| 
		 
		
		Chiếc 
		Áo Dài 
		  
		
		
		VƠ PHIẾN 
		
		  
		
		Nữ 
		sĩ Linh Bảo đi dự một đại hội thường niên của các nhà sinh vật học Hoa 
		Kỳ tại tiểu bang Vermont, một hôm vừa bước vào pḥng ăn bỗng nghe tiếng 
		một người đàn ông Mỹ nói sau lưng: “Bà mạnh giỏi không? Áo zài. Chời ơi!” 
		Nữ sĩ quay lại, hỏi chuyện, th́ ông Mỹ tịt: Ông ta chỉ biết có mỗi một 
		câu tiếng Việt ấy. Và trong câu tiếng Việt duy nhất của ông ta đă có cái 
		“áo zài”. 
		
		
		Chúng ta c̣n nhớ, trên sân khấu tŕnh diễn tại hội chợ Osaka, so sánh 
		với thiếu nữ của mấy mươi quốc gia trên thế giới, các cô gái Việt Nam 
		vẫn được đặc biệt chú ư mỗi lần xuất hiện với chiếc áo dài. 
		
		
		Đầu năm 1970 ấy, một phái đoàn đại diện báo chí và các cơ quan truyền 
		thông của ta sang thăm Đại Hàn, ông Tổng trưởng Thông tin và Văn hóa Đại 
		Hàn — bấy giờ là ông Shin Bum Shik — có tặng mỗi người một xấp hàng để 
		về làm quà cho vợ! Mở ra xem th́ là thứ hàng rất mỏng và dài đúng 2m80. 
		“Chời ơi”, ông Shin Bum Shik am hiểu cái món “văn hóa” Việt Nam ấy sao 
		mà kỹ quá vậy? 
		  
		
		  
		  
		
		
		Hai trăm năm mươi năm trước, vào đúng ngày cuối năm Canh Th́n đời Cảnh 
		Hưng, sứ giả nước ta là Lê Quí Đôn gặp sứ giả Triều Tiên là Hồng Khải Hy 
		tại Yên Kinh nước Tàu. Đôi bên bút đàm, thành ra thân mật. Đêm trừ tịch 
		của cái năm Canh Th́n ấy, sứ thần Triều Tiên sai con trai mang đến cho 
		Lê Quí Đôn một phong thư và một món tặng phẩm. Trong thư có những câu: 
		“Nhân giở bản đồ, biết có quí quốc, hai nước chúng ta, Đông Nam xa cách, 
		loài trâu ngựa có dông nhau cũng không kịp. Thế mà được cùng hội họp nơi 
		Hồng Lô quán, thực là ngoài sức tưởng tượng”. 
		
		
		Hai trăm năm sau, sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước Hàn Việt càng vượt 
		xa cái sức tưởng tượng của Hồng sứ giả không biết đến bao nhiêu mà nói. 
		Không cần “giở bản đồ”, người đồng bào lỗi lạc của Hồng sứ giả không 
		những đă biết rơ về nước Việt Nam, lại c̣n biết vanh vách đến cả món y 
		phục của đàn bà con gái nước này nữa. Không những Shin tiên sinh nắm 
		vững kích thước của áo dài, ông lại cảm thông đến cả cái sở trường của 
		nó, là thật mỏng! 
		
		
		Nhưng trong câu chuyện này không phải chỉ có Shin tiên sinh là đáng 
		khen. Phải nhận rằng về phần chiếc áo dài Việt Nam, tự nó cũng phải xuất 
		sắc mới được. Thật chứ: Để cho bấy nhiêu chi tiết về nó thấu đến tai nhà 
		lănh đạo văn hóa một quốc gia cực bắc, món nữ phục của nước Đông Nam Á 
		này phải lẫy lừng lắm. 
		
		Áo 
		dài lẫy lừng ở quốc ngoại. Nó cũng không ngớt ghi những thành công liên 
		tiếp ở quốc nội. 
		
		
		Đôi ba mươi năm trước, phụ nữ miền Nam không mấy người mặc áo dài. Ngày 
		nay th́ chiếc áo dài đă thẳng xông xuống tận Năm Căn, U Minh... Áo dài 
		đă Nam tiến đến mũi Cà Mau. 
		
		
		Con đường Tây tiến của nó nhiều trở ngại hơn, nhưng không hẳn sẽ bế tắc 
		đâu. Chúng tôi có dịp đến xem lễ chịu tuổi của đồng bào gốc Miên tại 
		ngôi chùa đường Trương Minh Giảng đă thấy hầu hết các cô gái Miên đều 
		mặc áo dài. Ở Ninh Thuận, B́nh Thuận, các nữ sinh trung học gốc Chàm mặc 
		một thứ áo cổ truyền đă cải biến, rất gần với chiếc áo dài của ta. 
		
		
		Hai sắc dân thiểu số tiến bộ nhất đă dần dần chấp nhận áo dài, chắc chắn 
		một ngày không xa, chúng ta sẽ thấy các bạn gái sắc tộc trên Tây nguyên 
		mặc áo dài. Phải, hiện nay th́ chưa có, hay hiếm có lắm, cái h́nh ảnh 
		một thiếu nữ Gia-rai, hay Ba-na, hay Xơ-đăng v.v... với áo dài tha 
		thướt. Nhưng họ đă dùng bà ba, áo thun, xú-chiêng, sơ-mi... Họ sẽ tiến 
		đến áo dài là cái chắc. 
		
		Và 
		như thế, thiết tưởng áo dài có một đóng góp không nhỏ vào việc làm nồng 
		nàn thêm t́nh cảm dân tộc. 
		
		
		Trong một thiên truyện nọ của Sơn Nam, thầy phái viên nhà báo Chim Trời 
		ở Sài G̣n xuống tận xóm Cà Bây Ngọp ở Rạch Giá t́m ông độc giả Trần Văn 
		Có để đ̣i hai đồng sáu cắc rưỡi tiền mua báo. Đến nơi, chủ và khách, sau 
		bữa cơm chiều, đốt lửa un khói rồi chui vô trong mùng trốn muỗi, ngồi 
		nói chuyện. Quanh quẩn một hồi, hai người gặp nhau ở những trang Quốc 
		văn giáo khoa thư: kẻ nhớ bài “Chốn quê hương là đẹp hơn cả”, người 
		thuộc bài “Thú chăn trâu”, mỗi người thay nhau đọc to lên một câu, có 
		khi cả hai cùng hợp xướng: “Đầu tôi đội nón mê như lọng che, tay cầm 
		cành tre như roi ngựa...”. Cuộc hàn huyên thú vị quá, t́nh nghĩa giáo 
		khoa thư đầm ấm quá. Sáng hôm sau, thầy phái viên báo Chim Trời từ giă 
		ông bạn đi về Sài G̣n, không thâu một cắc bạc nào. 
		
		
		Hăy tưởng tượng một ngày kia những người bạn gái gặp nhau, kẻ ở U Minh 
		người trên Phú Bổn, kẻ gốc Chàm Phan Rí, người gốc Miên Sài G̣n v.v... 
		mà có thể cùng nhau bàn tán om ṣm về những chuyện tà nam, tà bắc, cổ 
		thuyền, cổ hở, cổ tṛn, cổ vuông, eo suông, eo thắt v.v... th́ cuộc gặp 
		gỡ sẽ hào hứng, thân mật biết mấy! Giữa đàn bà con gái với nhau mà không 
		gặp nhau được ở đề tài ăn mặc, không đem chuyện áo chuyện xống nói với 
		nhau được th́ biết làm sao gây được thân t́nh? 
		
		
		Nhất định rồi một ngày nào đó, tất cả các bạn gái Việt Nam sẽ gặp nhau. 
		Và cũng nhất định, cuộc gặp nhau trên vạt áo dài con gái càng đông đảo, 
		vui thú, thân thiết hơn cuộc gặp trên những trang Quốc văn giáo khoa 
		thư. 
		
		
		Thế cho nên chúng ta tin mạnh ở sự thành công của cuộc thống nhất đất 
		nước bằng chiếc áo dài. Nó êm thấm, đẹp đẽ hơn những đường lối thống 
		nhất bạo tàn biết bao! 
		
		Áo 
		dài Việt Nam thắng lớn trong nước và ngoài nước, do đâu mà được vậy 
		
		
		—Do nó cho thấy gió. 
		
		
		Nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm, sau nhiều tháng ở hội chợ Osaka, chứng 
		kiến sự thắng lợi của chiếc áo dài Việt Nam trước các đối thủ quốc tế, 
		sau khi so sánh các ưu khuyết điểm của y phục phụ nữ các nước được phô 
		diễn tại đây, đă nhận xét như thế. 
		
		
		Mặc áo dài mà đứng yên chưa chắc đă ăn đứt nổi những cô gái Âu Á khác 
		mặc y phục dân tộc của họ. Nhưng mặc áo dài mà đi, mà múa v.v... th́ 
		người con gái Việt Nam linh động hẳn lên. 
		
		Áo 
		dài Việt Nam nó vừa theo sát những nét tuyệt mỹ của thân người, lại vừa 
		thêm cho tấm thân ấy sự linh động phơi phới mà nó vẫn ao ước. Những tà 
		áo nhẹ ve vẩy phất phơ trong gió làm cho một thân h́nh nặng nề nhất, cục 
		mịch nhất, cũng hóa ra thanh thoát. 
		
		
		Thân người là đẹp, nhưng thứ y phục chỉ nhằm khai thác cái đẹp của thân 
		người th́ rơ ràng là tục. Trang phục là văn hóa, văn hóa là một cố gắng 
		cải biến thiên nhiên. Trang phục mà như mini-jupe, th́ ấy là một cuộc 
		phi nước đại trở về tự nhiên, gợi lên những ham muốn trực tiếp vào “ṭa 
		thiên nhiên”, là một chối bỏ văn hóa. 
		
		
		Nhưng thân người đẹp, y phục không được phép xóa hẳn cái thân người đi. 
		Trang phục mà như chiếc kimono Nhật th́ là một sự quá trớn của văn hóa 
		đấy nhé. Văn hóa cũng phần nào thôi chứ. 
		
		
		Chiếc áo dài Việt Nam là một sự dung ḥa giữa tự nhiên và văn hóa. Phần 
		trên của nó đề cao thân người, bạo và tục; đă có phần dưới rất thanh, 
		thoát hẳn thân người. 
		
		
		Nh́n vào một người nữ mặc áo dài, sau khi bị khích động v́ cái phần 
		trên, mắt lần ḍ nh́n xuống, th́ ở phần dưới lại chỉ thấy... gió! Vâng! 
		ở đây chỉ thấy có gió (như người nhiếp ảnh gia tinh mắt đă thấy), có cái 
		thướt tha, cái bay bướm mà thôi. 
		
		
		Luận về dân tộc tính, có người đă đặc biệt chú ư đến cái đức tính truyền 
		thống của người Việt Nam là đức tính thiết thực, thể hiện trong lối ăn 
		mặc những áo quần (nhất là quần) rất ít màu sắc. Đúng lắm, quần áo chúng 
		ta lại c̣n thiết thực ở chỗ gọn ghẽ, giản đơn nữa. Tuy nhiên, nhận xét 
		đây không bao gồm chiếc áo dài phụ nữ. Áo dài gái Việt th́ được phép màu 
		mè sặc sỡ, được phép lả lướt. Tha hồ! 
		
		Mà 
		như vậy phải chứ. Trong cuộc sinh hoạt thường nhật ở một hoàn cảnh gian 
		khổ, dân tộc ta thiết thực; nhưng áo dài không phải là sinh hoạt thường 
		nhật. Nó là hội hè. Dân tộc nào cũng tự cho phép ḿnh có những ngày hội, 
		những cuộc vui. 
		
		
		Những ve vẩy phấp phới của các tà áo dài là niềm vui hợp lư mà chúng ta 
		tự thưởng cho ḿnh bên cạnh những lao tác nhọc nhằn. Là cái văn vẻ trong 
		cuộc sống tinh thần của dân tộc, sau khi đă nỗ lực củng cố cuộc sống vật 
		chất. 
		
		
		Bởi vậy, trên đất nước, hễ nơi nào c̣n đang khai phá, c̣n đang bận rộn 
		vất vả nhiều về công cuộc xây dựng những cơ sở vật chất của đời sống th́ 
		chiếc áo dài chưa vội xuất hiện. Chỉ nơi nào đất mới đă khai phá xong, 
		điều kiện sinh sống đă thiết bị xong xuôi, con người đă thảnh thơi, bấy 
		giờ th́ hai vạt áo của người đàn bà Việt Nam mới tự buông thơng xuống, 
		phe phẩy, và reo vui với gió. 
		
		
		Hồi sinh thời, anh Y Uyên thích một câu ca dao của tỉnh Phú Yên: 
		
		“Con 
		ngựa tía ăn quanh đèo Cả, 
		
		
		Vầng nguyệt đêm rằm bóng ngả về đông. 
		
		
		Chẳng thà tôi giục ngựa về không, 
		
		
		Chẳng thèm cướp của giành chồng người ta”. 
		
		
		“Về không”? — Tốt lắm. Nhưng chuyện “giục ngựa” nghe có hơi kỳ. Đây là 
		chuyện của con gái Phú Yên ba bốn mươi năm trước. Thuở ấy, con gái Phú 
		Yên quấn khăn trùm đầu, cưỡi ngựa phóng như bay. Thuở ấy dĩ nhiên họ 
		chưa mấy người mặc áo dài. Thuở ấy, ở Phú Yên, gái cũng như trai, c̣n 
		phải xông pha vất vả; cũng là cái thuở — như Vơ Hồng từng cho biết — mà 
		văn bằng yếu lược là cả một sự hiếm hoi, cuộc sống tinh thần chưa kịp lo 
		đến. Như thế không phải chỉ riêng trong Nam, mà ngay ngoài Trung, trước 
		đây chẳng bao lâu cũng vắng bóng chiếc áo dài phụ nữ. 
		
		
		Rồi dần dần Phú Yên có văn sĩ, có luôn áo dài. Rồi trong Nam cũng lại 
		nhiều văn thơ, và... áo dài. Áo dài xuất hiện, rồi thịnh phát cùng với 
		sự tăng cao của mức sống, cùng với sự thuần hóa của nếp sống. 
		
		Nó 
		là món trang phục đẹp đẽ. Nó đáng yêu, đă đành; nó lại là một dấu hiệu 
		đáng mừng. 
		  Nguồn: saigontimesusa  |