|   | 
		
		 
		
		Chè 
		Xanh Tiên Phước 
		PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT 
		
		Con người đã biết trồng và thưởng thức loại nước chè uống từ cây chè rất 
		lâu, kể ra hàng ngàn năm trong lịch sử.  Ở Việt Nam từ xa xưa, đã có 
		nhiều địa danh chè nổi tiếng như chè Bắc Thái, chè Tuyên Quang...Riêng 
		tại Quảng Nam, chè xanh Tiên Phước là một trong những loại chè được ưa 
		chuộng.  Giữa trưa hè nóng bức hay buổi sáng tinh mơ, có một bát nước 
		chè đậm đặc chính hiệu Tiên Phước còn nóng hổi thì thật thú vị biết 
		nhường nào!  Mùi vị chè tươi với những hương vị đặc biệt sẽ thấm dần qua 
		đầu lưỡi vào trong và kích thích mọi tế bào làm ta khoan khoái vô ngần. 
		
		  
		  
		
		Thật ra, ở Quảng Nam, với điều kiện thiên nhiên và khí hậu thích hợp nên 
		cây chè được trồng ở nhiều nơi.  Ngay cuối thể kỷ XIX, sau khi đặt ách 
		thống trị tại Việt Nam, thực dân Pháp đã chú ý đến loại cây có nhiều 
		hiệu quả kinh tế này.  Sớm nhất có lẽ là Maillard, tức Cố Thiên, năm 
		1884 đã mua 250 ha đất lập đồn điền trồng chè và cả phê không đến Quản 
		Hạt Phú Thượng.  Nối bước theo Maillard, hàng loạt các đồn điền khác do 
		người Pháp quản lý cũng lần lượt ra đời như đồn điền Đức Phú, Trung Đàn, 
		Tùng Sơn.  Họ thuê mướn nhân công là người địa phương để thu hái chè.  
		Cùng với việc thiết lập đồn điền, nhiều xưởng chế biến chè cũng được xây 
		dựng mà lớn hơn cả là chè Đức Phú.  Nguồn chè tươi cung cấp cho xưởng 
		ngoài số chè thu hoạch tại chỗ, còn phải mua thêm chè ở khu vực chung 
		quanh.  Tại Đà Nẵng, Hội An cũng có các hãng chế biến chè xuất khẩu.  
		Trong những năm đầu thế kỷ XX, theo một nguồn tài liệu còn lưu lại thì 
		chè Quảng Nam và Miền Trung được xuất sang Trung Quốc dưới dạng chè xanh 
		và phần lớn sang Pháp, dưới dạng chè đen. 
		
		Như vậy, Quảng Nam là tỉnh có nhiều chè.  Bởi thế khi phong trào Duy Tân 
		nổi lên rầm rộ, ông tú Trương Hữu, người làng Câu Lâm, Điện Bàn có làm 
		bài về ca ngợi rằng: 
		
		  
		
		Nghìn năm xây dựng cơ đồ 
		
		Vật trong thổ sản tỉnh mô dám bì 
		
		Nông Sơn than đá thiếu chi 
		
		Bảo An đường tốt, Trà Mi quế nhiều, 
		
		Bạc, vàng ở tại Bồng Miêu 
		
		Phò Nam, Phú Thượng biết bao nhiêu chè. 
		
		  
		
		Chè Tiên Phước 
		
		Chè là một trong những loại cây trồng chính của người dân trong vùng đất 
		Trung Du, Tiên Phước.  Theo các cụ già cao tuổi, từ xa xưa, khi ông bà 
		tổ tiên đến lập nghiệp đã trồng chè.  Ở Tiên Phước, có hai loại chè: chè 
		bộp và chè sẻ.  Chè bộp lá to, năng suất cao hơn chè sẻ.  Còn chè sẻ lá 
		nhỏ, tuy thu hoạch ít nhưng thơm ngon.  Việc trồng chè tốn nhiều công 
		sức.  Nó đòi hỏi người trồng phải tỉ mỉ, cẩn thận trong quá trình ươm, 
		trồng và chăm sóc cây.  Cứ hàng năm, vào khoảng tháng bảy âm lịch, chè 
		già trái.  Đầu tháng tám, người ta hái hột chè, cắn thử, thấy đen kịt là 
		đúng cỡ chín của nó.  Hột chín được chọn lựa kỹ, bỏ vỏ, lấy phần bên 
		trong.  Từ lúc ươm, đến lúc trồng phải mất hai năm.  Người dân Tiên 
		Phước thường trồng chè xen lẫn với khoai xiêm (tức củ mì hay còn gọi là 
		củ sắn) hàng nọ chen với hàng kia.  Có như thế, khi trời nắng hạn, tán 
		lá khoai xiêm sẽ phủ ra, tạo thành một thứ “giàn che” tự nhiên, tạo điều 
		kiện cây chè con phát triển tốt.  Lúc chè lớn và đủ sức, họ không trồng 
		khoai xiêm nữa.  Nếu tiếp tục trồng, củ khoai xiêm sẽ hút hết chất bổ 
		của đất khiến cây chè còi cọc, cằn cỗi.  Từ lúc trồng đến khi thu hoạch, 
		mùa đầu, kéo dài bộ ba năm.  Người ta chỉ cắt ngọn chứ không hái lá 
		non.  Mỗi năm có ba mùa thu hoạch: tháng hai là mùa chính, sản lượng cao 
		nhất.  Kế đến là tháng tư và tháng tám, lá ít hơn.  Chè vườn trồng ngay 
		trong vườn ngày xưa rất phổ biến ở Tiên Phước.  Nhà nào cũng trồng, dù 
		ít hay nhiều.  Chè trồng trên đồi gọi là chè đồi.  Trước năm 1945, ông 
		Nguyễn Đình Khải, còn gọi là xã Khải, trồng chè xen lẫn với quế.  Ông 
		trồng rất nhiều nên phải thuê người làm.  Công một ngày hồi ấy được trả 
		vài lon gạo, cơm ăn ba bữa không kể.  Ông Nguyễn Đình Khải co con là 
		Nguyễn Đình Triết từng học cùng lớp với cụ Huỳnh Thúc Kháng. 
		
		Mùa thu hoạch chè ở Tiên Phước diễn ra nhộn nhịp khác thường.  Tờ mờ 
		sáng, người dân địa phương đã hối hả chuẩn bị cơm nước rồi ra các vườn 
		chè, đồi chè.  Bằng đôi tay khéo léo, nhanh nhẹn, những lá chè, búp chè 
		được hái gọn, bỏ vào giỏ tre.  Tiếng cười, tiếng nói râm ran.  Chẳng mấy 
		chốc đã đầy giỏ.  Họ kĩu kịt gánh về nhà.  Hình ảnh những đoàn người nối 
		đuôi nhau gánh những gánh chè đầy ắp, tươi rói từ trên những ngọn đồi đi 
		xuống, vừa đi vừa kể chuyện tiếu lâm hay chọc ghẹo lẫn nhau còn ghi dấu 
		ấn khá đậm nét trong tâm khảm của lớp người cao tuổi trên vùng đất trung 
		du này. 
		
		Việc mua bán chè Tiên Phước 
		
		Chè hái về rồi, từng gia đình lại bận rộn chế biến thành chè xanh, chè 
		đen.  Lúc này, mùi thơm của chè lan tỏa khắp thôn xóm, làng mạc.  Những 
		bát nước chè xanh đậm đà, còn hôi hổi nóng khiến họ chốc chốc dừng tay 
		để thưởng thức hương vị thơm ngon của chè xanh đầu mùa. 
		
		Ngày xưa, giữa Tam Kỳ và Tiên Phước chưa có đường nhựa.  Do đó những 
		hiệu buôn Hoa Kiều sau khi mua chè của người dân địa phương, liền đóng 
		gói vô bao cẩn thận, rồi thuê nhân công gánh xuống quốc lộ 1 để đưa lên 
		xe chở ra Đà Nẵng, Hội An.  Người Việt lúc ấy có buôn chè nhưng đều bán 
		lại cho đại lý người Hoa.  Mỗi người quen với một hiệu buôn và mua ở đâu 
		họ cũng đem đến chỗ quen mà bán.  Nhằm tạo mối quan hệ ràng buộc lẫn 
		nhau, hàng năm, nhân ngày lễ, Tết cổ truyền, các đại lý buôn sỉ người 
		Hoa hay biếu quà lặt vặt.  Mặt khác, trong mua bán, họ tỏ ra sòng phẳng 
		nên có uy tín, giữ được mối hàng. 
		
		Như đã biết, thời trước, Hoa kiều giữ vai trò rất quan trọng trong 
		thương mại.  Họ không những chi phối việc buôn bán ở các thị trấn, thị 
		xã...mà còn nắm quyền thu mua các mặt hàng xuất khẩu ở những nơi xa xôi 
		hẻo lánh như Trà Mi, Tiên Phước...Có thể nói rằng hễ ở đâu có nguồn lợi 
		gì là ở đó có sự xuất hiện của người Hoa.  Ngay từ thế kỷ thứ XVI, XVIII 
		thời thịnh đạt nhất của thương cảng Hội An, Hoa Kiều là lực lượng đông 
		đảo nhất.  Rồi đến nửa cuối thế kỷ XIX, bước sang thế kỷ XX, khi Đà Nẵng 
		dần dần thay thế Hội An, người Hoa lại tập trung tại Đà Nẵng.  Đáng lưu 
		ý là họ không chỉ sống ở Hội An, Đà Nẵng.  Những vùng đất được xếp vào 
		loại “khỉ ho cò gáy” nhưng có nhiều sản vật, người Hoa cũng không “từ”.  
		Trong việc mua bán làm ăn, phải nói Hoa Kiều có sự nhạy bén khác thường.  
		Họ mua tận gốc và bán tận ngọn.  Tiên Phước là mảnh đất đáp ứng được 
		những yêu cầu  ấy.  Cho nên, người Hoa lên Tiên Phước lập nghiệp khá 
		đông ở thị trấn và các xã đều có người Hoa.  Tiên Mỹ có Trần Hòa Bình, 
		Tiên Cảnh có chú Mới, Tiên Hiệp có chú Kiền, chú Đáo chú Lạc.  Tiên Minh 
		có Mậu Cà, ông Bang Xiều...Tập thể người Hoa ở Tiên Phước giống các nơi 
		khác, rất đoàn kết giúp đỡ nhau trong làm ăn, buôn bán.  Họ chung tiền 
		xây dựng ngôi chùa ngũ bang có bang trưởng hẳn hoi.  Đó là bang Gia Ứng, 
		Triều Châu, Hải Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông.  Để dễ dàng kinh doanh, đa 
		số họ lấy vợ người Việt Nam làm chỗ dựa về luật pháp thời bấy giờ. 
		
		Chè trong Y Học 
		
		Y học thế giới càng phát hiện nhiều công dụng của chè trong việc trị 
		bệnh.  Tại Nhật Bản, người ta tìm thấy chất tanin có ở trong chè với khả 
		năng hút chất phóng xạ.  Ngoài ra chè con chứa nhiều vitamin, axit amin, 
		các nguyên tố khoáng và các hợp chất khác cần thiết cho cơ thể con người.  
		Chè cũng tổng hợp được cafein và các chất kèm theo nó là teofilin và 
		teobromin.  Trong dân gian, có nhiều phương thuốc hay chữa bệnh từ chè.  
		Ví dụ chè tươi, kết hợp với hành củ, gừng sống, hột đào...giã nhỏ, nát, 
		sắc uống lúc còn nóng, chữa được cảm lạnh về mùa đông.  Sốt dai dẳng 
		dùng một nắm chè xanh, 7-8 con giun đất không mổ ruột đun chín, chắt lấy 
		nước uống một lần và sau bảy đến mười lần như thế cũng sẽ khỏi.  Búp chè 
		tươi còn trị được chứng viêm tai chảy mủ.  Lúc mệt nhọc, căng thẳng, 
		nước chè làm cho sảng khoái, tinh thần minh mẫn. 
		
		Chè với người dân xứ Quảng. 
		
		Cây chè gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt của người dân Quảng.  Ngày xưa, 
		chè xanh hay còn gọi là chè tươi là một loại thức uống thông dụng của 
		mọi tầng lớp cư dân.  Chè hái về, đem rửa sạch, bỏ vào ấm đun sôi.  Đun 
		thế nào để nước ngả màu xanh đậm đặc quánh, mới đúng cách.  Lúc ấy, 
		người ta rót ra bát sành, uống khi còn nong nóng.  Nếu để nguội sẽ mất 
		ngon.  Buổi sáng thức dậy, rót một ấm chè thật đặc, uống lúc còn nóng 
		rồi thong thả vấn một điếu thuốc Cẩm Lệ chính  hiệu...trở thành thói 
		quen của các cụ già cao tuổi.  Trước khi ra đồng hoặc lúc nghỉ giữa buổi, 
		có bát nước chè xanh giải khát thì thật là tuyệt.  Bạn bè thân hữu gặp 
		nhau có chè tươi ngon, đặc biệt là chè Tiên Phước, để mở đầu câu chuyện 
		càng làm không  khí thêm vui vẻ, chân tình. 
		
		Tóm lại, người Quảng Nam có thể uống chè ở mọi nơi, mọi lúc. Ngày xưa, 
		chè xanh được bày bán khắp nơi như tại các ngã ba, ngã tư đường đông đúc 
		người qua kẻ lại, các khu chợ tấp nập kẻ bán người mua hoặc ở những bến 
		đò, bến sông với hành khách nhộn nhịp lên xuống ghe thuyền... 
		
		Hiện nay thú uống chè xanh dường như chỉ còn tồn tại trong lớp người cao 
		tuổi.  Ở thành phố, thị xã, thị trấn...người ta đã có thói quen dùng trà 
		gói, với đủ loại nhãn hiệu và kiểu dáng khác nhau.  Tuy nhiên không vì 
		thế mà thú uống chè xanh mất hẳn đi.  Vẫn có nhiều nơi, nhiều vùng, đặc 
		biệt ở nông thôn người ta ưa chuộng món chè xanh với hương vị đậm đà 
		thơm ngon của nó. 
		  Nguồn: saigontimesusa  |