| 
		 
		Bà Chúa Chiêm Sơn (hay 
		Bà Chúa Tầm Tang) 
		
		Nguyễn 
		Phước Tương  
		
		Cuộc đời của cô gái trồng dâu nuôi tằm dệt lụa ở làng Chiêm Sơn, huyện 
		Diên Phước thuộc dinh Quảng Nam bên bờ sông Thu Bồn có một giai thoại 
		đẹp đẽ đi vào sử sách và truyền thuyết dân gian địa phương. “Đại Nam 
		Liệt Truyện Tiền Biên” đă viết rằng: “Năm 
		mười lăm tuổi (Bà) hái dâu bên băi trông trăng mà hát. Bấy giờ Hy Tông 
		Hoàng Đế ta (tức Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên) đi chơi Quảng Nam, Thần 
		Tông Hoàng Đế ta (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) theo đi hộ giá. Đêm 
		đáp thuyền trăng đi chơi. Đỗ thuyền ở Điện Châu (bây giờ là An Phú Tây) 
		câu cá, nghe tiếng hát lấy làm lạ, sai người đến hỏi biết là con gái họ 
		Đoàn, cho tiến vào hầu Chúa ở tiềm để, được yêu chiều lắm”. 
		
		Theo truyền thuyết dân gian, vào một đêm trăng đẹp (1615), Thụy Quốc 
		Công Nguyễn Phúc Nguyên lúc đó đang trấn giữ Quảng Nam dinh và con trai 
		là Công Tử Nguyễn Phúc Lan dạo thuyền trên sông Thu Bồn. Khi thuyền rồng 
		ngược ḍng sông từ Thanh Chiêm đến địa phận làng Chiêm Sơn, thuộc huyện 
		Diên Phước, nổi tiếng trồng dâu nuôi tằm dệt lụa th́ một giọng hát trong 
		ngần và quyến rũ của một thôn nữ từ một nương dâu bên bờ sông vọng tới 
		theo làn gió mát. Cô gái hát rằng:  
		Thiếp nghe chúa ngự thuyền rồng  
		Thiếp thương phận thiếp má hồng nắng mưa...   
		
		Một lát sau cũng giọng hát đó lại cất lên uyển chuyển, mượt mà nghe da 
		diết làm sao: 
		Thuyền rồng Chúa ngự nơi đâu  
		Thiếp thương phận thiếp hái dâu một ḿnh...!   
		
		Giọng hát và lời ca của cô thôn nữ trong đêm trăng thanh vắng đă làm 
		rung động tâm hồn và xao xuyến trái tim của chàng công tử đa cảm Nguyễn 
		Phúc Lan. Được phép thân phụ, công tử cho thuyền rồng men theo triền 
		sông đi t́m tiếng hát. Khi lên bờ, bên bóng dâu xanh thắm nhuộm ánh 
		trăng vàng, chàng trai vương bá đem ḷng say mê vẻ đẹp yêu kiều của một 
		thục nữ vừa độ trăng tṛn rất mực đôn hậu là Đoàn Thị Ngọc Phi, con gái 
		út của một hào trưởng nổi tiếng, chuyên làm nghề tầm tang, quê ở làng 
		Chiêm Sơn, huyện Diên Phước là Đoàn Công Nhạn. H́nh như cuộc kỳ ngộ này 
		đă được sắp xếp từ trước bởi bàn tay của Ông Tơ Bà Nguyệt se duyên. (l) 
		
		"Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên" đă viết về người thục nữ đó rằng “Bà 
		là con gái thứ ba của Thạch Quận Công Đoàn Nhạn. Mẹ là phu nhân Vơ Thị. 
		Bà là người minh mẫn thông sáng… sáng thơm, tư mỵ, phép tốt trinh thuần”.  
		
		Công Tử Nguyễn Phúc Lan và cô thôn nữ Đoàn Thị Ngọc Phi đă bén duyên vào 
		tuổi mười lăm (1615) và sau đó hai năm, họ cùng nhau kết duyên trăm năm 
		vào tuổi mười bảy (1617) và đă sống với nhau ở dinh trấn Thanh Chiêm 
		cùng với thân phụ là Thụy Quốc Công Nguyễn Phúc Nguyên và thân mẫu là 
		phu nhân Nguyễn Thị Giai (tức là Mạc Thị Giai được mang họ Chúa Nguyễn). 
		
		Sau khi Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan trở thành Quận Công trấn giữ Quảng 
		Nam Dinh, Bà Đoàn Thị Ngọc Phi đă hết ḷng ủng hộ, khuyến khích nhân dân 
		các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, 
		dệt lụa, nhờ vậy mà nghề tầm tang ở Đàng Trong được mở mang, đă mở mang 
		vào thời kỳ đó và đă sản xuất được nhiều mặt hàng tơ lụa nổi tiếng như 
		đoạn, lănh, gấm, vóc, trườu, sa để bán trong nội địa và xuất khẩu ra 
		nước ngoài qua thương cảng Hội An. Bởi vậy, Lê Quư Đôn đă viết trong "Phủ 
		Biên Tạp Lục" rằng “Người 
		Phủ Thăng, Phủ Điện dệt được các loại the, đoạn, lụa, là hoa ḥe chẳng 
		kém ǵ Quảng Đông”. 
		
		Cũng từ đó, cảng thị Hội An dưới thời Chúa Nguyễn đă trở thành một trung 
		tâm trung chuyển của con đường tơ lụa quốc tế xuyên đại dương trong thế 
		kỷ XVI - XVII nối liền Tây Âu và Viễn Đông. Và Bà Đoàn Thị Ngọc Phi trở 
		thành "Bà Chúa Tầm Tang" ở Đàng Trong. Các cô gái trồng dâu nuôi tằm dệt 
		lụa ở quê hương Bà đă từng hát:  
		Chiêm Sơn là, lụa mỹ miều  
		Mai vang tiếng cửi, chiều chiều tơ giăng...  
		
		và  
		Nương dâu xanh thắm quê ḿnh  
		Nắng lên G̣ Nổi đượm t́nh thiết tha  
		Con tằm kéo kén cho ta  
		Tháng ngày cần mẫn làm ra lụa đời...  
		
		Đến năm 1635, Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời, Nhân Lộc Hầu Nguyễn 
		Phúc Lan trở thành Chúa Thượng và sống ở Thuận Hóa. Chúa thượng đă dời 
		Phủ Chúa từ làng Phước Yên ở huyện Quảng Điền về làng Kim Long thuộc Phú 
		Xuân. Bà Đoàn Thị Ngọc Phi được Chúa Thượng phong tước là Đoàn Quư Phi 
		và thân phụ Đoàn Công Nhạn của bà được phong tước là Thạch Quận Công. 
		Đoàn Quư Phi trong thời kỳ này cũng khuyến khích nghề tầm tang ở Phú 
		Xuân phát triển. 
		
		Đoàn Quư Phi sinh hạ được ba hoàng tử, trong đó các hoàng tử Nguyễn Phúc 
		Vơ và Nguyễn Phúc Quỳnh đều mất sớm, hoàng tử Nguyễn Phúc Tần là con 
		trai thứ hai, trở thành thế tử. Công chúa út là Nguyễn Phúc Ngọc Dung. 
		
		Thế tử Nguyễn Phúc Tần ngay thời c̣n là Lễ Dũng Hầu, quan quản lảnh 
		Quảng Nam dinh, đă tỏ ra là một con người am hiểu binh pháp, vũ dũng và 
		giỏi chiến trận, đă có công lớn trong việc đánh tan hạm đội Hà Lan dưới 
		sự chỉ huy của thuyền trưởng Peter Back âm mưu đánh phá cảng thị Hội An 
		vào năm 1644. Về sau Thế Tử Nguyễn Phúc Tần trở thành Chúa Hiền năm... 
		
		Đoàn Quư Phi mất ngày 17 tháng 5 năm Tân Sửu, tức ngày 12 tháng 7 năm 
		1661, hưởng thọ 60 tuổi (3,4). Sau khi Bà qua đời, Chúa Hiền đă đưa mẫu 
		hậu về an táng tại quê hương Bà. Lăng mộ của Bà đặt bên cạnh lăng mộ của 
		nhạc mẫu là Hoàng hậu Nguyễn Thị Giai. 
		
		Theo "Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên" Đoàn Quư Phi mất năm Tân Sửu (1661 
		Lê Vĩnh Thọ thứ tư) mùa hạ tháng 5, táng Vĩnh Diện (ở Thượng Cốc, Hùng 
		Cương thuộc xă Chiêm Sơn, tỉnh Quảng Nam). 
		
		Trong "Đại Nam Nhất Thống Chí" quyển 5 viết về Quảng Nam, đă ghi lại vị 
		trí tọa lạc của các Lăng mộ của hai Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai và Đoàn 
		Thị Ngọc Phi như sau: “Lăng 
		Vĩnh Diễn phía Nam núi Hàm Long, xă Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên. Đây là 
		Lăng của Hiếu Văn Hoàng Hậu Nguyễn Thị. Lăng Vĩnh Diện ở phía Tây G̣ 
		Hùng, thôn Thượng Cốc, xă Chiêm Sơn. Đây là Lăng của Hiếu Chiêu Hoàng 
		Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi”. 
		
		Ngược ḍng lịch sử, chúng tôi đi t́m dấu tích cổ xưa của nơi an nghỉ 
		cuối cùng của hai Hoàng Hậu đó. Đến nay, tại làng Chiêm Sơn thuộc xă Duy 
		Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam vẫn c̣n di tích của hai lăng mộ 
		đó với mức độ hư hại khác nhau. 
		
		Lăng Vĩnh Diện, mộ phần của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi 
		(1601-1661) mà nhân dân địa phương quen gọi là Lăng Trên, tọa lạc trên 
		một khu đất cao, gọi là G̣ Hùng thuộc làng Chiêm Sơn, xă Duy Trinh, tỉnh 
		Quảng Nam ngày nay. Lăng được xây dựng vào năm 1661 và toàn bộ khu vực 
		Lăng rộng 4 sào 2 thước 7 tấc, ứng với lô đất số hiệu 2583 theo địa bộ 
		xă Duy Trinh (2). Lăng này được đặt tên là Vĩnh Diện vào năm Gia Long 
		thứ 5 (1806) và được tu bổ vào năm Gia Long thứ 13 (1814). 
		
		Trong địa phận Lăng Trên c̣n có mộ của công chúa út của Hiếu Chiêu Hoàng 
		Hậu. Theo hồi cố của bà con tộc Đoàn xă Duy Trinh, công chúa này có 
		nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là công chúa Nguyễn Phúc 
		Ngọc Dung, có dị tật bẩm sinh. Lúc sinh thời, công chúa đă hạ giá với 
		Chưởng Cơ của triều đ́nh tên là Minh và đă mất sớm(2). 
		
		Phần mộ của công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung không rộng lắm và ứng với lô 
		đất số hiệu 698 của địa bộ xă Duy Trinh (2). 
		
		 
		Lăng Vịnh Diện được 
		bao bọc bởi hai lớp thành bảo vệ cao khoảng 1 mét, dày khoảng 0,8 mét: 
		bên ngoài là bảo thành ngoại và bên trong là bảo hành nội, phía sau ở 
		chính giữa các thành này đều có bia tẩm. Trên các bia tẩm này không thấy 
		ghi một chữ Hán nào mà chỉ có phù điêu h́nh mây cuộn, kỳ lân trông rất 
		ngoạn mục. Các thành bảo vệ đều bị hư hại nặng, chỉ c̣n vài đoạn ngắn 
		nhưng cái bia tẩm vẫn c̣n. Ở giữa Lăng là mộ chí của Hiếu Chiêu Hoàng 
		Hậu mà đến nay vẫn c̣n nguyên vẹn theo kiểu kiến trúc cổ xưa. 
		
		 
		C̣n Lăng Vĩnh Diễn là 
		mộ phần của Hiếu Văn Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai (1578-1630) được nhân dân 
		địa phương gọi là Lăng Dưới, cũng tọa lạc trên một khu đất cao gọi là G̣ 
		Hàm Rồng cũng thuộc làng Chiêm Sơn, xă Duy Trinh, cách Lăng Vĩnh Diện, 
		Lăng Trên hơn nửa cây số. Khu vực Lăng này, ngày xưa rộng gấp đôi Lăng 
		Trên, có diện tích 8 mẫu 4 sào 5 tấc, ứng với lô đất số hiệu 1220 theo 
		địa bộ xă Duy Trinh (2). Niên đại xây dựng Lăng này có lẽ vào cuối năm 
		1630, v́ Hoàng Hậu mất vào ngày mồng 9 tháng 11 năm Canh Ngọ, tức ngày 
		12-12-1630 tại dinh trấn Thanh Chiêm(5). 
		
		Theo "Đại Nam Nhất Thống Chí" th́ Lăng Vĩnh Diễn cũng được đặt tên vào 
		năm 1806 và tu bổ vào năm 1814 cùng một lúc với Lăng Vinh Diện. 
		Trước đây, bên ngoài khu vực của hai Lăng, Chúa Nguyễn c̣n xây dựng một 
		công tŕnh kiến trúc gọi là Chùa Vua là nơi thờ phụng hai Hoàng Hậu nói 
		trên có vườn cây bao quanh gọi là Vườn Chùa mà nay không c̣n nữa. Ở đây, 
		trước kia luôn luôn có Đội Cận Vệ 
		
		Hoàng Gia, gồm khoảng hai mươi người, thường là con cháu họ Đoàn, có 
		nhiệm vụ bảo vệ các khu Lăng và lo việc thờ cúng. 
		Diện tích Vườn Chùa khá rộng, đất bên trong thành bao bọc chùa rộng 3 
		sào 0 thước 9 tấc, đất bên ngoài thành là vườn trồng hoa cảnh, cây ăn 
		trái rộng 5 sào 4 thước 4 tấc ứng với lô đất số hiệu 2281 theo địa bộ xă 
		Duy Trinh. 
		
		Ngoài ra, Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên và Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan c̣n 
		cấp thêm tư điền làm hương hỏa cho hai Hoàng Hậu họ Mạc và họ Đoàn ở địa 
		phương để con cháu chăm lo hương khói cho hai bà Tư Điền mà Chúa Nguyễn 
		đă cấp trước đây cho Hoàng Hậu Nguyễn Thị Giai là 4 mẫu 8 sào 12 thước 
		thuộc làng Kiệu Đông và làng Kiệu Tây, huyện Duy Xuyên và 2 mẫu thuộc 
		làng Hương Quế huyện Quế Sơn. Tư Điền mà Chúa 
		Nguyễn đă cấp trước đây cho Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi là 4 mẫu 3 sào 
		12 thước thuộc làng Phú Trang, huyện Quế Sơn(2). 
		
		Theo “Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên", đến năm 1744, Thế Tôn Hiên Vơ 
		Hoàng Đế, tức Vơ Vương Nguyễn Phúc Khoát đă truy dâng Bà Đoàn Quư Phi là 
		Trinh Thục Từ Tỉnh Huệ Phi và sau đó thêm hai chữ Mẫu Duệ. Vua Gia Long, 
		sau khi thống nhất đất nước và lên ngôi, năm 1806 lại truy tôn Bà Là 
		Trinh Thục Từ Tỉnh Mẫu Duệ Kính Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và khắc tên lên Kim 
		Sách của Hoàng Tộc và tôn hiệu này được thờ chung với Hiếu Chiêu Hoàng 
		Đế (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) vào gian thứ nhất bên phải của Thái 
		Miếu ở Huế. 
		
		Để tỏ ḷng tường niệm công đức của bà Chúa Tầm Tang, vua Thành Thái 
		(1888-1907) năm thứ 18 (1905) đă ban cho tộc Đoàn 1.000 lạng bạc để dựng 
		Nhà Thờ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu tại thôn Đông Khuông, xă Điện Châu, tức 
		Đông Yên Châu, huyện Điện Bàn. Về sau, sông Thu Bồn chuyển di cắt Đông 
		Yến Châu làm đôi thành Đông Yên Đông thuộc huyện Điện Bàn và Đông Yên 
		Tây thuộc huyện Duy Xuyên. 
		
		Hiện nay, nhà thờ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu nằm trên đất Đông Yên Đông, nay 
		là xă Điện Phương, cách Cầu Mống về phía Bắc bên phải chừng 100 mét. 
		Hàng năm vào ngày 17-5 Âm lịch tộc Đoàn kết hợp với tộc Nguyễn Phước tổ 
		chức kỵ giỗ bà tại đây và tại nhà thờ xă Duy Trinh, huyện Duy Xuyên. 
		
		Sau tháng 8, 1945, các khu Lăng Mộ Vĩnh Diện và Vinh Diễn vẫn c̣n nguyên 
		vẹn, nhưng không c̣n được bảo vệ như trước nữa và bị lăng quên. Trải qua 
		ba mươi năm chiến tranh, nhân dân đă đào mộ t́m vàng, phá thành lăng để 
		lấy gạch đá làm vật liệu xây dựng, biến khu Lăng thành nơi trồng cây lấy 
		gỗ... làm biến dạng môi trường ở đây. 
		
		Vào tháng 2-3 năm 1992, bà con tộc Đoàn xă Duy Trinh đă kết hợp với bà 
		con Nguyễn Phước tộc Quảng Nam - Đà Nẵng đốn hạ cây cối trồng bừa băi, 
		thu dọn vệ sinh khu Lăng Vĩnh Diện và Lăng Vĩnh Diện, đồng thời bỏ ra 
		kinh phí trùng tu lại mộ chí của Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc Phi, nhưng do 
		thiếu tài chính, các thành bảo vệ xung quanh cũng chưa phục chế lại được 
		như cũ. 
		
		Có lẽ công đức đối với nghề trồng dâu dệt lụa trên quê hương cũng như 
		thiên diễm t́nh một thời vang dội của Bà Chúa Tầm Tang c̣n lưu lại cho 
		măi đến tận nay mà các cô gái trên quê hương bà vẫn hát:  
		Thuyền rồng mái đẩy đi đâu  
		Để cho em đứng hái dâu một ḿnh...!  
		
		Chúng tôi cho rằng các Lăng Vĩnh Diện và Lăng Vĩnh Diễn là những di tích 
		văn hóa, lịch sử cổ xưa nhất của thời Chúa Nguyễn c̣n tồn tại cho đến 
		nay, có giá trị nhiều mặt về lịch sử, văn hóa, khảo cổ, kiến trúc... có 
		tầm cỡ quốc gia với chiều dày lịch sử 400 năm cần được phục chế, trùng 
		tu, tôn tạo toàn bộ.  
		
		* Tài liệu dẫn và chú giải:  
		1- Có tác giả nêu lên một giả thuyết trong đó nói rằng Đoàn Quư Phi 
		là một cô gái tài hoa nhưng xấu xí “rỗ chằng rỗ chịt, rỗ chín mười tầng” 
		là không đúng sự thật và lẫn lộn với chuyện “Chung Vô Diệm” của Trung 
		Hoa nên cần loại bỏ.  
		2- Gia phả tộc đoàn, xă Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.  
		3- Có tác gia ở huyện Duy Xuyên đă viết không đúng rằng Đoàn Quư Phi 
		chỉ hưởng thọ được 29 tuổi.  
		4- Hội Đồng Trị Sự Nguyễn Phước Tộc. Nguyễn Phước Tộc Thế Phả 1995.  
		5- Toc Mạc hậu duệ của Hoàng Hậu Mạc Thị Giai dưới thời Tây Sơn đă 
		đổi thành tộc Nguyễn Tường và hiện nay sống tại xă Duy Sơn, huyện Duy 
		Xuyên, tỉnh Quảng Nam. 
		Nguồn: saigontimesusa  |