|
Lịch Sử Bình Định
Khác với Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, ở Nam Trung Bộ, loại hình di tích đá cũ
vẫn chưa được tìm thấy, mà mới chỉ phát hiện được các di tích đá mới
tiếp sau văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, nhưng cũng rất ít. Cho đến nay mới
chỉ phát hiện và khai quật được một di chỉ duy nhất thuộc giai đoạn này
ở ven biển tỉnh Quảng Nam. Bình Định cũng là tỉnh nằm trong dải đất Nam
Trung Bộ, nhưng cũng chưa thấy có di tích nào thuộc giai đoạn sơ kỳ đá
mới, mà mới chỉ phát hiện được di tích ở giai đoạn hậu kỳ đá mới và
những hiện vật mang đặc trưng của giai đoạn này là một vài chiếc rìu bôn
phát hiện được một cách ngẫu nhiên ở khu vực Hoài Nhơn và Vân Canh, phát
hiện này chưa được thẩm định nghiên cứu. Cho nên, có thể nói văn hóa
thời tiền sử và sơ sử Bình Định chỉ, có từ giai đoạn sơ kỳ đến hậu kỳ
trong giai đoạn kim khí. Đại diện cho nền văn hóa trong giai đoạn này là “Văn
hoá Sa Huỳnh”.
Từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XVII, trên dải đất miền Trung Việt Nam
đã hình thành một Nhà nước Cổ đại, đó là Nhà nước Chămpa. Nhà nước
Chămpa được xây dựng trên một nền tảng được kế thừa thành tựu văn hóa Sa
Huỳnh trước đó, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung
Hoa cùng nhiều yếu tố của các nền văn hóa khác trong khu vực. Dân tộc
Chăm trong suốt 16 thế kỷ, khởi nguồn từ năm 192 và kết thúc vai trò
lịch sử của nó đã để lại một nền văn hóa riêng, độc đáo, góp phần làm
giàu kho tàng văn hóa của nhân loại và cũng như cộng đồng các dân tộc
Việt Nam sau này.
Bình Định nằm ở trung tâm của dải đất miền Trung với gần 5 thế kỷ giữ
vai trò trung tâm của đất nước, mặc dù có nhiều bước thăng trầm, nhưng
văn hóa Chămpa ở đây vẫn phát triển đến khi vùng đất này mất vai trò
trung tâm của nó, dấu tích văn hóa còn để lại vô cùng phong phú, đa dạng
về loại hình, nhiều về số lượng và trở thành đối tượng quan trọng không
thể bỏ qua với những người nghiên cứu về văn hóa Chămpa nói chung và
giai đoạn Vijaya nói riêng.
Từ năm 1471, vua Lê Thánh Tông cho lập phủ Hoài Nhơn -lãnh thổ chỉ đến
đèo Cù Mông: "Phủ Hoài Nhơn lệ vào Quảng Nam thừa tuyên, nhưng từ núi
Cù Mông về nam vẫn là người Man, người Lạo ở, chưa có thì giờ để kinh lý
đến".
Sau khi trở về kinh đô Thăng Long, tháng 7 năm Hồng Đức thứ 2 (1471),
vua Lê Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành mới chiếm đặt Quảng Nam Thừa tuyên
và vệ Thăng Hoa, đặt 3 ty để trông coi việc dân, việc nước ở Quảng Nam
Thừa tuyên.
Các làng xã từ đó cũng được hình thành. Lúc mới thành lập, 3 huyện của
phủ Hoài Nhơn có 33 xã: Bồng Sơn:7 xã, Phù Ly: 8 xã, Tuy Viễn: 18 xã.
Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên
Nam dư hạ tập cho biết:
dưới thời Hồng Đức, phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và hơn 100 xã: huyện Bồng
Sơn có 7 tổng, 32 xã; huyện Phù Ly có 6 tổng, 60 xã; huyện Tuy Viễn có 6
tổng...
Tháng 8 năm Mậu Ngọ (1498), nhà Lê cho đặt các sở hiệu của 3 vệ Thăng
Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn thuộc đô ty Quảng Nam.
Sau một thế kỷ mở đất, người Việt đã vào lập làng ở các vùng đất của phủ
Hoài Nhơn nay là tỉnh Bình Định.
Các chúa Nguyễn xuất hiện trong lịch sử Việt Nam lúc đầu gắn với vùng
đất Thuận Hoá, sau đó là Quảng Nam rồi phát triển lập nên xứ Đàng Trong.
Tháng 11 năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn nhậm
Thuận Hoá. Năm 1570, vua Lê triệu tổng binh Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh
về trấn thủ Nghệ An. Chúa Nguyễn Hoàng được kiêm lãnh hai xứ Thuận Hoá,
Quảng Nam. Xứ Quảng Nam vào thời điểm Nguyễn Hoàng cai trị có 3 phủ, 9
huyện; phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang. Phủ Tư
Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang. Phủ Hoài Nhơn có 3
huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Chúa Nguyễn Hoàng đeo ấn Tổng trấn
tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa.
Để nắm thêm tình hình phủ Hoài Nhơn, năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho mời
khám lý phủ Hoài Nhơn Trần Đức Hoà (bấy giờ gọi là Cống quận công, con
của Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân - Phó tướng dinh Quảng Nam) đến yết
kiến. Trần Đức Hoà được chúa đãi rất hậu, sau đó, chúa trở về Thuận Hoá.
Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn.
Năm 1651, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, chúa cho đổi phủ Quy Nhơn
thành phủ Quy Ninh. Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ
là Quy Nhơn và vẫn được gọi suốt thời kỳ Tây Sơn.
Đàng Trong thế kỷ XVII là nạn nhân của sự bột phát khốc liệt của cuộc
chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Để tồn tại trong thế đối trọng với Đàng
Ngoài, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phải ra sức mở mang phát triển lãnh
thổ và kinh tế. Chiến tranh chấm dứt (1672), Đàng Trong khẳng định được
mình qua những thập kỷ lớn mạnh, trưởng thành và thử thách. Các chúa
Nguyễn đã thắng khi chặn được quân Trịnh với sức áp đảo từ phía bắc Sông
Gianh, thu phục được người Miên, người Hoa để mở cõi về phía nam và đưa
dân vào sinh sống, làm ăn ở vùng Đồng Nai, Gia Định. Nhưng các chúa
Nguyễn cũng chuẩn bị đương đầu với một nguy cơ mới nảy sinh trong lòng
xã hội Đàng Trong, đó là các cuộc khởi nghĩa của người nông dân - vốn là
nạn nhân của chế độ phong kiến. Họ là những di dân vào Thuận- Quảng làm
ăn nên đã đồng tình với các chúa Nguyễn, đánh Trịnh để bảo vệ quê hương,
bảo vệ thành quả lao động và cuộc sống của mình. Sau chiến tranh, các
chúa Nguyễn tiếp tục gia tăng cường độ bóc lột qua các chính sách thuế
má, phu dịch để xây dựng dinh phủ, nuôi sống bộ máy cai trị; một bộ
phận quan chức trở nên nhũng lạm, xa hoa, xã hội với nhiều mâu thuẫn nảy
sinh. Phủ Quy Nhơn là một trong những nơi chịu áp bức bóc lột nặng nề
nhất. Nông dân, thương nhân, các dân tộc ít người đều căm phẫn tột độ.
Năm 1695, một thương nhân ở Quy Nhơn là Quảng Phú đã liên kết với thương
nhân ở phủ Quảng Ngãi là Linh Vương mua sắm binh thuyền, vũ khí khởi
nghĩa chống chúa Nguyễn. Thế kỷ XVIII, cuộc khởi nghĩa của Lía ở phủ Quy
Nhơn đã nói lên một khí thế đấu tranh quyết liệt của người nông dân
chống địa chủ và cường quyền áp bức. Đó là khúc nhạc dạo đầu của bản anh
hùng ca hoành tráng của các thủ lĩnh nông dân Tây Sơn khi Nguyễn Nhạc đã
tụ nghĩa ở đất Tây Sơn với những người có nghĩa khí, chống áp bức đã dấy
lên cuộc khởi nghĩa (1771) làm rung chuyển cả cơ đồ của chúa Nguyễn ở
Đàng Trong.
Nguyễn Nhạc đã thành công hơn Lía và các thủ lĩnh nông dân khác ở Đàng
Ngoài khi chọn được căn cứ địa ở vùng Tây Sơn thượng đạo an toàn, bí
mật, vững chắc, được nhiều tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Nông dân nghèo,
hào phú, thương nhân, các dân tộc ít người... ra sức ủng hộ. Nguyễn Nhạc
có nghệ thuật thu phục lòng người, có nghĩa cử với dân nghèo nên đã đưa
cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi có ý nghĩa trong buổi đầu của phong trào
Tây Sơn.
Mùa thu năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn mở rộng căn cứ xuống vùng Tây Sơn
hạ đạo, lấy ấp Kiên Thành, sinh quán các thủ lĩnh Tây Sơn làm đại bản
doanh. Năm đó, Nguyễn Nhạc quyết định cho nghĩa quân đánh chiếm phủ
thành Quy Nhơn, nay ở Châu Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn. Nhờ
mưu lược của Giáo Hiến, mạo hiểm của Nguyễn Nhạc, sự đồng lòng của các
tướng lĩnh và nghĩa quân, Nguyễn Nhạc đã cho nghĩa quân đánh chiếm phủ
thành Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ thành trốn. Nguyễn Nhạc
cho nghĩa quân đánh chiếm kho Càn Dương và Đạm Thủy. Phủ Quy Nhơn hoàn
toàn thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.
Quân Tây Sơn chọn màu đỏ làm cờ nghĩa, lấy dân nghèo làm lực lượng đấu
tranh và mục tiêu phục vụ, lấy công bằng xã hội làm phương châm. Đối
tượng cuộc đấu tranh là bọn địa chủ, quan lại bóc lột hà hiếp nhân dân.
Quân Tây Sơn đến đâu các hào kiệt đều theo về, dân chúng nô nức hưởng
ứng, uy thế ngày mỗi tăng.
Bình Định là quê hương của các lãnh tụ Tây Sơn, là căn cứ địa của cuộc
khởi nghĩa, là nơi xuất phát phong trào rồi trưởng thành, phát triển ra
toàn quốc, là đất Kinh đô Hoàng đế Thái Đức và là chiến trường ác liệt
dài ngày giữa quân đội Tây Sơn thời Cảnh Thịnh với quân Nguyễn Ánh.
Trong 32 năm (1771-1802), nhân dân Bình Định đã theo Tây Sơn: là lãnh
tụ, là tướng lĩnh cao cấp, là quan chức, binh sĩ cùng mọi tầng lớp nhân
dân đã cống hiến hết mình cho trang sử hào hùng của dân tộc thời Tây
Sơn. Trí tuệ, tài năng, sức người, sức của của nhân dân Bình Định đã
đóng góp cho sự nghiệp Tây Sơn là vô bờ bến, sử sách không thể ghi hết
và cũng chưa ai có điều kiện biên chép, tổng kết. Nên cố gắng này chỉ là
mở đầu cho một việc làm to lớn, lâu dài, khó khăn và nhiều ý nghĩa nói
trên.
Trong buổi đầu khởi nghĩa, sự đóng góp của nhân dân phủ Quy Nhơn vô cùng
quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của phong trào Tây Sơn ở một
chặng đường khó khăn nhất, bước ngoặt đưa phong trào Tây Sơn phát triển
ra cả xứ Đàng Trong.
Sau này, phong trào Tây Sơn phát triển ra toàn quốc cùng với thiên tài
Nguyễn Huệ, những người con ưu tú của phủ Quy Nhơn cũng góp phần quan
trọng tạo nên các chiến công đánh Nguyễn, đánh Xiêm ở Gia Định, diệt
Trịnh lật đổ nhà Lê ở Phú Xuân-Thăng Long, quét sạch 29 vạn quân Thanh
xâm lược vào xuân Kỷ Dậu (1789).
Dưới triều Nguyễn, Bình Định là một trọng trấn ở phía nam Kinh thành.
Điều đó được thể hiện trong tổ chức hành chính và cai trị; chế độ quan
lại và phòng vệ ở miền núi và vùng biển; tổ chức giáo dục, thi cử văn
lẫn võ cho cả khu vực của các tỉnh từ Quảng Ngãi trở vào Bình Thuận.
Vốn là vùng đất đối trọng của triều Nguyễn nên các vua Nguyễn có chính
sách cai trị ở Bình Định rất hà khắc, cứng rắn nhằm ngăn chặn các cuộc
khởi nghĩa của nhân dân. Nhưng cũng không đè bẹp được ý chí, tinh thần
đấu tranh của các tầng lớp nhân dân bị áp bức trong xã hội: hậu duệ của
triều Tây Sơn, nông dân, dân tộc ít người, tiểu quan chức...
Năm 1799, sau khi chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn Ánh cho đổi làm thành
Bình Định, sau đó đặt dinh Bình Định (1802). Năm 1819, đổi tên ấp Tây
Sơn - nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thành ấp An Tây.
Dưới triều Nguyễn, tình hình xã hội ở Bình Định luôn biểu hiện những mâu
thuẫn và đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhất là phát hiện các
hậu duệ nhà Tây Sơn, các vua Gia Long, Minh Mạng đã dùng những biện pháp
trừng trị tàn ác. Bình Định luôn là mối bận tâm của triều đình Huế.
Bình Định là vùng "trọng điểm bình định" của triều Nguyễn đối với nhà
Tây Sơn, nhưng triều Nguyễn cũng phải thừa nhận tính khách quan về một
vùng đất có vị trí chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục đối với
các tỉnh miền Trung thuở đó, nên các vua Gia Long, Minh Mạng một mặt ra
sức trấn áp nhưng mặt khác lại mị dân thể hiện trong các chiếu dụ, ban
bố trong quan lại và nhân dân. Thiết lập phủ Quy Nhơn, dinh Bình Định
thời Gia Long, tổ chức lập lại địa bạ thời Minh Mạng với ý định làm thí
điểm cho cả nước. Triều Nguyễn còn tổ chức trường thi hương và mở
trường thi võ tại Bình Định để tuyển chọn nhân tài cho đất nước.
Dưới thời Nguyễn cũng hình thành đô thị Quy Nhơn và trở thành trung tâm
kinh tế của tỉnh Bình Định trong thế kỷ XIX; là xu thế phát triển trong
thời Pháp thuộc, có tác dụng to lớn trong thế kỷ XX
Hòa chung vào công cuộc chuẩn bị chống ngoại xâm của cả nước, nhân dân
Bình Định hăng hái theo lệnh triều đình Huế để tăng cường và chấn chỉnh
lực lượng quân sự địa phương. Những thanh niên, trai tráng khỏe mạnh, kể
cả những người theo đạo Gia tô cũng được thu nhận, còn những người già
yếu bị thải hồi khỏi quân ngũ. Các trạm, sở, phủ, huyện được triều đình
tiếp tế, cung ứng thêm vũ khí và lương thực. Các đồn, bảo, tỉnh thành
được điều động thêm lực lượng và tăng cường luyện tập quân sự. Sơn phòng
Nghĩa Định được khẩn trương củng cố và trở thành địa điểm tập trung binh
lực, lương thảo và đạn dược từ ở địa phương. Triều đình còn điều động về
Bình Định những quan lại có năng lực để lãnh đạo cuộc chiến đấu ở đây.
Ngoài ra, ở vùng ven biển Bình Định, quân triều đình cũng chia nhau đóng
giữ những nơi hiểm yếu. Các cửa biển Tam Quan, An Dũ (thuộc huyện Hoài
Nhơn), Hà Ra (Phù Mỹ), Đề Gi (Phù Cát)... được tăng cường quân lính đồn
trú và các đội thủy binh... nhằm ngăn chặn quân Pháp từ biển đánh vào. Ở
Bình Định, có quân của cai cơ Tăng Doãn Văn, người làng An Thường, xã Ân
Thạnh, huyện Hoài Ân, vốn tham gia trong lực lượng của Trần Xuân Soạn
đóng ở Bắc Kỳ, được Tôn Thất Thuyết cử về giữ chức cai cơ chỉ huy đội
binh đóng ở đồn An Dũ. Trong đội quân của Tăng Doãn Văn còn rất nhiều
văn nhân và võ sư yêu nước như Đội Dung (người Phù Mỹ), Lê Thức (người
Hoài Ân), Lê Đạt (người Hoài Nhơn)...
Trong vòng 3 năm (1883-1885), ở Bình Định đã huy động được một đạo quân
ứng nghĩa hùng hậu. Ngoài quân sơn phòng, quân đồn trú trấn giữ các cửa
biển, lực lượng thân binh bảo vệ tỉnh thành, còn có lực lượng kháng
chiến của nhân dân, đó là đội quân hương binh, dân dũng. Cho đến khi
phong trào Cần Vương bùng nổ, lực lượng tham gia kháng chiến chống Pháp
ở Bình Định đã khá đông đảo, có tới hàng chục ngàn người cầm vũ khí
hưởng ứng lời kêu gọi chống Pháp của vua Hàm Nghi.
Mai Xuân Thưởng chọn vùng núi Lộc Đỗng (phía tây Phú Phong, nay thuộc
thôn Phú Hiệp, thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn) làm căn cứ kháng
chiến. Ông cho truyền hịch khắp nơi, vận động các tầng lớp nhân dân tập
hợp về Lộc Đỗng cùng lo việc đại nghĩa “Cần Vương”. Hưởng ứng lời kêu
gọi, các nhà hào phú tình nguyện đóng góp lương thực để chi dùng trong
quân, trai tráng rủ nhau kéo về Lộc Đỗng đầu quân ngày một thêm đông. Võ
tướng, văn thân như các ông Bùi Điền (người Phù Mỹ), Nguyễn Hóa, Trần
Trung và Trần Nhã (người Bình Khê), Nguyễn Can, Nguyễn Trọng Trì và Đặng
Thành Tích (người An Nhơn) đều ra giúp. Lực lượng kháng chiến suy tôn
Mai Xuân Thưởng làm Bình Tây Đại Nguyên Soái. Từ đây, lực lượng kháng
chiến ở Bình Định đã thống nhất thành một mối, phong trào vững mạnh bước
vào giai đoạn mới lập nên nhiều chiến công rực rỡ.
Trước sự lớn mạnh của phong trào Cần Vương Bình Định (làm chủ hầu hết
địa bàn Bình Định đồng thời mở rộng ảnh hưởng đến các tỉnh trung và nam
Trung Kỳ), triều đình Huế chỉ còn cách xin thực dân Pháp đưa viện binh
từ Sài Gòn ra Bình Định xúc tiến đàn áp phong trào.
Đàn áp xong phong trào Cần Vương ở Bình Định, thực dân Pháp cùng quân
đội triều đình tay sai củng cố lại chính quyền ở các tỉnh tả trực kỳ, bố
phòng cẩn mật đề phòng những cuộc khởi nghĩa mới có thể xảy ra.
Ở Bình Định, sau những nỗ lực chiến đấu chống Pháp đến cùng , đa số nhân
dân - những người ủng hộ và tham gia tích cực vào hai cuộc khởi nghĩa
trên - đã bị thực dân Pháp và vua quan nhà Nguyễn đàn áp, khủng bố rất
tàn khốc. Thế nhưng, người dân Bình Định vẫn không nản lòng, thối chí,
trái lại khi tổ chức Duy Tân Hội được sáng lập và phát huy ảnh hưởng của
Hội trên khắp ba miền đất nước, nhân dân Bình Định vẫn nhiệt tình hăng
hái tham gia, và họ tự hào được đóng góp cho phong trào một người con ưu
tú của quê hương, người anh hùng Tăng Bạt Hổ (Tăng Doãn Văn).
Trong lúc phong trào Đông Du mà Tăng Bạt Hổgópphần sáng lập đang khởi
động mạnh, thì ngày 27.8.1907, Tăng Bạt Hổđột ngột quađời. Sựnghiệp cứu
nước cứu dân đang còn dởdang lại được những đồng chí của ôngtiếp nối.
Phong trào ngày càng phát triển và cóảnh hưởng rộng lớn trong dưluậnxã
hội. Thực dân Pháp và triều đình Huếhốt hoảng đối phó. Một mặt chúng
khủngbố, ngăn cấm phong trào Đông Du hoạt động, một mặt thỏa hiệp,
nhường cho Nhậtmột sốquyền lợi buôn bán ởĐông Dương, với điều kiện chính
phủNhật phải trụcxuất những người Việt Nam yêu nước ra khỏi đất Nhật. Vì
vậy, cuối năm 1908,phong trào Đông Du tan rã.
Phong trào Đông Du và phong trào Duy Tân tuy khác nhau về phương thức
hành động, nhưng cũng cùng một con đường cách mạng theo khuynh hướng dân
chủ tư sản. Vì thế, mục tiêu công kích của phong trào Duy Tân cũng lại
là vua quan phong kiến thối nát, những phong tục tập quán và những tư
tưởng đạo đức phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, nhằm vận động
cải cách văn hóa, xã hội gắn liền với việc vận động lòng yêu nước, căm
thù giặc, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang,
phong trào đã tích cực đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản với các yêu cầu:
"Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh", hô hào chú trọng thực
nghiệp, lập hội kinh doanh, mở trường dạy học và tuyên truyền đời sống
mới".
Sau hàng loạt những cuộc bạo động vũ trang chống Pháp cuối thế kỷ XIX
không thành, khi ngọn gió dân chủ tư sản qua các tân thư, tân văn từ bên
ngoài dồn dập tràn vào đầu thế kỷ XX, nhân dân Bình Định háo hức tiếp
nhận một phương thức hoạt động cứu nước mới. Người châm ngòi cho phong
trào yêu nước theo phương thức mới bùng nổ ở Bình Định chính là Phan
Châu Trinh và những sáng lập viên của phong trào Duy Tân, như Huỳnh Thúc
Kháng, Trần Quý Cáp...
Ngày 6.4.1908, nhân dân Bình Định nổi dậy biểu tình chống thuế. Sự tham
gia của Hồ Sĩ Tạo đã lôi cuốn nhiều nhân sĩ Bình Định hưởng ứng và tham
gia đông đảo, uy tín của phong trào ngày càng tăng. Nông dân các phủ,
huyện lớp do tổng, lý sở tại chỉ dẫn, lớp tự động rầm rộ kéo về tỉnh
thành ngày một thêm đông.
Cuộc biểu tình chống thuế của nhân dân Bình Định năm 1908 đã bị thực dân
Pháp dìm trong biển máu. Nhiều người con yêu nước của quê hương hoặc bị
giết, hoặc bị đày ra Côn Đảo. Thế nhưng, người dân Bình Định chưa bao
giờ chịu khuất phục. Trái lại, ngọn lửa căm thù vẫn còn âm ỉ cháy trong
lòng mỗi người dân Bình Định, và chỉ 8 năm sau, ngọn lửa đấu tranh ấy
lại có dịp bùng lên mạnh mẽ.
Trong những năm 1925-1927, hàng loạt cuộc đấu tranh của nhân dân Bình
Định càng diễn ra sôi nổi.
Những cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân Bình Định khiến nhà cầm
quyền Pháp và tay sai hốt hoảng.
Tháng 2.1928, được sự giúp đỡ của Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng
Đồng chí hội Nam Kỳ tại Sài Gòn mà đại diện là Phan Trọng Quảng, Chi bộ
Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đầu tiên ở Bình Định được
thành lập tại nhà ông Tôn Chất ở thôn Cửu Lợi (Tam Quan Nam, Hoài Nhơn).
Sự ra đời của chi bộ Cửu Lợi đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong
phong trào cách mạng Bình Định, đưa phong trào đi theo con đường của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Để có thể liên lạc thuận lợi với tổ chức Thanh Niên
Quảng Ngãi, chi bộ Cửu Lợi chọn công ty Kim Thạch ở Sa Huỳnh (Đức Phổ,
Quảng Ngãi), một hãng buôn do một số chí sĩ, thương nhân Hoài Nhơn và Sa
Huỳnh lập ra từ năm 1927, làm cơ sở liên lạc ở hai vùng.
Từ chi bộ đầu tiên ở Cửu Lợi, đến cuối năm 1928, đã có thêm các chi bộ
mới như chi bộ Thanh niên An Đỗ (Hoài Sơn), Tài Lương (Hoài Thanh), Dĩnh
Thạnh (Tam Quan). Từ các chi bộ này, cơ sở Thanh niên nhanh chóng phát
triển ra các làng Đại Hóa, An Thái (Tam Quan), Thành Sơn, An Sơn (Hoài
Châu), Châu Đê, Chương Hòa (Hoài Châu Bắc), Tường Sơn (Hoài Sơn), Thanh
Xuân (Hoài Hương), Bồng Sơn và Thiết Đính... Đến cuối năm 1928, số hội
viên Thanh niên Hoài Nhơn lên đến gần 40 người, và hàng trăm hội viên
quần chúng tích cực được tập hợp vào các hội: Nông dân, Phụ nữ, Thiếu
niên, Cứu tế đỏ... Giữa năm 1928, Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
hội Hoài Nhơn đặt được mối liên lạc chính thức với Kỳ bộ Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí hội Trung Kỳ và Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách
mạng Đồng chí hội Quảng Ngãi1.
Những biến chuyển đó đã tạo điều kiện chín muồi tiến tới thành lập Huyện
bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội để lãnh đạo chung phong
trào. Tháng 12.1928, Huyện bộ Hoài Nhơn được thành lập và Nguyễn Trân
được bầu làm bí thư.
Sau khi tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đẩy mạnh hoạt
động ở Hoài Nhơn được một thời gian ngắn, thì tổ chức Tân Việt cách mạng
Đảng cũng bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của mình vào Bình Định. Giữa năm
1928, Ngô Đức Đệ, nguyên Ủy viên Tỉnh bộ Tân Việt Hà Tĩnh được Tổng bộ
Tân Việt cách mạng Đảng cử vào Bình Định xây dựng cơ sở Đảng. Tại đây,
tính đến cuối năm 1928, Ngô Đức Đệ đã xây dựng được những cơ sở Tân Việt
đầu tiên ở nhà máy Đèn, hãng Vận tải đường thủy, ga ra Trần Sanh Thại,
trường Quốc học (Quy Nhơn) và một số cơ sở được xây dựng tại trường tiểu
học và công sở ở các huyện An Nhơn, Phù Mỹ, Bồng Sơn...
Cuối năm 1928, để tạo điều kiện thuận lợi trong việc xây dựng và chỉ đạo
phong trào toàn khu vực Trung Trung Bộ, Ban liên tỉnh Tứ Định của Tân
Việt cách mạng Đảng được thành lập (gồm Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên
và Kon Tum) do Ngô Đức Đệ làm bí thư.
Trong 2 năm 1928-1929, hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt đã tập hợp
đông đảo các tầng lớp nhân dân yêu nước vào mặt trận cách mạng và phát
động được quần chúng ở một số vùng như Trà Quang (Mỹ Quang, Phù Mỹ), Hảo
Thiện, Cửu Lợi, An Đỗ (Hoài Nhơn)…
Như vậy, cho đến cuối năm 1928, ở Bình Định đã xuất hiện hai tổ chức
tiền thân của Đảng: Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Cửu
Lợi, Hoài Nhơn (ra đời đầu năm 1928) và Tân Việt ở Quy Nhơn (năm 1928).
Hai tổ chức này đã giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt phong trào
yêu nước cách mạng ở Bình Định nhanh chóng chuyển từ khuynh hướng tư
sản sang một khuynh hướng mới tiến bộ - khuynh hướng vô sản, và định
hướng dần vào quỹ đạo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tạo tiền đề cần thiết
cho phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Định tiếp tục phát triển như
vũ bão dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Tháng 10.1930, hai tổ chức Đảng của huyện Hoài Nhơn và thành phố Quy
Nhơn chính thức nối liên lạc với nhau, thống nhất các kế hoạch hành
động. Sự ra đời của các tổ chức Đảng thành phố Quy Nhơn và huyện Hoài
Nhơn không chỉ đánh dấu bước ngoặt lịch sử quyết định của phong trào yêu
nước của nhân dân Bình Định, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phong
trào đấu tranh của nhân các huyện tiến lên.
Nhìn chung, trong những năm 1932-1935, phong trào cách mạng ở Bình Định
gặp nhiều khó khăn và tổn thất, nhưng với một sự cố gắng vượt bậc, những
tổ chức cơ sở Đảng và phong trào đấu tranh của quần chúng từng bước được
phục hồi và có những bước tiến triển đáng kể, bắt đầu bước vào thời kỳ
đấu tranh mới: đòi dân sinh, dân chủ.
Phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ trong thời kỳ 1936-1939 ở Bình
Định tuy bị thực dân Pháp tìm mọi cách cản trở, khủng bố, nhưng chưa bao
giờ nhân dân Bình Định nản lòng, lùi bước, ngược lại phong trào ngày
càng sôi động và gặt hái được nhiều kết quả có ý nghĩa. Sự lớn mạnh,
trưởng hành của phong trào là những chuẩn bị thiết thực cho nhân dân
Bình Định cùng nhân dân cả nước bước vào một thời kỳ mới với những
thắng lợi mới: Thời kỳ trực tiếp đấu tranh cách mạng giành chính quyền
về tay nhân dân.
Ngày 3.9.1945, 30.000 đại biểu Việt Minh toàn tỉnh và đồng bào các giới,
dân tộc, các tôn giáo cùng nhân dân thành phố Quy Nhơn, với hơn 1.000 tự
vệ cứu quốc và tự vệ sắt tham gia cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa toàn tỉnh tại sân vận động Quy Nhơn. Tại đây, Ủy ban
Nhân dân Cách mạng lâm thời mới của tỉnh Bình Định, lấy tên là tỉnh Tăng
Bạt Hổ, được thành lập, do đồng chí Trần Quang Khanh làm Chủ tịch.
Như vậy, sau 15 năm hoạt động kiên cường, không mệt mỏi, Đảng bộ và nhân
dân Bình Định đã làm nên một cơn bão táp cách mạng vĩ đại, cuốn trôi bộ
máy chính quyền thống trị của đế quốc, phát xít và phong kiến. Thắng lợi
này đã kết thúc chặng đường đấu tranh đầy gian khổ nhưng quang vinh của
nhân dân Bình Định, đồng thời mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh
cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Suốt chặng đường lịch sử 60 năm (1885-1945), phong trào yêu nước chống
Pháp của nhân dân Bình Định trải qua ba giai đoạn với màu sắc, quan
điểm, tư tưởng, đường lối, chủ trương chính trị khác nhau: ngọn cờ Cần
Vương chống Pháp của giai cấp phong kiến cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu
nước mang màu sắc dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX, cao trào giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản và chủ nghĩa Mác-Lênin do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo từ 1930 đến 1945. Đây là những làn sóng nối tiếp
nhau dồn dập đánh vào thành trì của chế độ thực dân-phong kiến, mà lớp
sóng sau mạnh mẽ hơn lớp sóng trước gấp bội lần.
Tuy các phong trào đấu tranh yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đến những thập
niên đầu thế kỷ XX đều bị thực dân Pháp đàn áp và dìm trong bể máu,
nhưng nhân dân Bình Định vẫn không hề chịu khuất phục. Từ khi có ánh
sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga soi đường, đặc
biệt là từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Bình
Định đã cùng nhân dân toàn tỉnh liên tục vùng dậy đấu tranh kiên cường
trong suốt 15 năm trời. Trải qua những thử thách từ cao trào 1930-1931,
giai đoạn hồi phục lực lượng 1932-1935, đến cuộc vận động dân chủ
1936-1939, rồi cao trào cứu nước giải phóng dân tộc 1939-1945, cuối cùng
Đảng bộ và nhân dân Bình Định cũng hoàn thành mục tiêu độc lập - tự do
gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách
mạng Tháng Tám 1945.
Chín năm kháng chiến lâu dài, gian khổ và anh dũng đã kết thúc thắng lợi
vẻ vang. Nhân dân Bình Định dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã trải qua ba
thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy cam go, nhưng vô cùng sôi nổi và mãnh
liệt:
- Mười sáu tháng (từ 8.1945 đến 12.1946) xây dựng chế độ mới, cuộc sống
mới, bảo vệ chính quyền cách mạng và chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài.
- Năm năm (1947-1952) xây dựng và bảo vệ vùng tự do, thực hiện nhiệm vụ
phối hợp với các chiến trường.
- Giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh (1953-1954) thực hiện chiến cuộc
Đông Xuân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt để giành thắng lợi hoàn
toàn.
Bình Định là một tỉnh có vị trí chiến lược cả về kinh tế và quốc phòng.
Ở đây có một hệ thống đường giao thông phong phú: đường chiến lược 19,
đường sắt xuyên Việt và Quốc lộ 1, có thành phố cảng Quy Nhơn và sân
bay. Những thế núi hiểm trở chẳng những có giá trị chiến thuật, chiến
dịch mà cả về chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài.
Từ những yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", chiến trường Bình Định
là địa bàn vừa thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển, vừa thuận
lợi cho tác chiến tập trung của các binh đoàn chủ lực. Và cũng chính vì
vị trí chiến lược, đặc điểm của địa bàn mà thực dân Pháp xem Bình Định
là mục tiêu trọng điểm để tiến công đánh chiếm vùng tự do của ta.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên đất Bình Định là
thắng lợi tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành, bắt nguồn từ đường lối
chiến lược, phương châm, phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo của
Đảng, kết hợp sức mạnh của cả dân tộc với sức mạnh của thời đại trong
cuộc chiến tranh nhân dân mang tính cách và bản sắc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Liên khu ủy khu V, chín năm
kháng chiến đầy hi sinh, gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Bình Định đã đạt
được những kết quả đáng tự hào: Đó là đã đánh bại âm mưu lấn chiếm của
địch, giữ vững Bình Định là tỉnh tự do trong suốt thời gian kháng chiến,
xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội thành tỉnh có tiềm lực
lớn mạnh của Liên khu V trong chiến tranh. Đảng bộ và nhân dân Bình Định
cũng đã huy động một khối lượng khá lớn về nhân tài vật lực vừa cho công
cuộc kháng chiến của tỉnh, vừa làm nhiệm vụ hậu phương đối với cả chiến
trường Liên khu V; đồng thời Đảng bộ đã xây dựng được một đội ngũ cán
bộ, Đảng viên kiên cường, xứng đáng với lòng tin của nhân dân. Những
thành quả trên thể hiện Bình Định đã biết vượt qua biết bao nhiêu khó
khăn gian khổ, vừa chiến đấu, vừa xây dựng để hoàn thành tốt nhiệm vụ
như lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với đặc điểm là một tỉnh thuộc vùng tự do, Đảng bộ Bình Định đã biết tập
trung xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, bảo đảm cuộc
sống cho nhân dân để kháng chiến lâu dài, đồng thời biết động viên sức
mạnh tổng hợp nhân tài vật lực cho tiền tuyến, làm tròn nhiệm vụ hậu
phương của chiến trường Liên khu V và Tây Nguyên, chi viện cho Lào và
Campuchia.
Có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong quá trình kháng chiến
được khẳng định một cách tuyệt đối trong việc giáo dục, đoàn kết, tổ
chức, phát huy sức mạnh quần chúng về mọi mặt quân sự - chính trị - kinh
tế. Nó đã được cụ thể hóa bằng những chủ trương, chính sách, việc làm cụ
thể của tỉnh, sự sáng tạo trong cả quá trình kháng chiến. Các cấp ủy
Đảng thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng bộ vững mạnh cả về tư tưởng,
chính trị và tổ chức mà trước hết là xây dựng chi bộ cơ sở vững mạnh.
Bài học quý giá được rút ra từ công tác xây dựng Đảng là bất kỳ ở thời
kỳ nào và ở đâu, nếu Đảng biết bám sát dân, sống trong lòng nhân dân,
được nhân dân tin yêu, đùm bọc, bảo vệ, thì dù gian khổ mấy, cách mạng
cũng giành được thắng lợi.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và giữ vững trọn vẹn vùng
tự do của Đảng bộ và nhân dân Bình Định là một trang sử vẻ vang trong
truyền thống yêu nước và cách mạng lâu dài của nhân dân Bình Định.
Trải qua cuộc chiến đấu một mất một còn, ròng rã hơn 20 năm kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, lâu dài, khốc liệt, hy sinh gian khổ nhưng rất hào
hùng, anh dũng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, trực tiếp
là Tỉnh ủy Bình Định, quân và dân trong tỉnh đã đoàn kết một lòng phát
huy truyền thống yêu nước của dân tộc, của vùng đất “Địa
linh nhân liệt”, thượng võ, quật khởi, quê hương của vị anh hùng
dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ. Truyền thống đó tiếp tục được nhân lên
và phát huy cao độ trong mọi tình huống khó khăn nhất. Quân và dân trong
tỉnh đã vượt qua mọi thử thách, chịu dựng mọi ác liệt, hy sinh để hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Bác Hồ kính yêu giao phó, góp phần
đánh bại các âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt và làm phá sản các chiến lược
chiến tranh xâm lược của Mỹ, kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh có một
không hai trong lịch sử. Mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do,
thống nhất Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, bên cạnh truyền thống yêu nước của nhân dân
Bình Định, còn thể hiện sự vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân cách
mạng của Đảng vào điều kiện cụ thể từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể ở
từng địa phương, địa bàn chiến lược, đánh đổ từng đối tượng kẻ thù của
cách mạng một cách linh hoạt và sáng tạo. Đồng thời nắm bắt kịp thời
tình hình địch, tình hình quần chúng nhằm khắc phục những khuyết điểm,
lệch lạc, không ngừng củng cố và tăng cường xây dựng lực lượng của cách
mạng. Coi trọng công tác giáo dục, vận động, tập hợp, đoàn kết, phát huy
trí tuệ của quần chúng trong các cuộc đấu tranh quân sự, chính trị, binh
địch vận, xây dựng hậu phương của cuộc kháng chiến, phục vụ chiến đấu và
chi viện cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trên chiến trường Bình Định, một
lần nữa khẳng định sức mạnh to lớn của toàn dân, là cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện về quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, với
tinh thần tự lực, tự cường; đồng thời có sự chi viện, hỗ trợ của Trung
ương và các tỉnh lân cận và trong cả nước, đặc biệt là Đảng bộ và nhân
dân Hà Tĩnh kết nghĩa.
Nhìn lại từ quá khứ xa xưa, chúng ta tự hào về Bình Định -
nơi sớm sản sinh ra nền văn hoá lớn của cư dân cổ Sa Huỳnh, mang đậm
nét đặc trưng của thời đại kim khí, đã để lại nhiều di tích phong phú,
các công cụ sản xuất bằng đồ sắt, đồ trang sức bằng đá quý và thuỷ tinh
đặc sắc v.v... những trống đồng Đông Sơn cũng đã được tìm thấy ở đây
chứng tỏ thời đó đã có sự giao lưu văn hoá rộng lớn giữa các vùng của
đất nước.
Bình Định còn là nơi chứng kiến sự phát triển, lụi tàn của quốc gia cổ
Chămpa - một vương quốc có nhiều thăng trầm song cũng không tránh khỏi
số phận tồn vongcủa lịch sử. Cái tên Chămpa chỉ còn như một tên riêng
của một dân tộc Chăm gắn bó trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Vương quốc Chămpa xưa, nay còn để lại những di tích khảo cổ học, nhiều
thành cổ, điêu khắc cổ và kiến trúc đền tháp nổi tiếng, cổ kính, uy
nghi. Các di tích được các nhà khảo cổ phát hiện ở nhiều nơi trên đất
Bình Định phong phú, đa dạng về chủng loại, tinh xảo về kỹ thuật, gồm
các đồ gốm sứ phục vụ cho cuộc sống cộng đồng, giao lưu, trao đổi hàng
hoá ngoài khu vực và các nước phụ cận.
Bình Định có thành Đồ Bàn tồn tại gần 5 thế kỷ mà sau đó là thành Hoàng
Đế thời Tây Sơn - Nguyễn Nhạc.
Thế kỷ XV, đất nước Chămpa đầy biến động bởi sự nội biến bên trong v
xung đột bên ngoài. Vua Lê Thánh Tông đã có thời cơ để chấm dứt nạn
tranh chấp này vào năm 1471. Từ đó, đất Bình Định trở thành một bộ phận
của nước Đại Việt.
Nhà Lê đã cho lập Thừa tuyên Quảng Nam tạo cho phủ Quy Nhơn thời chúa
Nguyễn một nội lực kinh tế phát triển, một thế đứng vững chắc để mở nước
về phía nam.
Với một tầm nhìn chiến lược, với chính sách thông thoáng trong việc thu
nạp hiền tài (trường hợp của Lương Văn Chánh, Đào Duy Từ...) cùng với
việc khuyến nông, các chúa Nguyễn đã có chính sách tích cực trong việc
di dân, khai phá, lập làng, tạo cho phủ Quy Nhơn hình thnh nhiều làng
xã trù phú, canh tác nông nghiệp phát triển. Phủ Hoài Nhơn (Quy Nhơn)
trở thành bệ phóng cho công cuộc mở đất vào Phú Yên và từ đây, thế Thuận
- Quảng vững mạnh về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc
phòng, đủ sức đương đầu với quân Trịnh ở phía bắc.
Bên cạnh những yếu tố tích cực trên của phủ Quy Nhơnthờicác chúa Nguyễn,
nhưng dần dần do sự phân hoá bất công trong xã hội ngày càng tăng khiến
cho mâu thuẫn ngày một gay gắt giữa tầng lớp lao động và giai cấp thống
trị, đã nảy sinh những cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ hà khắc đương
thời. Mở đầu là những cuộc nổi dậy của Linh Vương và Quảng Phú (1695)
rồi của Lía, sau đó các cuộc khởi nghĩa có tổ chức, quy mô thành phong
trào rộng lớn, đại diện cho giai cấp nông dân Việt Nam đứng lên chống
cường quyền, áp bức; nhất là khi có giặc ngoại xâm đã nhanh chóng trở
thành một phong trào giải phóng dân tộc lan toả khắp đất nước. Đó là
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn xuất phát từ vùng núi An Khê của phủ Quy Nhơn.
Dưới sự chỉ huy thiên tài của Nguyễn Huệ với đội ngũ tướng lĩnh ti ba,
trí dũng, kiên cường, cùng sự đóng góp của nhân dân Bình Định và nhân
dân cả nước đã dập tắt nạn cát cứ, nội chiến Trịnh - Nguyễn kéo dài trên
hai thế kỷ; đánh tan 5 vạn quân Xiêm ở phía nam, 29 vạn quân Thanh xâm
lược ở phía bắc, giải phóng dân tộc, lập lại nền độc lập thống nhất đất
nước.
Thời đại Tây Sơn với những chiến công hiển hách, vang dội làm nhiều nước
trên thế giới phải kính nể. Đó là niềm tự hào của nhân dân Bình Định -
quê hương của phong trào Tây Sơn, của các anh hùng áo vải cờ đào và của
mỗi một người dân Việt Nam. Những đóng góp, cống hiến của thời đại Tây
Sơn còn để lại cho muôn đời sau về binh pháp thiên tài, các bài võ,
đường quyền, những áng văn thơ tuyệt tác, một kho tàng văn hoá chữ Nôm
đồ sộ và văn học dân gian phong phú mà chúng ta mãi trân trọng, giữ gìn.
Dưới thời Nguyễn, Bình Định được triều đình Huế rất chú tâm về việc tổ
chức cai trị cũng như về kinh tế, xã hội, nhất là vào đầu thời kì vua
Nguyễn. Vì nơi đây - vốn là đất của triều Tây Sơn, đã diễn ra cuộc chiến
tranh khốc liệt lâu ngày, bị tàn phá nặng nề và là nơi cịn tồn tại nhiều
mu thuẫn nn một mặt cần trấn áp nhưng mặt khác cũng phải thu phục lòng
dân. Vì vậy, Bình Định được coi là trọng trấn của Triều đình, rồi trở
thành một tỉnh trực thuộc chính quyền Trung ương Huế (1832).
Với việc lập lại địa bạ vào năm 1839 đã loé lên một niềm tin đấu tranh
về quyền lợi chính đáng của người dân Bình Định đối với Triều đình mà
đòi hỏi Nhà nước cần phải chia sẻ, quan tâm để giảm bớt sự bất công
trong các tầng lớp địa chủ và dân nghèo, trong đó có sự đóng góp của
Tổng đốc Võ Xuân Cẩn và các quan lại địa phương. Tuy cuộc cải cách này
cuối cùng thất bại nhưng đã để lại bài học kinh nghiệm về chính sách
ruộng đất và đấu tranh của nhân dân cho cc đời sau.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, Quy Nhơn được chúng xem là cảng khẩu
quan trọng của miền Trung và Tây Nguyên để thực hiện chính sách khai
thác thuộc địa. Từ giữathế kỷ XIX, Bình Định bắt đầu chuyển mình để phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và trào lưu yêu nước diễn ra
mạnh mẽ khắp nơi trong tỉnh, đặc biệt khi đô thị Quy Nhơn ra đời.
Với phong trào Cần Vương, nhân dân Bình Định đã hưởng ứng lời kêu gọi
của vua Hàm Nghi, đứng lên đánh giặc cứu nước. Phong trào kháng Pháp ở
Bình Định diễn ra mạnh mẽ lan rộng trong cả tỉnh và liên kết với các
tỉnh lân cận, đã làm cho bộ máy cai trị của Pháp và tay sai ở Bình Định
khốn đốn, lung lay.
Tuy các cuộc đấu tranh của nhân dân Bình Định bị đàn áp khốc liệt nhưng
đã khơi dậy trong quần chúng một truyền thống quật cường, một tinh thần
yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc cao độ đã buộc địch phải nhiều phen
khốn quẫn, lao đao.
Phong trào Cách mạng Việt Nam đã chuyển mình và khởi sắc từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời vào năm 1930.
Các tổ chức Đảng Cộng Sản ở Bình Định tại các huyện, xã, thị xã Quy Nhơn
đã nắm bắt phong trào, lập các cơ sở Cách mạng lúc hoạt động công khai,
lúc rút vào hoạt động bí mật, đã lãnh đạo phong trào Cách mạng của tỉnh
giành được nhiều thắng lợi trong đấu tranh chính trị, vũ trang... đi đến
giành được chính quyền về tay nhân dân vào Tháng 8 năm 1945.
Cùng với tình hình chung của Cách mạng toàn quốc, Cách mạng Bình Định
cũng trải qua các thời kỳ gian khổ và cực kỳ ác liệt trong 9 năm kháng
chiến chống Pháp (1945-1954).
Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh tỉnh, các đoàn thể yêu nước được
ra đời để đáp ứng tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, quyết tâm đẩy
lùi nạn giặc đói, giặc dốt, chiến thắng giặc ngoại xâm, hoàn thành nhiệm
vụ giải phóng quê hương, góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc.
Đồng thời với cuộc kháng chiến trường kỳ đánh Pháp, nhân dân Bình Định
dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh cũng còn phải vượt qua muôn vàn khó
khăn, thử thách để vươn lên đạt được những thành tựu đáng kể trong các
mặt: xây dựng nền công nghiệp, nông nghiệp, khôi phục và phát triển kinh
tế, giáo dục, y tế, giao thông... Tất cả những điều đó đã góp phần đập
tan các kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp, giành lại độc lập cho quê
hương, đất nước.
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi vẻ vang vào năm 1954 đã
là một minh chứng về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự mưu trí, quả cảm
và sự hy sinh vô bờ bến của bao chiến sĩ cách mạng và xương máu của nhân
dân Việt Nam nói chung, Bình Định nói riêng; là kết tinh của truyền
thống yêu nước của ông cha ta từ bao đời nay đã làm nên sức mạnh tổng
hợp "nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước", đem lại độc lập - tự do
- hạnh phúc cho nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Bình Định lại một lần nữa phải ra sức
đương đầu với những âm mưu thâm độc, những cuộc càn quét đẫm máu của
địch nhằm chống phá các cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang của ta.
Mặc dù vậy, nhân dân và các lực lượng quân sự Bình Định đã phối hợp với
toàn miền đấu tranh bằng ba mũi giáp công, kiên quyết đập tan các chiến
lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng quê hương, hoà trong ca
khúc khải hoàn: "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" vào mùa Xuân
năm 1975.
Đây là một thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử của dân tộc ta. Ba mươi
năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ với bao mất mát hy sinh lớn lao mà
nhân dân Việt Nam, trong đó có nhân dân Bình Định đã cống hiến hết mình
về sức người, sức của cho sự đấu tranh vì độc lập - tự do của dân tộc.
Hoà chung niềm vui của đất nước, sau ngày giải phóng, Đảng bộ và nhân
dân Bình Định đã hăng hái bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến
tranh, khôi phục, phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh quốc
phòng.
Từ sau năm 1975 đến nay, thực sự Bình Định đã đổi đời, thực sự đổi mới
từ trong nếp nghĩ kinh tế, làm ăn đến tư duy cuộc sống, tạo nên sự biến
đổi sâu sắc trong đời sống xã hội của tỉnh nhà.
Diện mạo quê hương đã đổi thay, bộ máy Nhà nước các cấp của tỉnh đã kiện
toàn, hệ thống cơ sở hạ tầng đã và đang phát triển làm thay da đổi thịt
cuộc sống của nhân dân. Các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá,
giáo dục, y tế... ngày một ổn định, pht triển và nâng cao; mức sống của
người dân ngày được cải thiện.
Chính sách của Nhà nước đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa ngày một
quan tâm đúng mức để tiến tới lập thế cân bằng giữa miền núi và miền
xuôi.
Công cuộc hiện đại hoá đang được hình thành dần ở nơi đây, đã làm cho
đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một tốt đẹp hơn. Nếp
sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng ngày càng phong phú đã tạo nên
một sự chuyển biến tích cực trong xu thế phát triển của xã hội Bình
Định. Từ đó mở ra một cuộc sống đầy đủ hứa hẹn ở tương lai: ấm no, hạnh
phúc, dân chủ, công bằng và văn minh mà nhân dân Bình Định bằng truyền
thống lịch sử của mình có quyền tin tưởng và quyền được hưởng những
thành tựu đó, vì đã góp phần cống hiến sức lực của mình trong quá khứ và
trong hiện tại.
Ban biên tập (tổng hợp)
Nguồn: binhdinhgov |