Tổ đ́nh Linh Sơn lại là nơi 
			dừng chân trên bước đường du hóa của Bồ-tát Quảng Đức, trước khi 
			Ngài vị Pháp thiêu thân để thức tỉnh lương tri nhân loại.
			
				- "Hơn hai thế kỷ sen thơm ngát
 
				- Trải mấy mươi đời Tố đạo… Thiêng
 
				- Pháp tứ nối ḍng hương khói toả
 
				- Ngàn năm thanh sử xứ Trầm Hương!"
 
			
			Tổ Đ́nh Linh Sơn  tại Thôn Hiền Lương, xă Vạn Lương, huyện Vạn 
			Ninh, tỉnh Khánh Ḥa. Tổ khai sơn là Ḥa Thượng Đại Bửu (1740-1765), 
			Pháp hiệu Kim Cang Đại lăo Tổ sư. Ngài nguyên quán tỉnh Quảng Nam 
			băng ngàn vào Hiền Lương hoằng pháp. Năm Cảnh Hưng thứ 22, (1761) 
			lập Chùa đúc chuông, tạo thành ngôi già lam tịnh địa.
			Lúc đầu chùa an danh là Sa Long Tự. Năm Tự Đức, thứ 21 (1867) 
			chùa bị cháy. Sau khi xây cất lại, đổi tên là Linh Sơn Tự. Từ ấy đến 
			nay, chùa đă được trùng tu nhiều lần. Kiểu trúc cổ pháp,  hoàn toàn 
			Việt Nam. Mái ngói tường gạch. Chánh điện ba gian, phía đông phía 
			tây có tăng pḥng, tịnh thất. Cách thờ phụng đơn giản nhưng trang 
			nghiêm, giống như các Chùa cổ ở miền Trung.
			
			
			Vườn Chùa rộng răi và có nhiều cây cổ thụ xanh um. Phía trước có 
			tường vôi và cổng Tam quan cổ kính. Trước mặt Chùa có hồ sen sâu 
			rộng mênh mông, có sông Hiền Lương quanh co. Và xa xa núi cao chập 
			chờn. Phong cảnh đăng quang nhưng thanh tịnh hữu t́nh.
			Trong vườn Chùa có ba cây cổ thụ: Một cây xoài và hai cây kén. 
			Cây xoài ở trước chùa, cạnh ngỏ bước vô, đến nay không c̣n. Cây kén 
			cổ nhất đứng phía sau chùa. Thân cây cao vút và tuồi chắc là 300 trở 
			lên và một cây kén phía bên tay phải chùa. Chính Ngài Đại Bửu ngồi 
			tu nơi gốc cây kén cổ thụ sau chùa, trước khi chùa thành lập. Hiền 
			Lương trước kia là một cánh rừng rậm, có nhiều dă thú. Lúc Ngài Đại 
			Bửu đến tu th́ cây kén đă là một đại thọ. Khi phá rừng dựng chùa các 
			đệ tử giữ hai cây kén lại làm kỹ niệm.
			Truyền rằng khi Ḥa thượng ngồi tu dưới gốc cây kén,  có một con 
			hổ đến sinh nở bên cạnh một cách tự nhiên. Ḥa thượng ngồi  tự tại.
			
			
			Cây Kén hơn 300 tuổi (h́nh Internet)
			 Bác sĩ Yersin, khi đ́ t́m Đà Lạt, gặp một con rắn hổ mang cất cổ 
			toan làm dữ, Bác sĩ đứng yên. Hồi lâu rắn bỏ chạy. Người ta ngỡ rằng 
			Bác sĩ có thuật thôi miên. Nhưng Bác sĩ cho biết: Thú dữ cắn người, 
			trước hết là để tự vệ. Nhưng chúng đều có tánh linh và rất nhạy cảm. 
			Một khi chúng đă thông cảm rằng ḿnh không có ác tâm, không cố ư làm 
			hại chúng, th́ chúng có cần làm hại ḿnh làm chi.
			Trong trường hợp của Ngài Đại Bửu cũng thế. Từ thiện căn lực của 
			Ngài tỏa ra khi thiền định, khiến con hổ yên tâm lo nhiệm vụ của 
			ḿnh. Các vị chân tu sống b́nh yên trên núi cao đếu nhờ sức mạnh của 
			đức từ bi, chớ không phải nhờ phép thần thông chế ngự thú dữ. Nhưng 
			người đời không rơ, tưởng Ngài Đại Bửu có phép lạ, nên đến xin quy y 
			mỗi ngày một đông.
			
			
			Hồng chung trong chùa cũng là một vật duy tŕ đức tin của bổn 
			đạo. Nguyên thời nhà Nguyễn Gia Miêu cùng nhà Tây Sơn tranh hùng, 
			các chuông chùa đều bị tịch thu để đúc súng đạn. Để cho chuông khỏi 
			“phạm giới sát sanh”, nhiều chùa ở Khánh Ḥa đem giấu nơi vực sâu hố 
			thẳm. Nhưng đến khi yên giặc giă, th́ phần nhiều không t́m lại được, 
			bởi lớp bị kẻ gian lấy trộm, lớp bị nước lụt trôi. Hồng chung chùa 
			Linh Sơn t́m lại được cho do một sự t́nh cờ đượm vẽ huyền bí:
			-Một bà lăo đi ṃ ốc phát kiến tại cửa sông Hiền Lương, sợ quá 
			tri hô lên. Cửa sông Hiền Lương vốn nằm giữa làng Hiền Lương và Tân 
			Đức. Biết hồng chung là vật xưa quư giá, làng Hiền Lương và làng Tân 
			Đức tranh nhau chiếm hữu, việc phải đưa đến cửa quan. Quan xử:
			-Làng nào có chùa, chuông về làng ấy.
			
			
			Hiền Lương có Chùa Linh Sơn, Tân Đức không có chùa, nên Hiền 
			Lương được kiện. Làng khiên chuông về đem đến cúng chùa Linh Sơn. 
			Lại thêm nơi thành hồng chung có ghi rơ năm tháng chú tạo: “Cảnh 
			Hưng nhị thập nhị niên, Tân Tỵ, bát nguyệt” đúng vào năm Tổ Đại Bửu 
			khai sơn. Nên ai nấy đều mừng “Châu về hợp phố”. Quả chuông t́m lại 
			được đó là quả chuông thuộc hạng “Tiểu hồng chung”. Chùa c̣n một đại 
			hồng chung không biết c̣n vùi lấp nơi đâu hay đă hóa kiếp. Những đêm 
			trời trong gió lặng người quanh vùng thỉnh thoảng nghe tiếng chuông 
			ngân nơi hồ sen trước chùa. Nhiều người tin chắc rằng quả đại hồng 
			chung c̣n ẩn náu trong hồ, và sẽ trở về chùa một ngày nào đó.
			Tổ đ́nh Linh Sơn có tiếng linh thiêng. Việc  hồng chung trở về 
			chùa làm cho các tín đồ thêm vững ḷng tin mộ đạo. Lại một sự kiện 
			nữa xảy ra thời tiền chiến, khiến người kém đức tin cũng phải tin 
			rằng chùa linh thiêng thật sự. Lúc bấy giờ Nhật đóng quân khắp lănh 
			thổ Việt Nam. Máy bay Mỹ ngày nào cũng đến oanh tạc. Khánh Ḥa cũng 
			không thoát khỏi nạn bom rơi.
			Năm 1944, một quả bom hạng nặng rơi ngay trên nóc Chùa. Nhưng 
			không nổ và cũng không lăn xuống đất. Ai cũng thấy làm lạ. V́ quả 
			bom này nếu nổ th́ Chùa bị tan tành, không nổ th́ sức nặng cũng đủ 
			chọc thủng nóc chùa hoặc lăn theo mái chùa để xuống đất bằng cho hợp 
			lư. Sao lại nằm trên nóc, mà bốn bên không có vật ǵ cản ngăn? Người 
			Nhật nghe tin bom nằm trên nóc chùa th́ đến mang đi, không một lời 
			giải thích. Các ông già bà cả bảo rằng: Các vị thần giữ chùa làm cho 
			quả bom tắt ng̣i. Rồi để cho người đời tin sự linh thiêng, các Ngài 
			đem bom đặt trên nóc chùa và giữ không cho rơi xuống đất. Người đă 
			tin thêm tin, người không tin không biết sao mà cải.
			
			
			Hai trăm năm sau, Tổ đ́nh Linh Sơn lại là nơi dừng chân trên bước 
			đường du hóa của Bồ-tát Quảng Đức, trước khi Ngài vị Pháp thiêu thân 
			để thức tỉnh lương tri nhân loại; giữa lúc miền Nam sôi sục khí thế 
			phục hưng chánh giáo, nhờ sự hy sinh cao cả ấy mà lịch sử Đạo pháp 
			có bước chuyển biến đi lên, thoát khỏi cảnh trăm năm bị áp bức. 
			Trước đó, Ngài đă phó chúc cho pháp đệ là Hoà thượng Thích TÂM THANH 
			pháp hiệu TỊCH TRÀNG, lo việc tái thiết ngôi đạo tràng và chấn hưng 
			Phật giáo. Hiện nay, pháp tử là Ḥa thượng Thích THIỆN DƯƠNG phát 
			tâm đại trùng tu, xây dựng lại toàn cảnh chánh điện, hậu Tổ, nhà lưu 
			niệm, vườn chùa, cổng tam quan, một công tŕnh qui mô, phạm vũ huy 
			hoảng, xứng tầm là ṭng lâm ớ xứ Trầm Hương.
			 
			                            Tưởng niệm 
			50 năm Bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân 1963-2013