè 
																đ́nh đám. 
																Saigon, Sao Mai 
																xb, 1974, trang 
																278. 
																Đai Việt Sử Kư 
																Toàn Thư, mộc 
																bản khắc năm 
																Chính Ḥa thứ 
																18, tập II. 
																Có nơi đọc là " 
																Thạch bàn lưỡng 
																vọng tọa lư ngư 
																". 
																
																
																Tríh từ: 
																http://www.vovinamcanada.org/thuvien/thvothuat/dg.html   
 |