| |
B́nh Định Và Vơ Thuật
Con Gái B́nh Định
- Đào Đức Chương (Thếkỷ 21 No.109, May 1998)
- Phụ nữ ở B́nh Định được học vơ đến nơi đến chốn để trở thành bậc cao thủ,
đem tài vơ nghệ làm nên lịch sử như nữ tướng Bùi Thị Xuân người đất Tây Sơn
cũ, quán làng Xuân Ḥa xă B́nh Phú quận B́nh Khê (nay là huyện Tây Sơn) th́
xưa nay chưa có người thứ hai. Nhưng con gái B́nh Định được cha mẹ cho học
vơ pḥng thân, nhất là trước năm 1945, th́ hầu như cô gái nào cũng biết qua
hai môn vơ căn bản:
-
- Ai về B́nh Định mà coi,
- Con gái B́nh Định múa roi, đi quyền (Ca dao)
-
- Tuy nhiên, đôi lúc cũng có những cô gái học vơ không chỉ để pḥng thân mà
muốn phát huy cái đẹp của vơ truyền thống như trường hợp Thanh Tùng, hoặc
c̣n đi xa hơn, thi thố với đời, trở thành cao thủ trong làng vơ. Điển h́nh
có bà Mân sống vào thời chúa Nguyễn, cô Quyền vào giữa thế kỷ 19 và sang đầu
thế kỷ 20 lại có Tám Cảng.
-
- Bà Mân chưa phải là nhân vật lịch sử nhưng với tài vơ nghệ, bà được dân
B́nh Định ca tụng qua bài vè Chú Lía dài 1434 câu thơ lục bát và được lưu
truyền khắp các tỉnh miền Nam Trung phần.
-
- Theo bài vè, bà Mân ở gần vùng Truông Mây, nơi sào huyệt của một đảng
cướp lớn do cha Hồ chú Nhẫn và sau có thêm chú Lía cầm đầu, nay thuộc xă Ân
Đức huyện Hoài Nhơn. Một hôm hai tên Hồ, Nhẫn đem cả lực lượng hùng hậu đến
bắt heo nhà bà, cả làng khiếp sợ không ai dám tiếp cứu:
-
- Lân la bốn chục theo rày
- Thẳng đường xuống xóm chật đầy đường quan
-
- Trong tay bà chỉ có cây roi ngắn nhưng với ḷng can đảm và tự tin, bà
xông ra cự địch với một đảng cướp mạnh khét tiếng trong vùng:
-
- Mụ Mân độ khoảng bốn hai
- Làu thông vơ nghệ ít ai sánh b́
- Th́nh ĺnh chưa biết việc chi
- Tiện tay mụ với tức th́ đoản côn
- Bước ra thấy rơ thiệt hơn
- Mụ không thèm hỏi huơ côn đánh liền.
-
- Ai cũng tưởng phen này bà Mân bị nát thây v́ hai tên Hồ, Nhẫn không những
vơ nghệ phi thường mà c̣n hung bạo chưa từng có. Nhưng không may cho chúng,
thế vơ của bà sâu hiểm vô cùng, áp đảo được ngay đối thủ:
-
- Cả ba vùng vẫy đua tranh
- Mụ Mân quả thực liệt oanh ai tày
-
- Chỉ mới so tài ở hiệp đầu mà bọn cướp đă bị ngọn roi thần của bà cuốn
người như băo táp, chúng phải đổi từ thế công sang thế thủ rồi t́m đường
tháo lui:
-
- Phút thôi Hồ, Nhẫn cả hai
- Đuối tay kéo chạy như bay khác nào!
-
- Thân đàn bà mà đánh đuổi bọn cướp đông đảo để bảo vệ tài sản là điều hiếm
có. Nhưng cũng tại huyện Hoài Nhơn c̣n một cô gái khác, trong tay chỉ có con
dao mà hai lần đánh thắng cọp để cứu mẹ, mới là chuyện phi thường.
-
- Trần Thị Quyền, cái tên do cha mẹ đặt gắn liền với vơ nghệ, âu đó là cái
nghiệp tiền định làm nên kỳ tích mà chính cô cũng không ngờ được. Nhà nghèo,
cha mất sớm, không có anh em, cô là người duy nhứt sớm hôm với người mẹ. Cô
có nhan sắc, nhiều người đến xin cưới nhưng nhất mực từ chối để làm tṛn chữ
hiếu.
- Thường ngày hai mẹ con vào núi chặt củi đem ra chợ bán kiếm tiền nuôi
thân. Một hôm cô Quyền đang chặt cây để cho mẹ gom thành bó, bỗng có một con
cọp nhảy ra vồ người mẹ, bà phải lăn người mới kịp né tránh. Cô Quyền đang
cầm cái rựa, thấy thế vội xông đến cứu mẹ. Nhờ có vơ nghệ và b́nh tĩnh, cô
tránh được tầm nanh vuốt của mănh thú và chém trả lại nhiều nhát chính xác,
cọp đau quá đành bỏ chạy.
-
- Câu chuyện đánh cọp tưởng đă lăng quên theo năm tháng, không ngờ cọp luôn
luôn ŕnh rập quyết báo thù. Một đêm bà mẹ có việc phải ra sân, như có linh
tính, cô Quyền cầm dao theo mẹ pḥng thú dữ.
-
- Th́nh ĺnh cọp nhảy bổ ra vồ hai mẹ con, cô vội kéo mẹ dạt sang một bên
để tránh rồi dùng dao chống trả. Cọp được lợi thế nhờ đêm tối, c̣n cô Quyền
cũng có lợi điểm đánh cọp nơi quang đăng, tiện bề công thủ. Hai bên quần
thảo với nhau, cọp vồ hụt nhiều lần đâm ra mệt trở nên hung dữ, liều lĩnh
lao tới, cô tràn bộ ( né tránh. Cọp đang tầm phóng chưa kịp xoay ḿnh lại,
nửa phần thân sau của nó là mục tiêu ngon lành cho mũi dao của cô cắm phập
vào hông cọp. Tuy bị thương nhưng cọp c̣n thừa sức quay đầu lại chồm lên,
chuyển hết thần lực vào hai chân trước để trả đ̣n. Lanh như chớp, cô Quyền
hoành bộ (2) rồi phóng mạnh lưỡi dao ngọt xớt vào lồng ngực nở nang của đối
thủ, trước khi nhảy trái tránh cú vồ sinh tử. Khi dân làng đèn đuốc kéo đến
tiếp cứu, con cọp to lớn chỉ c̣n là một cái xác giăy giụa trên vũng máu.
-
- Nếu bà Mân tên tuổi sống măi trong văn học dân gian, chuyện cô Quyền giết
cọp được truyền tụng trong làng vơ của tỉnh nhà th́ trường hợp của bà Tám
Cảng là một bài học đáng suy ngẫm.
-
- Ông Hương mục Ngạc, kế tổ của phái quyền An Vinh mà phương ngôn đă có câu
truyền tụng "Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh" có ba người con: Bảy Lụt là
trai trưởng, kế là Tám Cảng và út nam là Chín Giác. Tuy là gái nhưng Tám
Cảng có sức mạnh hơn người và ham mê vơ thuật nên được cha cưng chiều truyền
dạy chu đáo. Tiếng đồn con gái ông Hương mục Ngạc mới 18 tuổi, trong tay chỉ
có cây đ̣n gánh mà đánh bạt cả hàng trăm thanh niên cầm gậy bủa vây tại sân
chùa Bà An Thái trong ngày lễ hội Đổ Giàn càng làm thiên hạ phục sát đất ḷ
vơ của ông Hương mục Ngạc nhưng đồng thời càng không ai dám tính chuyện trăm
năm với cô. Năm Tám Cảng 20 tuổi vẫn chưa được nơi nào dạm hỏi dù rất có
nhan sắc. Ông Hương mục Ngạc thông cảm nỗi khổ tâm của con, tuyên bố với mọi
người rằng nếu ai đánh bại được Tám Cảng th́ ông sẽ gả con gái cho mà không
đ̣i hỏi một lễ vật ǵ. Có ba người đến xin đấu vơ với Tám Cảng. Người thứ
nhất bị Tám Cảng cho một cú đá văng vào hàng rào. Người thứ hai, vơ nghệ khá
hơn, kịt ngựa (3) nhanh nhẹn, công thủ song hành nên cầm cự được hiệp đầu,
sang đến hiệp thứ hai th́ bị Tám Cảng dùng ngón gia truyền ép vào bể cạn,
đánh gục. Người thứ ba là Dư Hựu (không phải tên Hựu, quân sư trong đảng
cướp của Dư Đành) bị Tám Cảng đạp nhào vào hồ cá, đành bỏ ra về tầm sư học
đạo. Một năm sau lại đến xin đấu, lần này Tám Cảng tung cước bị Dư Hựu tóm
được chân, ném trả vào hồ cá.
-
- Dư Hựu thắng. Giữ lời hứa, ông Hương mục Ngạc làm lễ vui qui cho con gái.
Năm ấy Tám Cảng 22 tuổi. Nhưng cũng chỉ sống chung với nhau được ba năm. Một
hôm vợ chồng lời qua tiếng lại, Tám Cảng quen thói bướng bỉnh, trả lời khinh
khỉnh làm Dư Hựu điên tiết. Anh thuận tay chụp cái b́nh hoa chưng trên sập
gụ ném mạnh vào mặt vợ. Nếu là người khác th́ đă nát mặt, nhưng Tám Cảng nhẹ
nhàng đưa tay bắt lấy đem đặt trên bàn và mỉa mai: "B́nh xưa mà làm ngơ
không bắt, để bể cũng uổng." Dư Hựu càng giận, với lấy cái chày đâm tiêu
bằng đá ném mạnh vào đầu vợ. Tám Cảng cũng đưa tay chụp cười gằn giọng châm
chọc: "Cái đầu mà quáng mắt lầm cái cối đâm tiêu hả?" Dư Hựu giận lắm, mất
hết trí khôn, chụp con dao phay, bằng thế vơ rất lợi hại, phóng thẳng vào
ngực vợ. Đường dao quá mạnh, Tám Cảng không thể chụp được, đành phải té ngửa
để tránh. Con dao ngon trớn cắm phập vào vách đất ngập đến cán. Dư Hựu sực
tỉnh th́ mọi việc đă xảy ra rồi, suưt nữa gây nên án mạng. Tám Cảng lồm cồm
ngồi dậy, c̣n Dư Hựu bỏ chạy một mạch đến nhà cha vợ. Gặp ông Hương mục
Ngạc, anh ta sụp lạy kể lại đầu đuôi câu chuyện và nhất quyết xin trả Tám
Cảng mà không đ̣i hỏi một điều kiện nào.
-
- Chuyện Dư Hựu trả vợ nhanh chóng lan truyền khắp vùng. Nhân đó câu ca dao
trên được sửa lại:
-
- Ai về B́nh Định mà coi
- Con gái B́nh Định cầm roi rượt chồng
-
- Các bậc phụ huynh ở B́nh Định rút kinh nghiệm, thôi không dám chiều ư con
gái cho học nhiều vơ nghệ nữa, sợ bị ế chồng như Tám Cảng. Họ chỉ luyện con
gái vài thế vơ thủ thân, thế cũng đủ cho
- đối phương kinh hồn rồi. Sau đây là một trong hàng trăm chuyện về phản
ứng tự vệ của các cô gái B́nh Định.
- Ai đến Tuy Phước cũng biết câu ca dao về các phiên chợ trong quận: "Chợ
Huyện liệng Cây Gia, Cây Gia xa chợ Mới, chợ Mới tới chợ Dinh, chợ Dinh rinh
Bồ Đề, Bồ Đề kề chợ Huyện." Phiên Huyện nhằm các ngày 1, 6, 11, 16, 21, 26
âm lịch, là phiên chợ lớn nhất của huyện nhà nhưng lại cách thị trấn Tuy
Phước hơn ba cây số.
- Ngày phiên, không những dân trong vùng tập trung về mà c̣n đủ mặt dân
buôn từ xa đến mua gom sản phẩm địa phương và bán hàng hóa ở nơi khác mang
tới. Con đường quốc lộ 1 từ huyện lỵ đến chợ Huyện người mua kẻ bán đi lại
tấp nập có cả những chàng trai đi dạo chợ để t́m ư trung nhân:
-
- Trai khôn t́m vợ chợ đông
- Gái khôn t́m chồng giữa chốn ba quân.
- (Ca dao)
-
- Tuy nhiên cũng có kẻ lợi dụng đám đông để giở tṛ xằng bậy. Từ sáng, tại
cổng Lư Môn có hai thanh niên ăn mặc chải chuốt, cười nói rổn rảng, chốc
chốc lại trông ra đường. Nh́n dáng điệu biết ngay là dân ăn chơi từ tỉnh
thành lạc đến. Trong ḍng người từ chợ về, có một thanh nữ cao lớn, bước đi
chậm chạp, hai tay xách hai giỏ nặng đầy ắp thức ăn. Đợi cho cô gái rẽ vào
con đường đất dẫn vào cổng làng, hai "công tử" bước tới đón đàng, buông lời
chọc ghẹo và giở tṛ sàm sỡ. Nhanh như chớp, cô gái buông hai giỏ thức ăn,
xoay nghiêng né tránh tầm tay của kẻ vô hạnh đang sấn tới ngực, rồi đưa tay
đánh phất qua một chiêu. Bị phản ứng bất ngờ, một trong hai tên né sang bên
nhưng hắn đă lầm v́ đó là hư chiêu. Cô gái thấy hắn trúng kế, thuận chân
tung cước trúng thẳng vào hông làm hắn lăn xống ruộng, bùn bê bết từ đầu đến
chân. Tên thứ hai mất tinh thần nhưng trước đám đông hắn tự ái liều mạng
xông tới. Cô gái trong tư thế đứng ngựa (4), đón hắn bằng ngón vơ gia
truyền, chiếc khăn quàng cho ấm cổ trở thành roi nhuyễn tiên quất mạnh vào
mặt đối thủ làm hắn không kịp tránh cú đá song phi, lảo đảo cắm đầu xuống
ruộng.
-
- Thanh nữ ấy là con gái út nhà họ Đào, quan Trung nghị Đại phu Quang lộc
Tự khanh người làng Vinh Thạnh, nay bà đă giữa tuổi thất tuần thường kể lại
câu chuyện năm xưa lúc bà chưa lập gia đ́nh. Và ngón vơ pḥng thân ấy do ông
cậu Năm Hương ở thôn Dương An nay thuộc xă Phước An huyện Tuy Phước truyền
dạy cho bà lúc tuổi trăng tṛn.
-
- Vào đầu thập niên một chín bảy mươi, một ngôi sao lóe sáng trên ṿm trời
Vơ học B́nh Định: nữ vơ sĩ Thanh Tùng của miền sông Côn. Cô được phong vơ sĩ
và được làng báo Sài G̣n tặng biệt danh "Hổ Cái Miền Trung" không phải v́ cô
đă thắng trên vơ đài hoặc đă từng tranh tài cao thấp với ai; người ta chỉ
thấy Thanh Tùng ở điện thờ Quang Trung trong ngày hội Đống Đa biểu diễn các
bài quyền như Lăo Mai Độc Thọ hay bài roi như Tấn Nhất Ô Du với thế thủ như
cản gió che mưa và thế công dồn dập như băo táp là đă đủ khiếp.
-
- Xét cho cùng, điều ấy là lẽ dĩ nhiên. Thanh Tùng là con nhà vơ, đời đời
nối nghiệp và thừa hưởng các ngón bí truyền của một ḍng họ cao thủ. Ông nội
của Thanh Tùng là một tay roi quỉ khiếp thần kinh, người đồng thời và xứng
tài với Hồ Ngạnh (1891 - 1976, kế tổ của phái roi Thuận Truyền). Thân sinh
cô vẫn nối nghiệp nhà, giữ vai tṛ đứng đầu hàng vơ tại địa phương. Rồi đến
Thanh Tùng, tuy là gái, cô vẫn tiếp nối thừa hưởng tinh hoa của con nhà vơ.
Nhưng với bản chất kín đáo và nhũn nhặn, Thanh Tùng ngoan hiền về nhà chồng
như bao cô gái B́nh Định khác, ngày ngày chăm chỉ bên chiếc máy may, nhỏ nhẹ
với khách hàng. Trông dáng dấp liễu yếu đào tơ, không ai thấy ở Thanh Tùng
một dấu vết ǵ về vơ nghệ, một thời nổi tiếng biểu diễn quyền roi. Chớ lầm!
Khi cần tự vệ, "con người vơ" của Thanh Tùng nổi dậy. Đôi mắt hiền lành sẽ
rực sáng như gươm bén và đôi tay mềm mại sẽ biến thành thanh sắt.
-
- Nhưng trên hết, người đàn bà B́nh Định đáng nói hơn cả là nữ tướng Bùi
Thị Xuân. Vơ nghệ của bà vào bậc siêu phàm, ngang tài với các danh tướng mày
râu của Tây Sơn như Nguyễn Huệ sở trường về roi, Nguyễn Lữ sáng chế và xuất
sắc môn Hùng kê quyền, Vơ Văn Dũng giỏi về đao, Đặng Văn Long quán thông cả
cương quyền và miên quyền, c̣n Bùi Thị Xuân không ai sánh kịp về độc kiếm và
song kiếm. Tài thao lược, bà xứng là đấng nữ kiệt. Gương dũng cảm, bà đáng
bậc anh thư làm cho Nguyễn Ánh khiếp sợ và căm tức. C̣n đức độ của bà, không
những trong hàng ngũ Tây Sơn mến phục mà ngay cả kẻ thù cũng thầm kính nể.
-
- Bà Bùi Thị Xuân có họ hàng với vua Quang Toản, nhưng về thứ bậc gia tộc
lại có nhiều sách chép khác nhau: Theo tài liệu của Vương Bích Thu, viết
trong giai phẩm Tây Sơn Xuân Quí Dậu (1993), trang 148, Bùi Thị Xuân là chị
ruột của quan Thái sư Bùi Đắc Tuyên và là con của Bùi Đắc Kế. C̣n bà chánh
cung Hoàng Hậu họ Phạm sinh ra Nguyễn Quang Toản theo Việt sử Tân biên của
Phạm Văn Sơn, quyển 4, trang 204, bà này là con của Bùi Đắc Tuyên, không rơ
là em cùng mẹ khác cha hay anh em thúc bá bên ngoại? Nếu vậy vua Nguyễn
Quang Toản gọi Bùi Đắc Tuyên bằng cậu và Bùi Thị Xuân bằng d́. Nhưng theo
sách "Những v́ sao đất nước" (truyện danh nhân lịch sử của nhiều tác giả)
tập 5, trang 204, Quỳnh Cư chép "Bùi Đắc Tuyên là anh cùng cha khác mẹ với
vua Cảnh Thịnh (?), là cậu Bùi Thị Xuân."
-
- Nữ kiệt Bùi Thị Xuân có bốn lần đối đầu với Nguyễn Ánh sau là vua Gia
Long. Lần thứ nhất vào mùa hạ năm 1797, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, bản
dịch, tập 2, trang 261 có chép, tóm lược như sau:
-
- Nguyễn Ánh đem binh thuyền đánh Thị Nại, rồi đích thân đem hơn 100 chiếc
thuyền ra đánh cửa Đà Nẵng nhưng v́ Trương Phúc Luật không tiếp tế thuyền
lương thực kịp thời v́ bị gió ngược, trong quân chỉ c̣n năm ngày lương nên
vua tạm đem quân về Gia Định và cố nhiên không thể lấy mạnh yếu mà luận. Đó
là lời biện bạch của sứ thần nhà Nguyễn, nhưng theo Quỳnh Cư th́ ban đầu
Nguyễn Ánh định đem quân đánh Thị Nại, nhân lúc triều đ́nh Phú Xuân chia rẽ
nội bộ (phe Bùi Đắc Tuyên bị phe Vơ Văn Dũng sát hại) nắm bắt thời cơ, đích
thân ông đem binh thuyền ra đánh Đà Nẵng, nơi Bùi Thị Xuân đang trấn nhậm,
với ư định phá tan căn cứ quan trọng nằm sát nách kinh đô Phú Xuân. Nhưng
đội thám mă Tây Sơn từ Bản Tân (5) đă kịp thời báo về Tổng hành dinh của bà
về cuộc hành quân bất thần của Nguyễn Ánh. Nhân có chiếu chỉ của vua Cảnh
Thịnh hối thúc bà hồi triều để dàn xếp nội bộ, tương kế tựu kế, Bùi Thị Xuân
phao tin ba ngày nữa sẽ kéo đại binh về Phú Xuân, cốt làm kiêu ḷng giặc.
Quân Nguyễn hăm hở tiến tới thành Quảng Nam nhưng đă bị 5000 quân của Bùi
Thị Xuân phục đánh đúng chỗ. Trận ấy, may cho Nguyễn Ánh đi đoạn hậu nên
thoát chết. Thua cả tài lẫn trí đàn bà, Nguyễn Ánh vừa thẹn vừa tức, thu tàn
quân về Gia Định, giấu nhẹm việc bại trận, nại cớ hết lương phải rút quân.
-
- Lần thứ hai Nguyễn Ánh đụng độ với Bùi Thị Xuân tại mặt trận Trấn Ninh
(6). Theo hai bộ chính sử của Trần Trọng Kim và Phạm Văn Sơn, quân Tây Sơn
cả thủy bộ gồm ba vạn, chia làm ba đạo tấn công.
-
- Tháng 12 năm Tân Dậu (tháng 1-1802) quân Tây Sơn vượt sông Linh Giang
(sông Gianh), lực lượng tiền phương quân Nguyễn đang đóng ở đây do các Tướng
Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường chỉ huy, phải lui
binh về Đồng Hới. Được tin cấp báo, Nguyễn Ánh thân chinh đem cả đại binh ra
tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường giữ mặt bộ, giao Nguyễn Văn
Trương giữ mặt biển.
- Ngày mùng Một tết Nhâm Tuất (3-2-1802) Nguyễn Quang Thùy tiến đánh lũy
Trấn Ninh bị hỏa lực của quân Nguyễn cầm chân lại. Bùi Thị Xuân lănh chức
Đại tướng đem 5000 quân bản bộ tấn công lũy Đồng Hới, địch quân bắn ra như
cát văi nhưng cờ lệnh của bà vẫn chúc hẳn xuống, dấu hiệu quyết chiến không
lùi. Đang chiến đấu anh dũng, vua Cảnh Thịnh ra lệnh lui binh, bà không
chịu, vua phải nghe theo. Suốt ngày hôm ấy bà ngồi trên bành voi xông xáo
trận tiền đôn đốc binh sĩ; tuy thế trận chưa nghiêng hẳn bên nào nhưng
Nguyễn Ánh đă núng thế, định tháo lui.
-
- Bỗng nghe tin thủy quân Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ bị Nguyễn Văn Trương phá
tan lại thêm tướng Nguyễn Văn Kiên ra hàng địch làm cho vua Cảnh Thịnh và
các tướng tá nản ḷng. Trước t́nh thế ấy bà vẫn quyết chiến, sai một đội
quân đến điền khuyết bọn làm phản rồi giành lấy dùi trống thúc quân liên
hồi. Được lệnh xung phong quân của bà ào ạt trèo tường chiếm thành. Thế trận
này nếu kéo dài thêm hai tiếng đồng hồ nữa, bà hạ được thành Trấn Ninh rồi,
Nguyễn Ánh và tướng tá hoảng hốt liền sai thủy quân liều chết vượt sông đánh
bọc hậu để chia lực lượng, ḥng giảm bớt mũi nhọn tấn công của Tây Sơn, ngơ
hầu mở đường máu thoát thân. Nhưng Nguyễn Quang Thùy nhát gan, thấy thủy
quân của Nguyễn Ánh ở mặt sau đánh tới, sợ bị vây, vội rút quân. Một lúc sau
Bùi Thị Xuân mới biết trên mặt trận chỉ c̣n quân dưới quyền bà đang đơn độc
chiến đấu, các cánh quân khác đă hỗn loạn tháo chạy. Bà vẫn b́nh tĩnh giữ
vững hàng ngũ, bảo vệ vua Cảnh Thịnh rút lui an toàn.
- Lần thứ ba, Nguyễn Ánh đối diện với Bùi Thị Xuân khi bà cùng gia đ́nh bị
quân Nguyễn bắt ở huyện Thanh Chương, Nghệ An và giải về Phú Xuân. Sự kiện
này có nhiều sách kể lại nhưng chi tiết lại khác nhau đôi chút. Nếu theo hai
tài liệu của Vương Bích Thu và Quách Giao viết trong Giai phẩm Tây Sơn Xuân
Quí Dậu (1993) và Xuân Ất Hợi (1995) th́ lời đối đáp giữa Nguyễn Ánh và Bùi
Thị Xuân như sau:
- Khi quân hầu dẫn Bùi Thị Xuân vào, Nguyễn Ánh với giọng tự đắc hỏi:
-
- "Ta và Nguyễn Huệ, ai hơn?"
- Bùi Thị Xuân ung dung đáp:
-
- "Nói về tài ba, tiên đế ta bách chiến bách thắng, hai bàn tay trắng dựng
nên cơ đồ. C̣n nhà ngươi bị đánh phải trốn chui trốn nhủi, phải cầu viện
ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp. Chỗ hơn kém như ao trời nước vũng. C̣n về đức
độ, tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế như đă
đối với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. C̣n nhà ngươi lại dùng tâm của kẻ
tiểu nhân mà đối với những bậc nghĩa liệt đă hết ḷng v́ chúa, chẳng nghĩ
rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người khác, tức là khuyến
khích tôi ḿnh trung với ḿnh. Chỗ hơn kém cũng rơ ràng ban ngày và đêm tối.
Nếu tiên đế ta đừng thừa vong sớm, dễ ǵ nhà ngươi trở lại đất nước này."
-
- Nguyễn Ánh cười gằn:
-
- "Nhà ngươi có tài sao không giữ ngai vàng cho Cảnh Thịnh?"
-
- Bùi Thị Xuân đáp:
-
- "Nếu có thêm một nhi nữ như ta th́ cửa Nhật Lệ không dễ ǵ mà lạnh. Cửa
Nhật Lệ không dễ lạnh th́ nhà ngươi cũng khó đặt chân lên đất Bắc Hà."
-
- Nguyễn Ánh nén giận hỏi với giọng mỉa mai:
-
- "Ngươi có muốn ta ân xá không?"
-
- Bùi Thị Xuân đáp:
-
- "Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ ḿnh trước một kẻ tiểu nhân đắc
thế!"
-
- Nguyễn Ánh căm gan, dằn từng tiếng:
-
- "Không chịu nhục. Ta sẽ làm cho ngươi biết nhục..."
-
- Lần thứ tư, vua Gia Long lại đối đầu với bà Bùi Thị Xuân tại pháp trường.
-
- Trước đó, Nguyễn Ánh gặp Bùi Thị Xuân ba lần đều lănh ba vố thua đau. Lần
một, đấu trí thua tài, lần hai đấu lực thua dũng, lần ba đấu khẩu thua lư.
V́ thế, sau Quang Toản, Bùi Thị Xuân là kẻ thù số một của Gia Long, nhà vua
dành cho gia đ́nh bà cực h́nh thảm khốc nhất và đích thân chứng kiến cuộc
hành quyết này. Gia Long hả hê nghĩ rằng phen này bà phải chịu đau đớn tột
cùng về thể xác lẫn tinh thần, dù có gan đồng da sắt cũng không thể cầm được
nước mắt. Thế nhưng Gia Long lại một lần nữa thua cuộc.
-
- Theo tài liệu của Giáo sĩ De la Bissachère viết năm 1807 (7) do một người
thân tín đă chứng kiến rồi tường thuật lại, tại pháp trường hôm ấy, dân
chúng khắp kinh thành Phú Xuân được huy động đến xem đông nghẹt. Trên khán
đài các quan và khách ngoại quốc đă tề tựu đông đủ, khi kiệu nhà vua đến
nhiều phát đại bác nổ vang làm tăng thêm uy nghi của ngày lễ hiến phù. Kế
bên khán đài là cḥi phát thanh cao lêu nghêu vang lên bài chiếu của Gia
Long, nghe câu được câu không:
-
- "V́ chín đời mà trả thù... Chợt nửa chừng gặp lúc gian truân, để ngoan
dân gây nên biến loạn... Chống giặc bắt xong tội nhân được hết... Yết tế
thái miếu, làm lễ hiến phù... Phanh xác tán xương, trả thù miếu xă, rửa hận
thần dân..." (8)
-
- Tiếng loa vừa dứt, một hồi thanh la vang lên báo hiệu giờ phút thi hành
án bắt đầu. Hàng vạn người như nín thở, mắt đăm đăm nh́n mẹ con bà Bùi Thị
Xuân, không khí nghiêm trọng bao trùm cả pháp trường. Từ xa, một thớt voi to
lớn, đen đủi, lù lù tiến tới tử tù theo lệnh của quản tượng. Cô con gái của
bà mới 18 tuổi xuân, bị lột hết quần áo đang co ro trong thân thể tiều tụy,
bỗng nàng hét lên thất thanh rồi toàn thân biến sắc trắng bệch như một bóng
ma, quay lại cầu cứu mẹ.
-
- Bà Bùi Thị Xuân nén xúc động, nghiêm nét mặt nói với con lần cuối: "Con
gái của mẹ, con không được làm thế, phải chết anh dũng để xứng đáng là con
nhà tướng Tây Sơn. Mẹ đây c̣n làm thế nào cứu con được!"
- Con voi hung hăn dùng ṿi quấn chặt cô gái, đu đưa lấy trớn tung mạnh nạn
nhân lên cao rồi nhảy bổ lên dùng ngà hứng lấy và lại tung lên lần nữa, cao
hơn lần trước. Lần này cô gái rơi xuống đất chỉ c̣n là một cái xác mềm nhũn
bê bết máu. Bây giờ voi dùng chân trước chà đạp lên xác nạn nhân cho đến khi
nát bấy thành đống bùn màu đỏ.
-
- Đến lượt Bùi Thị Xuân, bọn đao phủ mới phát hiện trong lớp áo quần bà đă
quấn chặt thân thể bằng lụa để tránh sự lơa lồ khi bị voi giày. Chúng định
tháo gỡ nhưng không kịp nữa rồi v́ con voi đang hăng máu xồng xộc chạy tới
toan làm phận sự như lần trước. Bà vẫn đứng b́nh thản, nét mặt không hề biến
sắc, đợi voi đến gần bỗng thét lên một tiếng thật lớn, nhái theo khẩu lệnh
dùng để nạt những con voi bướng bỉnh. Voi giật ḿnh lùi bước rồi cong ṿi
quay đầu lại.
-
- Một sự kiện bất ngờ! Dân chúng lại càng thán phục người nữ tướng Tây Sơn
trước cái chết vẫn c̣n biết tiên liệu và vẫn c̣n oai quyền khiến voi dữ cũng
phải khiếp sợ. Gia Long ngự trên khán đài đang hí hửng bỗng sầm mặt lại
khiến viên Đề Đốc chỉ huy cuộc hành h́nh tái mặt, run lập cập, truyền loa
giục đao phủ thi hành án lệnh gấp. Viên quản tượng hốt hoảng dùng cây sào
nhọn đâm vào miệng voi và quát to bảo bà phải qú xuống cho voi khỏi sợ. C̣n
bọn giáp sĩ cũng vội vàng bắn hỏa pháo vào đít voi, buộc nó phải tiến tới
phía tội nhân. Con voi bị kích thích cùng cực trở nên hung tợn và như điên
dại, chạy bổ tới vội vă quấn lấy bà, tung lên cao rồi cong đuôi chạy quanh
pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hăi, làm hàng vạn người hoảng hốt
theo.
-
- Về cái chết của bà, giáo sĩ Bissachère c̣n cho biết trong đám vua quan
Tây Sơn bị Gia Long hành h́nh tại Phú Xuân chỉ có ba người gồm em vua Quang
Toản (9), quan Thiếu Phó Trần Quang Diệu và vợ là nữ Đại tướng Bùi Thị Xuân
là vẫn b́nh thản, mặt không biến sắc trong lúc bị hành h́nh.
-
- Ông Nguyễn Huyền Anh, trong Việt Nam Danh Nhân từ điển, đă nhận xét về
bà: "Có tài binh bị, bà thường ṭng chinh chống địch, lập được nhiều chiến
công. Là một nữ tướng rất dũng cảm và có độ lượng, bà không bao giờ giết
những quân đă chạy hay đầu hàng."
-
- Trong Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam có bài thơ vịnh bà:
-
- Vận nước đang xoay chuyển
- Quần thoa cũng vẫy vùng
- Liều thân lo cứu chúa
- Công trận quyết thay chồng
- Khảng khái khi lâm nạn
- Kiên trinh lúc khốn cùng
- Ngàn thu gương nữ kiệt
- Gương sáng hăy soi chung
-
- Ông Nguyễn Bá Huân (1848-1899), một danh sĩ B́nh Định có chân trong phong
trào Cần Vương của tỉnh nhà, chuyên nghiên cứu sử Tây Sơn để viết liệt
truyện qua các tác phẩm như Tây Sơn tiếm long lực, Cân quắc anh hùng truyện,
Tây Sơn danh tướng chinh nam truyện... Ông c̣n để lại bài thơ vịnh Bùi Thị
Xuân (Vịnh phu nhân Bùi Thị Xuân)
-
- Cân quắc do tư báo quốc cừu
- Khả liên di hận phó đông lưu
- Dạ lan mỗi độc Tây Sơn sử
- Phảng phất phương dung hiện án đầu
- Việt Thao dịch:
-
- Phận gái lo tṛn chuyện nước non
- Thương thay mối hận chảy về đông
- Đêm khuya lần đọc Tây Sơn sử
- Phảng phất dung nhan trước án c̣n
-
- Và trên vùng đất quê hương của bà, miền sông Côn, người đời sauc ó bài
thơ hết lời ca tụng, rất phổ biến:
-
- Xưa nay khăn yếm vượt mày râu,
- Bùi Thị phu nhân đứng bậc đầu.
- Chém tướng, chặt cờ, khoe kiếm sắc,
- Vào thần, ra quỷ, tỏ mưu sâu.
- Quên nhà, nợ nước, đem toan trước,
- V́ nước, thù nhà, để tính sau.
- Tài đức ngh́n thu c̣n nức tiếng,
- Non c̣n chảy ngọc biết v́ đâu?
-
- Với tài đức và gương dũng cảm ấy, anh thư Bùi Thị Xuân đáng đứng riêng
một danh sách và vượt hẳn các nhân vật nữ ở B́nh Định đă nêu trên.
-
- Chú thích:
- 1. Tràn bộ: xê dịch nhanh sang bên trái hay bên phải để tránh đ̣n của đối
thủ.
- 2. Hoành bộ: quay ngược trở lại để tấn công vào chỗ sơ hở của đối thủ.
- 3. Kịt ngựa: thế vơ tiến thẳng tới hoặc tiến sang bên phải, bên trái của
đối thủ mà bàn chân không rời mặt đất.
- 4. Đứng ngựa: thế đứng mà bắp đùi song song với mặt đất để bảo vệ phần hạ
bộ.
- 5. Bản Tân: tức Bến Ván, tên của bến sông Trầu ở làng An Tân phía namcửa
Đại, thuộc tỉnh Quảng Nam.
- 6. Trấn Ninh: thuộc xă Trấn Ninh, sau đổi là Phù Ninh, huyện Phong Lộc
phủ Quảng Trạch tỉnh Quảng B́nh.
- 7. Theo Thiên Nam nhân vật chí bà Bùi Thị Xuân bị xử lăng tŕ. Các sách
sau này viết về cái chết của bà đều dựa vào một trong hai thuyết ấy.
- 8. Theo tài liệu của Quỳnh Cư trong Những v́ sao đất nước, tập 5, trang
228.
- 9. Vua Nguyễn Quang Toản có bốn người em: Quang Thùy tự tử ở ngoài Bắc,
c̣n Quang Bàn, Quang Duy và Quang Thiệu cùng bị bắt với vua anh và bị đóng
cũi giải về Phú Xuân chịu cảnh gia h́nh.
Bài Đọc Thêm
Đánh gậy
: Môn vơ truyền
thống
Phan Quỳnh
Nhà vơ xưa cho
rằng gậy là tiền
thân của các
loại binh khí
cầm tay cổ điển
khác. Gậy vót
nhọn có thể trở
thành dáo, lao
hay ngọn bút v.v...
Gậy c̣n được gọi
là Roi, Hèo,
Trượng, Tiên,
hay Côn ... và
có nhiều loại
dài ngắn khác
nhau . Gậy dài
được gọi là Gậy
Bẩy hay Trung
B́nh Tiên, dài
bẩy thước ta (khoảng
2,80 mét); gậy
ngắn có tên là
Gậy Ba dài ba
thước ta (khoảng
1,20 mét) tiết
diện tṛn. Gậy
ngắn tiết diện
vuông hay chữ
nhật được gọi là
tay thước hay
giản. (Đôi khi
giản có tiết
diện lục giác và
cán cầm). Nhiều
ḷ vơ xưa thực
dụng hơn, không
phân chia gậy,
côn theo thước
tấc như trên mà
linh động căn cứ
vào tầm vóc lớn
nhỏ của từng
người xử dụng,
căn cứ vào chiều
cao từng vơ sinh
để phân chia gậy
ra nhiều loại
dài ngắn với
những tên khác
nhau như Trường
Côn, Tề Mi Côn,
Trung Côn, hay
Đoản Côn. Đoản
côn có chiều dài
từ bả vai hay
nách xuống tới
đầu ngón tay
người xử dụng
duỗi thẳng.
Trung côn dài từ
mặt đất chân
đứng thẳng đến
ngực người xử
dụng. Tề mi côn
dài từ mặt đất
đến ngang tầm mi
mắt. Trường côn
dài nhất, từ mặt
đất tới đầu ngón
tay với thẳng
của người xử
dụng (được gọi
là "dài một đầu
một với") . Do
đó Tề Mi Côn của
người này có thể
là Trung Côn của
người khác.
Đánh gậy là môn
vơ chiến đấu và
cũng là môn thể
thao được h́nh
thành rất sớm ở
nước ta . Truyền
thuyết Phủ Đổng
Thiên Vương nói
lên gậy đă được
xử dụng nhiều và
phổ biến từ hồi
đầu thuở các vua
Hùng dựng nước.
Cậu bé đánh giặc
Ân bằng ngựa sắt,
roi sắt. Chưa
hết, roi sắt bị
gẫy, cậu bé dũng
sĩ anh hùng làng
Gióng đă nhổ
từng khóm tre
ngà làm roi quay
tít hàng trăm
ṿng rồi quất
mạnh xuống đầu
giặc :
Đứa th́ sứt mũi
sứt tai,
Đứa th́ chết
nhóc v́ gai tre
ngà.
(Bài ca Hội
Gióng)
Truyền thuyết
cho biết thêm
theo Thánh Gióng
đi đánh giặc c̣n
có ông Đường
Ghềnh (Trung Mầu,
Gia Lâm) cầm vồ
đập đất, có đoàn
trẻ chăn trâu
Hội Xá (Gia Lâm)
cầm roi, cầm
khăng, có người
câu cá vác cần
câu đuổi giặc.
Gậy đă gắn liền
vào sinh hoạt
hàng ngày của tổ
tiên chúng ta .
Gia đ́nh nào
trước đây cũng
có cái gậy dựng
ở góc nhà. Cái
then cài cửa,
cái cán cuốc,
cán xẻng, cái
mái chèo thuyền,
cái bắp cầy, đ̣n
gánh, cần câu,
v.v. ... lúc
biến cũng dễ
dàng trở thành
cây gậy ngừa
pḥng bất trắc.
Tới dịp hội hè
đ́nh đám, đánh
gậy là môn thể
thao được thanh
niên trai tráng
trong làng đua
nhau thi sức ,
trổ tài . Họ lập
ra những phường
hội để tập dượt,
để giúp nhau
trau dồi tài
nghệ, tinh luyện
về môn đánh gậy
. Tác giả Toan
Ánh nói về ngày
hội thi đấu
trung b́nh tiên
xưa như sau :
" Thường tại các
hội quê, khi có
đấu trung b́nh
tiên dân làng
đều có treo giải
như giải đánh
vật hoặc giải
bơi thuyền hoặc
như nhiều cuộc
vui xuân khác
vậy. Các vơ sĩ
dự cuộc đấu roi,
v́ giải thưởng
th́ ít, v́ tinh
thần thượng vơ,
nhất là v́ danh
dự của từng ḷ
roi th́ nhiều.
Hai tiếng ḷ roi
để chỉ những tay
chơi trung b́nh
tiên xuất thân ở
một xă nào, hoặc
ở một nhóm nào,
có người huấn
luyện chỉ dẫn.
"Đánh trung b́nh
tiên, đánh tay
đôi, ai đánh
trúng địch thủ
vào những chỗ
hiểm và đánh
trúng nhiều được
coi là thắng.
"Trong cuộc đấu,
chiếc gậy thường
được bịt giẻ ở
đầu để tránh sự
nguy hiểm cho
các đấu thủ. Đầu
bịt giẻ, được
nhúng vào nước
vôi trắng, để
một khi địch thủ
nào đánh trúng
đối phương sẽ có
dấu vết để lại.
Vết vôi ở người
mỗi địch thủ
giúp cho ban
giám khảo xét
định hơn thua.
Trận đấu gồm
nhiều hợp và mỗi
hợp tính theo
những động tác
của các đối thủ".
(
Năm 1258, quân
Nguyên lần thứ
nhất sang xâm
lược Đại Việt.
Khi đă chiếm
được Thăng Long,
bọn giặc xua
quân đi càn quét,
cướp phá các
vùng lân cận.
Tới Cổ Sở (nay
là Yên Sở phía
tây ngoại thành
Hà Nội) , giặc
bị nhân dân
trong vùng dùng
gậy, dùng dáo
đánh cho thua to
. Nói về trận
đánh này, sử cũ
đă ghi :" Đời
Nguyên Phong (Trần
Thái Tông), quân
Thoát Hoan vào
cướp, khi đến xă
Cổ Sở ngựa không
tiến được ,
người trong xă
chống phá được
giặc".
Sử cũ cũng ghi
:"Năm Mậu Tuất
(1298) (đời Trần
Anh Tông), mùa
thu tháng tám
thi đấu gậy ".
Tuy sử không
thuật rơ thể
thức thi đấu thế
nào, song cuộc
thi được kể là ở
triều Trần, diễn
ra sau khi đất
nước đă ba lần
đánh thắng giặc
Mông Cổ và cuộc
thi đấu có ư
nghĩa khuyến
khích quân sĩ và
nhân dân trong
nước mài sắc
cảnh giác, luôn
luôn tập luyện
sẵn sàng đứng
lên chiến đấu
đập tan mọi cuộc
ngoại xâm. Một
sự kiện cũng
liên quan đến
đánh gậy đă được
Đại Việt Sử Kư
Toàn Thư ghi
chép : Quí Hợi,
[Đại Khánh] năm
thứ 10 [1323] ,
mùa thu, tháng
8, ngày 22, vua
ngự đến nhà Thái
Học. Có tên Mặc
trong quân Thiên
thuộc ở Hoàng
Giang đỗ khoa
thi Thái Học
sinh, vua xuống
chiếu bắt trở
lại quân ngũ,
làm quân lại
quân Thiên đinh,
đến khi thi đánh
gậy, [Mặc] lại
đỗ cao (2) .
Đánh gậy là một
môn vơ truyền
thống của dân
tộc đă được
nhiều người
ngưỡng mộ và tập
luyện. Không
những thanh niên
trai tráng tập
luyện mà ngay cả
nữ giới cũng
trau dồi kỹ
thuật chiến đấu
này :
Ai vô B́nh Định
mà coi,
Đàn bà cũng biết
cầm roi đi quờn
(quyền).
(Ca dao)
Tháng 11 năm Mậu
Thân 1788 quân
Măn Thanh xâm
chiếm Thăng
Long, Bắc B́nh
Vương Nguyễn
Huệ, sau khi
đăng quang tại
Phú Xuân (Huế),
vội kéo đại binh
thần tốc đi Bắc
phạt. Tới Nghệ
An, nhà vua dừng
lại đây vài ngày
để mộ thêm quân
và nhanh chóng
tuyển dụng được
trăm ngàn tân
binh. Theo
truyền thuyết
vùng Thanh Nghệ,
cả cánh rừng tre
rộng lớn nơi đây
đă được nhà vua
trưng dụng để
lấy tre làm binh
khí, làm quân
dụng cho đoàn
tân binh nghĩa
quân này. Điều
đó nói lên gậy
tre vót nhọn có
lẽ là binh khí
chủ yếu của đoàn
tân nghĩa binh,
bởi với thời
gian ngắn ngủi
kỷ lục không dễ
rèn đúc đủ binh
khí bằng sắt
thép trang bị
cho cả trăm ngàn
quân.
Tới thế kỷ 19,
vơ gậy ở nước ta
đă được phát huy
tới tŕnh độ
cao. Gậy dùng để
tập và thi lúc
này ngoài gậy
tre c̣n có hai
loại nữa là sắt
và gỗ. Gậy sắt
theo qui định có
loại dài hơn 6
thước 3 tấc ta
(khoảng 1,50
mét) và nặng tới
40 cân ta (
khoảng 25 kg);
c̣n gậy gỗ dài 6
thước 5 tấc với
chu vi 2 tấc 6
phân. Việc thi
gậy thời này có
hai môn : múa và
đấu. Múa gậy để
biểu diễn tài
khéo léo và sức
mạnh. Đấu gậy để
thẩm định kỹ
thuật chính xác,
dũng mănh và
linh hoạt cần
thiết cho chiến
đấu.
Thể thức thi
Hội, ngoài các
môn vơ bắt buộc
phải thi khác,
riêng môn đấu
gậy đầu thế kỷ
19 sử sách có
nói rơ : "Thi
đấu côn gỗ cứ
một người thi
đấu với hai
người, người nào
thắng luôn cả
hai là hạng ưu;
thắng một người
và ngang sức
(ḥa) một người
là hạng b́nh ;
thắng một người
và kém (thua)
một người hoặc
ngang sức hai
người là hạng
thứ ; không
thắng là hạng
liệt ". Rơ ràng
đây là môn đấu
đ̣i hỏi người
thi phải có tài
năng, sức lực,
dũng cảm, và mưu
trí. Đó là cuộc
thi đấu gậy để
đạt danh hiệu Cử
Nhân Vơ.
C̣n đấu gậy
trong thi Đ́nh
th́ mức độ yêu
cầu cao hơn. Một
người phải đấu
với năm người,
thắng cả mới
được là ưu; nếu
chỉ thắng bốn
ngang sức một
hay thắng ba
ngang sức hai là
b́nh. C̣n thắng
hai ngang sức ba
hoặc thắng một
ngang sức bốn là
thứ ; không
thắng là liệt.
Đó là cuộc thi
đấu gậy để đạt
danh hiệu Tiến
Sĩ Vơ.
Song dù thi Hội
hay thi Đ́nh,
người thi đều
phải qua cuộc
thử sức bằng môn
múa hai loại gậy
gỗ và sắt. Yêu
cầu múa phải
nhanh, mạnh,
khéo, gọn, ... ,
gậy múa phải
quay tít trên
cao và bao kín
quanh ḿnh,
không trống
không hở.
Chàng Lía, một
dũng sĩ đất Qui
Nhơn B́nh Định
nổi lên chống
bất công của
triều đ́nh nhà
Nguyễn, có tài
đánh gậy rất
khéo léo , tinh
vi :
Đường côn trọn
vẹn trăm bề,
Múa như giông tố
tiếng nghe vù vù
.
( Vè chàng Lía )
Khi quân Pháp nổ
súng tấn công
cướp thành Gia
Định năm 1859,
nhân dân Nam Bộ
đứng lên dùng
gậy tầm vông
xông ra chống
giặc Pháp cứu
nước. Tinh thần
chiến đấu ngoan
cường của nghĩa
quân dưới trướng
chủ tướng Trương
Định đă được cụ
Nguyễn Đ́nh
Chiểu ca ngợi
trong bài " Văn
tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc " nổi
tiếng :
Ngoài cật có một
manh áo vải,
Trong tay cầm
một ngọn tầm
vông.
Các thế vơ gậy
cổ truyền với
những đ̣n miếng
lợi hại mỗi địa
phương trên đất
nước, mỗi ḷ vơ
xưa có những đặc
tính khác nhau .
Có ḷ vơ thích
xử dụng gậy dài,
có ḷ chỉ chuyên
luyện gậy ngắn.
Về kỹ thuật cầm
gậy, cầm côn,
thường dùng cả
hai tay nhưng
cũng có thể xử
dụng một tay cho
gậy ngắn, và có
nhiều lối nắm
cầm gậy khác
nhau tùy theo
thế vơ hay đấu
trường. Thông
thường có hai
lối cầm gậy dài
: Nhật nguyệt áp
chưởng và Long
trảo hộ châu .
Nhật nguyệt áp
chưởng là lối
cầm gậy hai tay
đối nhau hai bên
, tay trong tay
ngoài nắm chặt
gậy nằm gọn ở
giữa hai ḷng
bàn tay. Long
trảo hộ châu là
lối cầm gậy bằng
mười đầu móng
tay và cả hai
tay đều cùng ở
một phía gậy .
Để tạm kết thúc,
xin đơn cử hai
bài vơ gậy cổ
truyền, một bài
về gậy dài, bài
"Lữ Vọng Tâm
Côn" và một bài
về gậy ngắn, bài
"Hoàng Kim Giản
Pháp".
I/ Lữ Vọng Tâm
Côn
Thượng tŕnh thọ
thế lưỡng biên
khai ,
Tam tấn xà
thương nhất điểm
lai ,
Bảo tử kinh xa
hồi tọa mă ,
Kinh châu hổ cứ
trấn Trung sơn ,
Điểm thủy phong
đao phi chiếc
dực .
Thạch bàn Lữ
Vọng tọa lư ngư
, (2)
Phi khứ phi lai
biên quơ thảo ,
Đàng địa phi xa
luyện trung
thiên .
II/ Hoàng Kim
Giản Pháp
B́nh thân lập
thế ,
Lưỡng long thủ
châu ,
Khuynh thân bái
tổ ,
Thiềm thử vọng
nguyệt ,
Kim giản bạt sơn
,
Tiềm tàng long
hổ ,
Phượng vũ xuyên
lâm ,
Phi giao đoạt
ngọc ,
Mănh sư trấn
động ,
Cuồng phong tảo
diệp nhất,
Cuồng phong tảo
diệp nh́,
Tiềm tàng long
hổ ,
Phượng vũ xuyên
lâm ,
Phi giao đoạt
ngọc ,
Mănh sư trấn
động ,
Cuồng phong tảo
diệp ,
Tiềm tàng long
hổ ,
Lăo tiều quải
sơn ,
Thiềm thử vọng
nguyệt ,
Lăo tiều quải
sơn ,
Vân gia hồi giản
,
Đoạt mệnh kim
giản ,
Khuynh thân bái
tổ . /.
Phan Quỳnh.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
Toan Ánh,
Nếp cũ . Hội hè
đ́nh đám.
Saigon, Sao Mai
xb, 1974, trang
278.
Đai Việt Sử Kư
Toàn Thư, mộc
bản khắc năm
Chính Ḥa thứ
18, tập II.
Có nơi đọc là "
Thạch bàn lưỡng
vọng tọa lư ngư
".
Tríh từ:
http://www.vovinamcanada.org/thuvien/thvothuat/dg.html
|