|   | 
		
		 Lịch Sử Bình Định 
		  
		Khác với Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, ở Nam Trung Bộ, loại hình di tích đá cũ 
		vẫn chưa được tìm thấy, mà mới chỉ phát hiện được các di tích đá mới 
		tiếp sau văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, nhưng cũng rất ít. Cho đến nay mới 
		chỉ phát hiện và khai quật được một di chỉ duy nhất thuộc giai đoạn này 
		ở ven biển tỉnh Quảng Nam. Bình Định cũng là tỉnh nằm trong dải đất Nam 
		Trung Bộ, nhưng cũng  chưa thấy có di tích nào thuộc giai đoạn sơ kỳ đá 
		mới, mà mới chỉ phát hiện được di tích ở giai đoạn hậu kỳ đá mới và 
		những hiện vật mang đặc trưng của giai đoạn này là một vài chiếc rìu bôn 
		phát hiện được một cách ngẫu nhiên ở khu vực Hoài Nhơn và Vân Canh, phát 
		hiện này chưa được thẩm định nghiên cứu. Cho nên, có thể nói văn hóa 
		thời tiền sử và sơ sử Bình Định chỉ, có từ giai đoạn sơ kỳ đến hậu kỳ 
		trong giai đoạn kim khí. Đại diện cho nền văn hóa trong giai đoạn này là “Văn 
		hoá Sa Huỳnh”. 
		
		Từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XVII, trên dải đất miền Trung Việt Nam 
		đã hình thành một Nhà nước Cổ đại, đó là Nhà nước Chămpa. Nhà nước 
		Chămpa được xây dựng trên một nền tảng được kế thừa thành tựu văn hóa Sa 
		Huỳnh trước đó, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung 
		Hoa cùng nhiều yếu tố của các nền văn hóa khác trong khu vực. Dân tộc 
		Chăm trong suốt 16 thế kỷ, khởi nguồn từ năm 192 và kết thúc vai trò 
		lịch sử của nó đã để lại một nền văn hóa riêng, độc đáo, góp phần làm 
		giàu kho tàng văn hóa của nhân loại và cũng như cộng đồng các dân tộc 
		Việt Nam sau này. 
		
		Bình Định nằm ở trung tâm của dải đất miền Trung với gần 5 thế kỷ giữ 
		vai trò trung tâm của đất nước, mặc dù có nhiều bước thăng trầm, nhưng 
		văn hóa Chămpa ở đây vẫn phát triển đến khi vùng đất này mất vai trò 
		trung tâm của nó, dấu tích văn hóa còn để lại vô cùng phong phú, đa dạng 
		về loại hình, nhiều về số lượng và trở thành đối tượng quan trọng không 
		thể bỏ qua với những người nghiên cứu về văn hóa Chămpa nói chung và 
		giai đoạn Vijaya nói riêng. 
		
		Từ năm 1471, vua Lê Thánh Tông cho lập phủ Hoài Nhơn -lãnh thổ chỉ đến 
		đèo Cù Mông: "Phủ Hoài Nhơn lệ vào Quảng Nam thừa tuyên, nhưng từ  núi 
		Cù Mông về nam vẫn là người Man, người Lạo ở, chưa có thì giờ để kinh lý 
		đến". 
		
		Sau khi trở về kinh đô Thăng Long, tháng 7 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), 
		vua Lê Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành mới chiếm đặt Quảng Nam Thừa tuyên  
		và vệ Thăng Hoa, đặt 3 ty để trông coi việc dân, việc nước ở Quảng Nam 
		Thừa tuyên.    
		
		Các làng xã từ đó cũng được hình thành. Lúc mới thành lập, 3 huyện của 
		phủ Hoài Nhơn có 33 xã: Bồng Sơn:7 xã, Phù Ly: 8 xã, Tuy Viễn: 18 xã. 
		
		Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên 
		Nam dư hạ tập cho biết: 
		dưới thời Hồng Đức, phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và hơn 100 xã: huyện Bồng 
		Sơn có 7 tổng, 32 xã; huyện Phù Ly có 6 tổng, 60 xã; huyện Tuy Viễn có 6 
		tổng... 
		
		Tháng 8 năm Mậu Ngọ (1498), nhà Lê cho đặt các sở hiệu của 3 vệ Thăng 
		Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn thuộc đô ty Quảng Nam. 
		
		Sau một thế kỷ mở đất, người Việt đã vào lập làng ở các vùng đất của phủ 
		Hoài Nhơn nay là tỉnh Bình Định. 
		
		Các chúa Nguyễn xuất hiện  trong lịch sử Việt Nam lúc đầu gắn với vùng 
		đất Thuận Hoá, sau đó là Quảng Nam rồi phát triển lập nên xứ Đàng Trong. 
		
		Tháng 11 năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn nhậm 
		Thuận Hoá. Năm 1570, vua Lê triệu tổng binh Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh 
		về trấn thủ Nghệ An. Chúa Nguyễn Hoàng được kiêm lãnh hai xứ Thuận Hoá, 
		Quảng Nam. Xứ Quảng Nam vào thời điểm Nguyễn Hoàng cai trị có 3 phủ, 9 
		huyện; phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang. Phủ Tư 
		Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang. Phủ Hoài Nhơn có 3 
		huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Chúa Nguyễn Hoàng đeo ấn Tổng trấn 
		tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa. 
		
		Để nắm thêm tình hình phủ Hoài Nhơn, năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho mời 
		khám lý phủ Hoài Nhơn Trần Đức Hoà (bấy giờ gọi là Cống quận công, con 
		của Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân - Phó tướng dinh Quảng Nam) đến yết 
		kiến. Trần Đức Hoà được chúa đãi rất hậu, sau đó, chúa trở về Thuận Hoá. 
		
		Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn. 
		
		Năm 1651, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, chúa cho đổi phủ Quy Nhơn 
		thành phủ Quy Ninh. Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ 
		là Quy Nhơn và vẫn được gọi suốt thời kỳ Tây Sơn. 
		
		Đàng Trong thế kỷ XVII là nạn nhân của sự bột phát khốc liệt của cuộc 
		chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Để tồn tại trong thế đối trọng với Đàng 
		Ngoài, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phải ra sức mở mang phát triển lãnh 
		thổ và kinh tế. Chiến tranh chấm dứt (1672), Đàng Trong khẳng định được 
		mình qua những thập kỷ lớn mạnh, trưởng thành và thử thách. Các chúa 
		Nguyễn đã thắng khi chặn được quân Trịnh với sức áp đảo từ phía bắc Sông 
		Gianh, thu phục được người Miên, người Hoa để mở cõi về phía nam và đưa 
		dân vào sinh sống, làm ăn ở vùng Đồng Nai, Gia Định. Nhưng các chúa 
		Nguyễn cũng chuẩn bị đương đầu với một nguy cơ mới nảy sinh trong lòng 
		xã hội Đàng Trong, đó là các cuộc khởi nghĩa của người nông dân - vốn là 
		nạn nhân của chế độ phong kiến. Họ là những di dân vào Thuận- Quảng làm 
		ăn nên đã đồng tình với các chúa Nguyễn, đánh Trịnh để bảo vệ quê hương, 
		bảo vệ thành quả lao động và cuộc sống của mình. Sau chiến tranh, các 
		chúa Nguyễn tiếp tục gia tăng cường độ bóc lột qua các chính sách thuế 
		má, phu dịch để xây dựng dinh phủ, nuôi sống bộ máy cai trị; một  bộ 
		phận quan chức trở nên nhũng lạm, xa hoa, xã hội với nhiều mâu thuẫn nảy 
		sinh. Phủ Quy Nhơn là một trong những nơi chịu áp bức bóc lột nặng nề 
		nhất. Nông dân, thương nhân, các dân tộc ít người đều căm phẫn tột độ. 
		Năm 1695, một thương nhân ở Quy Nhơn là Quảng Phú đã liên kết với thương 
		nhân ở phủ Quảng Ngãi là Linh Vương mua sắm binh thuyền, vũ khí khởi 
		nghĩa chống chúa Nguyễn. Thế kỷ XVIII, cuộc khởi nghĩa của Lía ở phủ Quy 
		Nhơn đã nói lên một khí thế đấu tranh quyết liệt của người nông dân 
		chống địa chủ và cường quyền áp bức. Đó là khúc nhạc dạo đầu của bản anh 
		hùng ca hoành tráng của các thủ lĩnh nông dân Tây Sơn khi Nguyễn Nhạc đã 
		tụ nghĩa ở đất Tây Sơn với những người có nghĩa khí, chống áp bức đã dấy 
		lên cuộc khởi nghĩa (1771) làm rung chuyển cả cơ đồ của chúa Nguyễn ở 
		Đàng Trong. 
		
		Nguyễn Nhạc đã thành công hơn Lía và các thủ lĩnh nông dân khác ở Đàng 
		Ngoài khi chọn được căn cứ địa ở vùng Tây Sơn thượng đạo an toàn, bí 
		mật, vững chắc, được nhiều tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Nông dân nghèo, 
		hào phú, thương nhân, các dân tộc ít người... ra sức ủng hộ. Nguyễn Nhạc 
		có nghệ thuật thu phục lòng người, có nghĩa cử với dân nghèo nên đã  đưa 
		cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi có ý nghĩa trong buổi đầu của phong trào 
		Tây Sơn. 
		
		Mùa thu năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn mở rộng căn cứ  xuống vùng Tây Sơn 
		hạ đạo, lấy ấp Kiên Thành, sinh quán các thủ lĩnh Tây Sơn làm đại bản 
		doanh. Năm đó, Nguyễn Nhạc quyết định cho nghĩa quân đánh chiếm phủ 
		thành Quy Nhơn, nay ở  Châu Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn. Nhờ 
		mưu  lược của Giáo Hiến, mạo hiểm của Nguyễn Nhạc, sự đồng lòng của các 
		tướng lĩnh và nghĩa quân, Nguyễn Nhạc đã cho nghĩa quân đánh chiếm phủ 
		thành Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ thành trốn. Nguyễn Nhạc 
		cho nghĩa quân đánh chiếm kho Càn Dương và Đạm Thủy. Phủ Quy Nhơn hoàn 
		toàn thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn. 
		
		Quân Tây Sơn chọn màu đỏ làm cờ nghĩa, lấy dân nghèo làm lực lượng đấu 
		tranh và mục tiêu phục vụ, lấy công bằng xã hội làm phương châm. Đối 
		tượng cuộc đấu tranh là bọn địa chủ, quan lại bóc lột hà hiếp nhân dân. 
		Quân Tây Sơn đến đâu các hào kiệt đều theo về, dân chúng nô nức hưởng 
		ứng, uy thế ngày mỗi tăng.         
		
		Bình Định là quê hương của các lãnh tụ Tây Sơn, là căn cứ địa của cuộc 
		khởi nghĩa, là nơi xuất phát phong trào rồi trưởng thành, phát triển ra 
		toàn quốc, là đất Kinh đô Hoàng đế Thái Đức và là chiến trường ác liệt 
		dài ngày giữa quân đội Tây Sơn thời Cảnh Thịnh với quân Nguyễn Ánh. 
		
		Trong 32 năm (1771-1802), nhân dân Bình Định đã theo Tây Sơn: là lãnh 
		tụ, là tướng lĩnh cao cấp, là quan chức, binh sĩ cùng mọi tầng lớp nhân 
		dân đã cống hiến hết mình cho trang sử hào hùng của dân tộc thời Tây 
		Sơn. Trí tuệ, tài năng, sức người, sức của của nhân dân Bình Định đã 
		đóng góp cho sự nghiệp Tây Sơn là vô bờ bến, sử sách không thể ghi hết 
		và cũng chưa ai có điều kiện biên chép, tổng kết. Nên cố gắng này chỉ là 
		mở đầu cho một việc làm to lớn, lâu dài, khó khăn và nhiều ý nghĩa nói 
		trên. 
		
		Trong buổi đầu khởi nghĩa, sự đóng góp của nhân dân phủ Quy Nhơn vô cùng 
		quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của phong trào Tây Sơn ở một 
		chặng đường khó khăn nhất, bước ngoặt đưa phong trào Tây Sơn phát triển 
		ra cả xứ Đàng Trong. 
		
		Sau này, phong trào Tây Sơn phát triển ra toàn quốc cùng với thiên tài  
		Nguyễn Huệ, những người con ưu tú của phủ Quy Nhơn cũng góp phần quan 
		trọng tạo nên các chiến công đánh Nguyễn, đánh Xiêm ở Gia Định, diệt 
		Trịnh lật đổ nhà Lê ở Phú Xuân-Thăng Long, quét sạch 29 vạn quân Thanh 
		xâm lược vào xuân Kỷ Dậu (1789). 
		
		Dưới triều Nguyễn, Bình Định là một trọng trấn ở phía nam Kinh thành. 
		Điều đó được thể  hiện trong tổ chức hành chính và cai trị; chế độ quan 
		lại và phòng vệ ở miền núi và vùng biển; tổ chức giáo dục, thi cử văn 
		lẫn võ cho cả khu vực của các tỉnh từ Quảng Ngãi trở vào Bình Thuận. 
		
		Vốn là vùng đất đối trọng của triều Nguyễn nên các vua Nguyễn có chính 
		sách cai trị ở Bình Định rất hà khắc, cứng rắn nhằm ngăn chặn các cuộc 
		khởi nghĩa của nhân dân. Nhưng cũng không đè bẹp được ý chí, tinh thần 
		đấu tranh của các tầng lớp nhân dân bị áp bức trong xã hội: hậu duệ của 
		triều Tây Sơn, nông dân, dân tộc ít người, tiểu quan chức... 
		
		Năm 1799, sau khi chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh cho đổi làm thành 
		Bình Định, sau đó đặt dinh Bình Định (1802). Năm 1819, đổi tên ấp Tây 
		Sơn - nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thành ấp An Tây. 
		
		Dưới triều Nguyễn, tình hình xã hội ở Bình Định luôn biểu hiện những mâu 
		thuẫn và đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhất là phát hiện các 
		hậu duệ nhà Tây Sơn, các vua Gia Long, Minh Mạng đã dùng những biện pháp 
		trừng trị tàn ác. Bình Định luôn là mối bận tâm của triều đình Huế. 
		
		Bình Định là vùng "trọng điểm bình định" của triều Nguyễn đối với nhà 
		Tây Sơn, nhưng triều Nguyễn cũng phải thừa nhận tính khách quan về một 
		vùng đất có vị trí chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục đối với 
		các tỉnh miền Trung thuở đó, nên các vua Gia Long, Minh Mạng một mặt ra 
		sức trấn áp nhưng mặt khác lại mị dân thể hiện trong các chiếu dụ, ban 
		bố trong quan lại và nhân dân. Thiết lập phủ Quy Nhơn, dinh Bình Định 
		thời Gia Long, tổ chức lập lại địa bạ thời Minh Mạng  với ý định làm thí 
		điểm cho cả nước. Triều Nguyễn  còn tổ chức trường thi hương và mở 
		trường thi võ tại Bình Định để tuyển chọn nhân tài cho đất nước. 
		
		Dưới thời Nguyễn cũng hình thành đô thị Quy Nhơn và trở thành trung tâm 
		kinh tế của tỉnh Bình Định trong thế kỷ XIX; là xu thế phát triển trong 
		thời Pháp thuộc, có tác dụng to lớn trong thế kỷ XX 
		
		Hòa chung vào công cuộc chuẩn bị chống ngoại xâm của cả nước, nhân dân 
		Bình Định hăng hái theo lệnh triều đình Huế để tăng cường và chấn chỉnh 
		lực lượng quân sự địa phương. Những thanh niên, trai tráng khỏe mạnh, kể 
		cả những người theo đạo Gia tô cũng được thu nhận, còn những người già 
		yếu bị thải hồi khỏi quân ngũ. Các trạm, sở, phủ, huyện được triều đình 
		tiếp tế, cung ứng thêm vũ khí và lương thực. Các đồn, bảo, tỉnh thành 
		được điều động thêm lực lượng và tăng cường luyện tập quân sự. Sơn phòng 
		Nghĩa Định được khẩn trương củng cố và trở thành địa điểm tập trung binh 
		lực, lương thảo và đạn dược từ ở địa phương. Triều đình còn điều động về 
		Bình Định những quan lại có năng lực để lãnh đạo cuộc chiến đấu ở đây. 
		
		Ngoài ra, ở vùng ven biển Bình Định, quân triều đình cũng chia nhau đóng 
		giữ những nơi hiểm yếu. Các cửa biển Tam Quan, An Dũ (thuộc huyện Hoài 
		Nhơn), Hà Ra (Phù Mỹ), Đề Gi (Phù Cát)... được tăng cường quân lính đồn 
		trú và các đội thủy binh... nhằm ngăn chặn quân Pháp từ biển đánh vào. Ở 
		Bình Định, có quân của cai cơ Tăng Doãn Văn, người làng An Thường, xã Ân 
		Thạnh, huyện Hoài Ân, vốn tham gia trong lực lượng của Trần Xuân Soạn 
		đóng ở Bắc Kỳ, được Tôn Thất Thuyết cử về giữ chức cai cơ chỉ huy đội 
		binh đóng ở đồn An Dũ. Trong đội quân của Tăng Doãn Văn còn rất nhiều 
		văn nhân và võ sư yêu nước như Đội Dung (người Phù Mỹ), Lê Thức (người 
		Hoài Ân), Lê Đạt (người Hoài Nhơn)... 
		
		Trong vòng 3 năm (1883-1885), ở Bình Định đã huy động được một đạo quân 
		ứng nghĩa hùng hậu. Ngoài quân sơn phòng, quân đồn trú trấn giữ các cửa 
		biển, lực lượng thân binh bảo vệ tỉnh thành, còn có lực lượng kháng 
		chiến của nhân dân, đó là đội quân hương binh, dân dũng. Cho đến khi 
		phong trào Cần Vương bùng nổ, lực lượng tham gia kháng chiến chống Pháp 
		ở Bình Định đã khá đông đảo, có tới hàng chục ngàn người cầm vũ khí 
		hưởng ứng lời kêu gọi chống Pháp của vua Hàm Nghi. 
		
		Mai Xuân Thưởng chọn vùng núi Lộc Đỗng (phía tây Phú Phong, nay thuộc 
		thôn Phú Hiệp, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) làm căn cứ kháng 
		chiến. Ông cho truyền hịch khắp nơi, vận động các tầng lớp nhân dân tập 
		hợp về Lộc Đỗng cùng lo việc đại nghĩa “Cần Vương”. Hưởng ứng lời kêu 
		gọi, các nhà hào phú tình nguyện đóng góp lương thực để chi dùng trong 
		quân, trai tráng rủ nhau kéo về Lộc Đỗng đầu quân ngày một thêm đông. Võ 
		tướng, văn thân như các ông Bùi Điền (người Phù Mỹ), Nguyễn Hóa, Trần 
		Trung và Trần Nhã (người Bình Khê), Nguyễn Can, Nguyễn Trọng Trì và Đặng 
		Thành Tích (người An Nhơn) đều ra giúp. Lực lượng kháng chiến suy tôn 
		Mai Xuân Thưởng làm Bình Tây Đại Nguyên Soái. Từ đây, lực lượng kháng 
		chiến ở Bình Định đã thống nhất thành một mối, phong trào vững mạnh bước 
		vào giai đoạn mới lập nên nhiều chiến công rực rỡ. 
		
		Trước sự lớn mạnh của phong trào Cần Vương Bình Định (làm chủ hầu hết 
		địa bàn Bình Định đồng thời mở rộng ảnh hưởng đến các tỉnh trung và nam 
		Trung Kỳ), triều đình Huế chỉ còn cách xin thực dân Pháp đưa viện binh 
		từ Sài Gòn ra Bình Định xúc tiến đàn áp phong trào. 
		
		Đàn áp xong phong trào Cần Vương ở Bình Định, thực dân Pháp cùng quân 
		đội triều đình tay sai củng cố lại chính quyền ở các tỉnh tả trực kỳ, bố 
		phòng cẩn mật đề phòng những cuộc khởi nghĩa mới có thể xảy ra. 
		
		Ở Bình Định, sau những nỗ lực chiến đấu chống Pháp đến cùng , đa số nhân 
		dân - những người ủng hộ và tham gia tích cực vào hai cuộc khởi nghĩa 
		trên - đã bị thực dân Pháp và vua quan nhà Nguyễn đàn áp, khủng bố rất 
		tàn khốc. Thế nhưng, người dân Bình Định vẫn không nản lòng, thối chí, 
		trái lại khi tổ chức Duy Tân Hội được sáng lập và phát huy ảnh hưởng của 
		Hội trên khắp ba miền đất nước, nhân dân Bình Định vẫn nhiệt tình hăng 
		hái tham gia, và họ tự hào được đóng góp cho phong trào một người con ưu 
		tú của quê hương, người anh hùng Tăng Bạt Hổ (Tăng Doãn Văn). 
		
		Trong lúc phong trào Đông Du mà Tăng Bạt Hổgópphần sáng lập đang khởi 
		động mạnh, thì ngày 27.8.1907, Tăng Bạt Hổđột ngột quađời. Sựnghiệp cứu 
		nước cứu dân đang còn dởdang lại được những đồng chí của ôngtiếp nối. 
		Phong trào ngày càng phát triển và cóảnh hưởng rộng lớn trong dưluậnxã 
		hội. Thực dân Pháp và triều đình Huếhốt hoảng đối phó. Một mặt chúng 
		khủngbố, ngăn cấm phong trào Đông Du hoạt động, một mặt thỏa hiệp, 
		nhường cho Nhậtmột sốquyền lợi buôn bán ởĐông Dương, với điều kiện chính 
		phủNhật phải trụcxuất những người Việt Nam yêu nước ra khỏi đất Nhật. Vì 
		vậy, cuối năm 1908,phong trào Đông Du tan rã. 
		
		Phong trào Đông Du và phong trào Duy Tân tuy khác nhau về phương thức 
		hành động, nhưng cũng cùng một con đường cách mạng theo khuynh hướng dân 
		chủ tư sản. Vì thế, mục tiêu công kích của phong trào Duy Tân cũng lại 
		là vua quan phong kiến thối nát, những phong tục tập quán và những tư 
		tưởng đạo đức phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, nhằm vận động 
		cải cách văn hóa, xã hội gắn liền với việc vận động lòng yêu nước, căm 
		thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang, 
		phong trào đã tích cực đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản với các yêu cầu: 
		"Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", hô hào chú trọng thực 
		nghiệp, lập hội kinh doanh, mở trường dạy học và tuyên truyền đời sống 
		mới". 
		
		Sau hàng loạt những cuộc bạo động vũ trang chống Pháp cuối thế kỷ XIX 
		không thành, khi ngọn gió dân chủ tư sản qua các tân thư, tân văn từ bên 
		ngoài dồn dập tràn vào đầu thế kỷ XX, nhân dân Bình Định háo hức tiếp 
		nhận một phương thức hoạt động cứu nước mới. Người châm ngòi cho phong 
		trào yêu nước theo phương thức mới bùng nổ ở Bình Định chính là Phan 
		Châu Trinh và những sáng lập viên của phong trào Duy Tân, như Huỳnh Thúc 
		Kháng, Trần Quý Cáp... 
		
		Ngày 6.4.1908, nhân dân Bình Định nổi dậy biểu tình chống thuế. Sự tham 
		gia của Hồ Sĩ Tạo đã lôi cuốn nhiều nhân sĩ Bình Định hưởng ứng và tham 
		gia đông đảo, uy tín của phong trào ngày càng tăng. Nông dân các phủ, 
		huyện lớp do tổng, lý sở tại chỉ dẫn, lớp tự động rầm rộ kéo về tỉnh 
		thành ngày một thêm đông. 
		
		Cuộc biểu tình chống thuế của nhân dân Bình Định năm 1908 đã bị thực dân 
		Pháp dìm trong biển máu. Nhiều người con yêu nước của quê hương hoặc bị 
		giết, hoặc bị đày ra Côn Đảo. Thế nhưng, người dân Bình Định chưa bao 
		giờ chịu khuất phục. Trái lại, ngọn lửa căm thù vẫn còn âm ỉ cháy trong 
		lòng mỗi người dân Bình Định, và chỉ 8 năm sau, ngọn lửa đấu tranh ấy 
		lại có dịp bùng lên mạnh mẽ. 
		
		Trong những năm 1925-1927, hàng loạt cuộc đấu tranh của nhân dân Bình 
		Định càng diễn ra sôi nổi. 
		
		Những cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân Bình Định khiến nhà cầm 
		quyền Pháp và tay sai hốt hoảng. 
		
		Tháng 2.1928, được sự giúp đỡ của Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng 
		Đồng chí hội Nam Kỳ tại Sài Gòn mà đại diện là Phan Trọng Quảng, Chi bộ 
		Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đầu tiên ở Bình Định được 
		thành lập tại nhà ông Tôn Chất ở thôn Cửu Lợi (Tam Quan Nam, Hoài Nhơn). 
		                                                                        
		                                        
		
		Sự ra đời của chi bộ Cửu Lợi đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong 
		phong trào cách mạng Bình Định, đưa phong trào đi theo con đường của chủ 
		nghĩa Mác-Lênin. Để có thể liên lạc thuận lợi với tổ chức Thanh Niên 
		Quảng Ngãi, chi bộ Cửu Lợi chọn công ty Kim Thạch ở Sa Huỳnh (Đức Phổ, 
		Quảng Ngãi), một hãng buôn do một số chí sĩ, thương nhân Hoài Nhơn và Sa 
		Huỳnh lập ra từ năm 1927, làm cơ sở liên lạc ở hai vùng. 
		
		Từ chi bộ đầu tiên ở Cửu Lợi, đến cuối năm 1928, đã có thêm các chi bộ 
		mới như chi bộ Thanh niên An Đỗ (Hoài Sơn), Tài Lương (Hoài Thanh), Dĩnh 
		Thạnh (Tam Quan). Từ các chi bộ này, cơ sở Thanh niên nhanh chóng phát 
		triển ra các làng Đại Hóa, An Thái (Tam Quan), Thành Sơn, An Sơn (Hoài 
		Châu), Châu Đê, Chương Hòa (Hoài Châu Bắc), Tường Sơn (Hoài Sơn), Thanh 
		Xuân (Hoài Hương), Bồng Sơn và Thiết  Đính... Đến cuối năm 1928, số hội 
		viên Thanh niên Hoài Nhơn lên đến gần 40 người, và hàng trăm hội viên 
		quần chúng tích cực được tập hợp vào các hội: Nông dân, Phụ nữ, Thiếu 
		niên, Cứu tế đỏ... Giữa năm 1928, Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí 
		hội Hoài Nhơn đặt được mối liên lạc chính thức với Kỳ bộ Việt Nam Thanh 
		niên Cách mạng Đồng chí hội Trung Kỳ và Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách 
		mạng Đồng chí hội Quảng Ngãi1. 
		Những biến chuyển đó đã tạo điều kiện chín muồi tiến tới thành lập Huyện 
		bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội để lãnh đạo chung phong 
		trào. Tháng 12.1928, Huyện bộ Hoài Nhơn được thành lập và Nguyễn Trân 
		được bầu làm bí thư. 
		
		Sau khi tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đẩy mạnh hoạt 
		động ở Hoài Nhơn được một thời gian ngắn, thì tổ chức Tân Việt cách mạng 
		Đảng cũng bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của mình vào Bình Định. Giữa năm 
		1928, Ngô Đức Đệ, nguyên Ủy viên Tỉnh bộ Tân Việt Hà Tĩnh được Tổng bộ 
		Tân Việt cách mạng Đảng cử vào Bình Định xây dựng cơ sở Đảng. Tại đây, 
		tính đến cuối năm 1928, Ngô Đức Đệ đã xây dựng được những cơ sở Tân Việt 
		đầu tiên ở nhà máy Đèn, hãng Vận tải đường thủy, ga ra Trần Sanh Thại, 
		trường Quốc học (Quy Nhơn) và một số cơ sở được xây dựng tại trường tiểu 
		học và công sở ở các huyện An Nhơn, Phù Mỹ, Bồng Sơn... 
		
		Cuối năm 1928, để tạo điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng và chỉ đạo 
		phong trào toàn khu vực Trung Trung Bộ, Ban liên tỉnh Tứ Định của Tân 
		Việt cách mạng Đảng được thành lập (gồm Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên 
		và Kon Tum) do Ngô Đức Đệ làm bí thư. 
		
		Trong 2 năm 1928-1929, hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt đã tập hợp 
		đông đảo các tầng lớp nhân dân yêu nước vào mặt trận cách mạng và phát 
		động được quần chúng ở một số vùng như Trà Quang (Mỹ Quang, Phù Mỹ), Hảo 
		Thiện, Cửu Lợi, An Đỗ (Hoài Nhơn)… 
		
		Như vậy, cho đến cuối năm 1928, ở Bình Định đã xuất hiện hai tổ chức 
		tiền thân của Đảng: Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Cửu 
		Lợi, Hoài Nhơn (ra đời đầu năm 1928) và Tân Việt ở Quy Nhơn (năm 1928). 
		Hai tổ chức này đã giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt phong trào 
		yêu nước cách mạng ở Bình Định nhanh chóng chuyển từ  khuynh hướng tư 
		sản sang một khuynh hướng mới tiến bộ - khuynh hướng vô sản, và định 
		hướng dần vào quỹ đạo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tạo tiền đề cần thiết 
		cho phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Định tiếp tục phát triển như 
		vũ bão dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. 
		
		Tháng 10.1930, hai tổ chức Đảng của huyện Hoài Nhơn và thành phố Quy 
		Nhơn chính thức nối liên lạc với nhau, thống nhất các kế hoạch hành 
		động. Sự ra đời của các tổ chức Đảng thành phố Quy Nhơn và huyện Hoài 
		Nhơn không chỉ đánh dấu bước ngoặt lịch sử quyết định của phong trào yêu 
		nước của nhân dân Bình Định, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phong 
		trào đấu tranh của nhân các huyện tiến lên. 
		
		Nhìn chung, trong những năm 1932-1935, phong trào cách mạng ở Bình Định 
		gặp nhiều khó khăn và tổn thất, nhưng với một sự cố gắng vượt bậc, những 
		tổ chức cơ sở Đảng và phong trào đấu tranh của quần chúng từng bước được 
		phục hồi và có những bước tiến triển đáng kể, bắt đầu bước vào thời kỳ 
		đấu tranh mới: đòi dân sinh, dân chủ. 
		
		Phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ trong thời kỳ 1936-1939 ở Bình 
		Định tuy bị thực dân Pháp tìm mọi cách cản trở, khủng bố, nhưng chưa bao 
		giờ nhân dân Bình Định nản lòng, lùi bước, ngược lại phong trào ngày 
		càng sôi động và gặt hái được nhiều kết quả có ý nghĩa. Sự lớn mạnh, 
		trưởng hành của phong trào là những chuẩn bị thiết thực cho nhân dân 
		Bình Định  cùng nhân dân cả nước bước vào một thời kỳ mới với những 
		thắng lợi mới: Thời kỳ trực tiếp đấu tranh cách mạng giành chính quyền 
		về tay nhân dân. 
		
		Ngày 3.9.1945, 30.000 đại biểu Việt Minh toàn tỉnh và đồng bào các giới, 
		dân tộc, các tôn giáo cùng nhân dân thành phố Quy Nhơn, với hơn 1.000 tự 
		vệ cứu quốc và tự vệ sắt tham gia cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi của 
		cuộc khởi nghĩa toàn tỉnh tại sân vận động Quy Nhơn. Tại đây, Ủy ban 
		Nhân dân Cách mạng lâm thời mới của tỉnh Bình Định, lấy tên là tỉnh Tăng 
		Bạt Hổ, được thành lập, do đồng chí Trần Quang Khanh làm Chủ tịch. 
		
		Như vậy, sau 15 năm hoạt động kiên cường, không mệt mỏi, Đảng bộ và nhân 
		dân Bình Định đã làm nên một cơn bão táp cách mạng vĩ đại, cuốn trôi bộ 
		máy chính quyền thống trị của đế quốc, phát xít và phong kiến. Thắng lợi 
		này đã kết thúc chặng đường đấu tranh đầy gian khổ nhưng quang vinh của 
		nhân dân Bình Định, đồng thời mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh 
		cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. 
		
		Suốt chặng đường lịch sử 60 năm (1885-1945), phong trào yêu nước chống 
		Pháp của nhân dân Bình Định trải qua ba giai đoạn với màu sắc, quan 
		điểm, tư tưởng, đường lối, chủ trương chính trị khác nhau: ngọn cờ Cần 
		Vương chống Pháp của giai cấp phong kiến cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu 
		nước mang màu sắc dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX, cao trào giải phóng dân 
		tộc theo con đường cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác-Lênin do Đảng Cộng 
		sản Việt Nam lãnh đạo từ 1930 đến 1945. Đây là những làn sóng nối tiếp 
		nhau dồn dập đánh vào thành trì của chế độ thực dân-phong kiến, mà lớp 
		sóng sau mạnh mẽ hơn lớp sóng trước gấp bội lần. 
		
		Tuy các phong trào đấu tranh yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đến những thập 
		niên đầu thế kỷ XX đều bị thực dân Pháp đàn áp và dìm trong bể máu, 
		nhưng nhân dân Bình Định vẫn không hề chịu khuất phục. Từ khi có ánh 
		sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga soi đường, đặc 
		biệt là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Bình 
		Định đã cùng nhân dân toàn tỉnh liên tục vùng dậy đấu tranh kiên cường 
		trong suốt 15 năm trời. Trải qua những thử thách từ cao trào 1930-1931, 
		giai đoạn hồi phục lực lượng 1932-1935, đến cuộc vận động dân chủ 
		1936-1939, rồi cao trào cứu nước giải phóng dân tộc 1939-1945, cuối cùng 
		Đảng bộ và nhân dân Bình Định cũng hoàn thành mục tiêu độc lập - tự do 
		gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách 
		mạng Tháng Tám 1945. 
		
		Chín năm kháng chiến lâu dài, gian khổ và anh dũng đã kết thúc thắng lợi 
		vẻ vang. Nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã trải qua ba 
		thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy cam go, nhưng vô cùng sôi nổi và mãnh 
		liệt: 
		
		- Mười sáu tháng (từ 8.1945 đến 12.1946) xây dựng chế độ mới, cuộc sống 
		mới, bảo vệ chính quyền cách mạng và chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài. 
		
		- Năm năm (1947-1952) xây dựng và bảo vệ vùng tự do, thực hiện nhiệm vụ 
		phối hợp với các chiến trường. 
		
		- Giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh (1953-1954) thực hiện chiến cuộc 
		Đông Xuân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt để giành thắng lợi hoàn 
		toàn. 
		
		Bình Định là một tỉnh có vị trí chiến lược cả về kinh tế và quốc phòng. 
		Ở đây có một hệ thống đường giao thông phong phú: đường chiến lược 19, 
		đường sắt xuyên Việt và Quốc lộ 1, có thành phố cảng Quy Nhơn và sân 
		bay. Những thế núi hiểm trở chẳng những có giá trị chiến thuật, chiến 
		dịch mà cả về chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài. 
		
		Từ những yếu tố  "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", chiến trường Bình Định 
		là địa bàn vừa thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển, vừa thuận 
		lợi cho tác chiến tập trung của các binh đoàn chủ lực. Và cũng chính vì 
		vị trí chiến lược, đặc điểm của địa bàn mà thực dân Pháp xem Bình Định 
		là mục tiêu trọng điểm để tiến công đánh chiếm vùng tự do của ta. 
		
		Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên đất Bình Định là 
		thắng lợi tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành, bắt nguồn từ đường lối 
		chiến lược, phương châm, phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo của 
		Đảng, kết hợp sức mạnh của cả dân tộc với sức mạnh của thời đại trong 
		cuộc chiến tranh nhân dân mang tính cách và bản sắc Việt Nam. 
		
		Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Liên khu ủy khu V, chín năm 
		kháng chiến đầy hi sinh, gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Bình Định đã đạt 
		được những kết quả đáng tự hào: Đó là đã đánh bại âm mưu lấn chiếm của 
		địch, giữ vững Bình Định là tỉnh tự do trong suốt thời gian kháng chiến, 
		xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội thành tỉnh có tiềm lực 
		lớn mạnh của Liên khu V trong chiến tranh. Đảng bộ và nhân dân Bình Định 
		cũng đã huy động một khối lượng khá lớn về nhân tài vật lực vừa cho công 
		cuộc kháng chiến của tỉnh, vừa làm nhiệm vụ hậu phương đối với cả chiến 
		trường Liên khu V; đồng thời Đảng bộ đã xây dựng được một đội ngũ cán 
		bộ, Đảng viên kiên cường, xứng đáng với lòng tin của nhân dân. Những 
		thành quả trên thể hiện Bình Định đã biết vượt qua biết bao nhiêu khó 
		khăn gian khổ, vừa chiến đấu, vừa xây dựng để hoàn thành tốt nhiệm vụ 
		như lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 
		
		Với đặc điểm là một tỉnh thuộc vùng tự do, Đảng bộ Bình Định đã biết tập 
		trung xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, bảo đảm cuộc 
		sống cho nhân dân để kháng chiến lâu dài, đồng thời biết động viên sức 
		mạnh tổng hợp nhân tài vật lực cho tiền tuyến, làm tròn nhiệm vụ hậu 
		phương của chiến trường Liên khu V và Tây Nguyên, chi viện cho Lào và 
		Campuchia. 
		
		Có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong quá trình kháng chiến 
		được khẳng định một cách tuyệt đối trong việc giáo dục, đoàn kết, tổ 
		chức, phát huy sức mạnh quần chúng về mọi mặt quân sự - chính trị - kinh 
		tế. Nó đã được cụ thể hóa bằng những chủ trương, chính sách, việc làm cụ 
		thể của tỉnh, sự sáng tạo trong cả quá trình kháng chiến. Các cấp ủy 
		Đảng thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về tư tưởng, 
		chính trị và tổ chức mà trước hết là xây dựng chi bộ cơ sở vững mạnh. 
		
		Bài học quý giá được rút ra từ công tác xây dựng Đảng là bất kỳ ở thời 
		kỳ nào và ở đâu, nếu Đảng biết bám sát dân, sống trong lòng nhân dân, 
		được nhân dân tin yêu, đùm bọc, bảo vệ, thì dù gian khổ mấy, cách mạng 
		cũng giành được thắng lợi. 
		
		Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và giữ vững trọn vẹn vùng 
		tự do của Đảng bộ và nhân dân Bình Định là một trang sử vẻ vang trong 
		truyền thống yêu nước và cách mạng lâu dài của nhân dân Bình Định. 
		
		Trải qua cuộc chiến đấu một mất một còn, ròng rã  hơn 20 năm kháng chiến 
		chống Mỹ, cứu nước, lâu dài, khốc liệt, hy sinh gian khổ nhưng rất hào 
		hùng, anh dũng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trực tiếp 
		là Tỉnh ủy Bình Định, quân và dân trong tỉnh đã đoàn kết một lòng phát 
		huy truyền thống yêu nước của dân tộc, của vùng đất “Địa 
		linh nhân liệt”, thượng võ, quật khởi, quê hương của vị anh hùng 
		dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ. Truyền thống đó tiếp tục được nhân lên 
		và phát huy cao độ trong mọi tình huống khó khăn nhất. Quân và dân trong 
		tỉnh đã vượt qua mọi thử thách, chịu dựng mọi ác liệt, hy sinh để hoàn 
		thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Bác Hồ kính yêu giao phó, góp phần 
		đánh bại các âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt và làm phá sản các chiến lược 
		chiến tranh xâm lược của Mỹ, kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh có một 
		không hai trong lịch sử. Mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do, 
		thống nhất Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. 
		
		Cuộc kháng chiến chống Mỹ, bên cạnh truyền  thống yêu nước của nhân dân 
		Bình Định, còn thể hiện sự vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân cách 
		mạng của Đảng vào điều kiện cụ thể từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể ở 
		từng địa phương, địa bàn chiến lược, đánh  đổ từng đối tượng kẻ thù của 
		cách mạng một cách  linh hoạt và sáng tạo. Đồng thời nắm bắt kịp thời 
		tình hình địch, tình hình quần chúng nhằm khắc phục những khuyết điểm, 
		lệch lạc, không ngừng củng cố và tăng cường xây dựng lực lượng của cách 
		mạng. Coi trọng công tác giáo dục, vận động, tập hợp, đoàn kết, phát huy 
		trí tuệ của quần chúng trong các cuộc đấu tranh quân sự, chính trị, binh 
		địch vận, xây dựng hậu phương của cuộc kháng chiến, phục vụ chiến đấu và 
		chi viện cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. 
		
		Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Bình Định, một 
		lần nữa khẳng định sức mạnh to lớn của toàn dân, là cuộc kháng chiến 
		toàn dân, toàn diện về quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, với 
		tinh thần tự lực, tự cường; đồng thời có sự chi viện, hỗ trợ của Trung 
		ương và các tỉnh lân cận và trong cả nước, đặc biệt là Đảng bộ và nhân 
		dân Hà Tĩnh kết nghĩa. 
		
		      
		
		            Nhìn lại từ quá khứ xa xưa, chúng ta tự hào về Bình Định - 
		nơi sớm  sản sinh ra nền văn hoá  lớn của cư dân cổ Sa Huỳnh, mang đậm 
		nét đặc trưng của thời đại kim khí, đã để lại nhiều di tích phong phú, 
		các công cụ sản xuất bằng đồ sắt, đồ trang sức bằng đá quý và thuỷ tinh 
		đặc sắc v.v... những trống đồng Đông Sơn cũng đã được tìm thấy ở đây 
		chứng tỏ thời đó đã có sự  giao lưu văn hoá rộng lớn giữa các vùng của 
		đất nước. 
		
		Bình Định còn là nơi chứng kiến sự phát triển, lụi tàn của quốc gia cổ 
		Chămpa - một vương quốc có nhiều thăng trầm song cũng không tránh khỏi 
		số phận tồn vongcủa lịch sử. Cái tên Chămpa chỉ còn như một tên riêng 
		của một dân tộc Chăm gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. 
		
		Vương quốc Chămpa xưa, nay còn để lại những di tích khảo cổ học, nhiều 
		thành cổ, điêu khắc cổ và kiến trúc đền tháp nổi tiếng, cổ kính, uy 
		nghi. Các di tích được các nhà khảo cổ phát hiện ở nhiều nơi trên đất 
		Bình Định phong phú, đa dạng về chủng loại, tinh xảo về kỹ thuật, gồm 
		các đồ gốm sứ phục vụ cho cuộc sống cộng đồng, giao lưu, trao đổi hàng 
		hoá ngoài khu vực và các nước phụ cận. 
		
		Bình Định có thành Đồ Bàn tồn tại gần 5 thế kỷ mà sau đó là thành Hoàng 
		Đế thời Tây Sơn - Nguyễn Nhạc. 
		
		Thế kỷ XV, đất nước Chămpa đầy biến động bởi sự nội biến bên trong v 
		xung đột bên ngoài. Vua Lê Thánh Tông đã có thời cơ để chấm dứt nạn 
		tranh chấp này vào năm 1471. Từ đó, đất Bình Định trở thành một bộ phận 
		của nước Đại Việt. 
		
		Nhà Lê đã cho lập Thừa tuyên Quảng Nam tạo cho phủ Quy Nhơn thời chúa 
		Nguyễn một nội lực kinh tế phát triển, một thế đứng vững chắc để mở nước 
		về phía nam. 
		
		Với một tầm nhìn chiến lược, với chính sách thông thoáng trong việc thu 
		nạp hiền tài (trường hợp của Lương Văn Chánh, Đào Duy Từ...) cùng với 
		việc khuyến nông, các chúa Nguyễn đã có chính sách tích cực trong việc 
		di dân, khai phá, lập làng, tạo cho phủ  Quy Nhơn hình thnh nhiều làng 
		xã trù phú, canh tác nông nghiệp phát triển. Phủ Hoài Nhơn (Quy Nhơn) 
		trở thành bệ phóng cho công cuộc mở đất vào Phú Yên và từ đây, thế Thuận 
		- Quảng vững mạnh về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc 
		phòng, đủ sức đương đầu với quân Trịnh ở phía bắc. 
		
		Bên cạnh những yếu tố tích cực trên của phủ Quy Nhơnthờicác chúa Nguyễn, 
		nhưng dần dần do sự phân hoá bất công trong xã hội ngày càng tăng khiến 
		cho mâu thuẫn ngày một gay gắt giữa tầng lớp lao động và giai cấp thống 
		trị, đã nảy sinh những cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ hà khắc đương 
		thời. Mở đầu là những cuộc nổi dậy của Linh Vương và Quảng Phú (1695) 
		rồi của Lía, sau đó các cuộc khởi nghĩa có tổ chức, quy mô thành phong 
		trào rộng lớn, đại diện cho giai cấp nông dân Việt Nam đứng lên chống 
		cường quyền, áp bức; nhất là khi có giặc ngoại xâm đã nhanh chóng trở 
		thành một phong trào giải phóng dân tộc lan toả khắp đất nước. Đó là 
		cuộc khởi nghĩa Tây Sơn xuất phát từ vùng núi An Khê của phủ Quy Nhơn. 
		
		Dưới sự chỉ huy thiên tài của Nguyễn Huệ với đội ngũ tướng lĩnh ti ba, 
		trí dũng, kiên cường, cùng sự đóng góp của nhân dân Bình Định và nhân 
		dân cả nước đã dập tắt nạn cát cứ, nội chiến Trịnh - Nguyễn kéo dài trên 
		hai thế kỷ; đánh tan 5 vạn quân Xiêm ở phía nam, 29 vạn quân Thanh xâm 
		lược ở phía bắc, giải phóng dân tộc, lập lại nền độc lập thống nhất đất 
		nước.  
		
		Thời đại Tây Sơn với những chiến công hiển hách, vang dội làm nhiều nước 
		trên thế giới phải kính nể. Đó là niềm tự hào của nhân dân Bình Định - 
		quê hương của phong trào Tây Sơn, của các anh hùng áo vải cờ đào và của 
		mỗi một người dân Việt Nam. Những đóng góp, cống hiến của thời đại Tây 
		Sơn còn để lại cho muôn đời sau về binh pháp thiên tài, các bài võ, 
		đường quyền, những áng văn thơ tuyệt tác, một kho tàng văn hoá chữ Nôm 
		đồ sộ và văn học dân gian phong phú mà chúng ta mãi trân trọng, giữ gìn. 
		
		Dưới thời Nguyễn, Bình Định được triều đình Huế rất chú tâm về việc tổ 
		chức cai trị cũng như về kinh tế, xã hội, nhất là vào đầu thời kì vua 
		Nguyễn. Vì nơi đây - vốn là đất của triều Tây Sơn, đã diễn ra cuộc chiến 
		tranh khốc liệt lâu ngày, bị tàn phá nặng nề và là nơi cịn tồn tại nhiều 
		mu thuẫn nn một mặt cần trấn áp nhưng mặt khác cũng phải thu phục lòng 
		dân. Vì vậy, Bình Định được coi là trọng trấn của Triều đình, rồi trở 
		thành một tỉnh trực thuộc chính quyền Trung ương Huế (1832). 
		
		Với việc lập lại địa bạ vào năm 1839 đã loé lên một niềm tin đấu tranh 
		về quyền lợi chính đáng của người dân Bình Định đối với Triều đình mà 
		đòi hỏi Nhà nước cần phải chia sẻ, quan tâm để giảm bớt sự bất công 
		trong các tầng lớp địa chủ và dân nghèo, trong đó có sự đóng góp của 
		Tổng đốc Võ Xuân Cẩn và các quan lại địa phương. Tuy cuộc cải cách này 
		cuối cùng thất bại nhưng đã để lại bài học kinh nghiệm về chính sách 
		ruộng đất và đấu tranh của nhân dân  cho cc  đời sau. 
		
		Thực dân Pháp xâm lược nước ta, Quy Nhơn được chúng xem là cảng khẩu 
		quan trọng của miền Trung và Tây Nguyên để thực hiện chính sách khai 
		thác thuộc địa. Từ giữathế kỷ XIX, Bình Định bắt đầu chuyển mình để phát 
		triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và trào lưu yêu nước diễn ra 
		mạnh mẽ khắp nơi trong tỉnh, đặc biệt khi đô thị Quy Nhơn ra đời. 
		
		Với phong trào Cần Vương, nhân dân Bình Định đã hưởng ứng lời kêu gọi 
		của vua Hàm Nghi, đứng lên đánh giặc cứu nước. Phong trào kháng Pháp ở 
		Bình Định diễn ra mạnh mẽ lan rộng trong cả tỉnh và liên kết với các 
		tỉnh lân cận, đã làm cho bộ máy cai trị của Pháp và tay sai ở Bình Định 
		khốn đốn, lung lay. 
		
		Tuy các cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Định bị đàn áp khốc liệt nhưng 
		đã khơi dậy trong quần chúng một truyền thống quật cường, một tinh thần 
		yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc cao độ đã buộc địch phải nhiều phen 
		khốn quẫn, lao đao. 
		
		Phong trào Cách mạng Việt Nam đã chuyển mình và khởi sắc từ khi Đảng 
		Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930. 
		
		Các tổ chức Đảng Cộng Sản ở Bình Định tại các huyện, xã, thị xã Quy Nhơn 
		đã nắm bắt phong trào, lập các cơ sở Cách mạng lúc hoạt động công khai, 
		lúc rút vào hoạt động bí mật, đã lãnh đạo phong trào Cách mạng của tỉnh 
		giành được nhiều thắng lợi trong đấu tranh chính trị, vũ trang... đi đến 
		giành được chính quyền về tay nhân dân vào Tháng 8 năm 1945. 
		
		Cùng với tình hình chung của Cách mạng  toàn quốc, Cách mạng Bình Định 
		cũng trải qua các thời kỳ gian khổ và cực kỳ ác liệt trong 9 năm kháng 
		chiến chống Pháp (1945-1954). 
		
		Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh tỉnh, các đoàn thể yêu nước được 
		ra đời để đáp ứng tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, quyết tâm đẩy 
		lùi nạn giặc đói, giặc dốt, chiến thắng giặc ngoại xâm, hoàn thành nhiệm 
		vụ giải phóng quê hương, góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc. 
		
		Đồng thời với cuộc kháng chiến trường kỳ đánh Pháp, nhân dân Bình Định 
		dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh cũng còn phải vượt qua muôn vàn khó 
		khăn, thử thách để vươn lên đạt được những thành tựu đáng kể trong các 
		mặt: xây dựng nền công nghiệp, nông nghiệp, khôi phục và phát triển kinh 
		tế, giáo dục, y tế, giao thông... Tất cả những điều đó đã góp phần đập 
		tan các kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp, giành lại độc lập cho quê 
		hương, đất nước. 
		
		Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi vẻ vang vào năm 1954 đã 
		là một minh chứng về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự mưu trí, quả cảm 
		và sự hy sinh vô bờ bến của bao chiến sĩ cách mạng và xương máu của nhân 
		dân Việt Nam nói chung, Bình Định nói riêng; là kết tinh của truyền 
		thống  yêu nước của ông cha ta từ bao đời nay đã làm nên sức mạnh tổng 
		hợp "nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước", đem lại độc lập - tự do 
		- hạnh phúc cho nhân dân. 
		
		Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Bình Định lại một lần nữa phải ra sức 
		đương đầu với những âm mưu thâm độc, những cuộc càn quét đẫm máu của 
		địch nhằm chống phá các cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang của ta. 
		Mặc dù vậy, nhân dân và các lực lượng quân sự Bình Định đã phối hợp với 
		toàn miền đấu tranh bằng ba mũi giáp công, kiên quyết đập tan các chiến 
		lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng quê hương, hoà trong ca 
		khúc khải hoàn: "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" vào mùa Xuân 
		năm 1975. 
		
		Đây là một thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử của dân tộc ta. Ba mươi 
		năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ với bao mất mát hy sinh lớn lao mà 
		nhân dân Việt Nam, trong đó có nhân dân Bình Định đã cống hiến hết mình 
		về sức người, sức của cho sự  đấu tranh vì độc lập - tự do của dân tộc. 
		
		Hoà chung niềm vui của đất nước, sau ngày giải phóng, Đảng bộ và nhân 
		dân Bình Định đã hăng hái bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến 
		tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh quốc 
		phòng. 
		
		Từ sau năm 1975 đến nay, thực sự Bình Định đã đổi đời, thực sự đổi mới 
		từ trong nếp nghĩ kinh tế, làm ăn đến tư duy cuộc sống, tạo nên sự biến 
		đổi sâu sắc trong đời sống xã hội của tỉnh nhà. 
		
		Diện mạo quê hương đã đổi thay, bộ máy Nhà nước các cấp của tỉnh đã kiện 
		toàn, hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang phát triển làm thay da đổi thịt 
		cuộc sống của nhân dân. Các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, 
		giáo dục, y tế... ngày một ổn định, pht triển và nâng cao; mức sống của 
		người dân ngày được cải thiện. 
		
		Chính sách của Nhà nước đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa ngày một 
		quan tâm đúng mức để tiến tới lập thế cân bằng giữa miền núi và miền 
		xuôi. 
		
		Công cuộc hiện đại hoá đang được hình thành dần ở nơi đây, đã làm cho 
		đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một tốt đẹp hơn. Nếp 
		sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng ngày càng phong phú đã tạo nên 
		một sự chuyển biến tích cực trong xu thế phát triển của xã hội Bình 
		Định. Từ đó mở ra một cuộc sống đầy đủ hứa hẹn ở tương lai: ấm no, hạnh 
		phúc, dân chủ, công bằng và văn minh mà nhân dân Bình Định bằng truyền 
		thống lịch sử của mình có quyền tin tưởng và quyền được hưởng những 
		thành tựu đó, vì đã góp phần cống hiến sức lực của mình trong quá khứ và 
		trong hiện tại. 
		
		Ban biên tập (tổng hợp) 
		Nguồn: binhdinhgov  |