|   | 
		
		 
		Chim 
		Mía và Đường Táng Quê Hương 
		
		
		ĐOÀN NGỌC NAM  
		
		Ông bà ta thường nói: 
		
		“Lúa thóc ở đâu - Bồ câu theo đó”  
		  
		
		Quả thật vậy, ở đâu có đồng lúa chín vàng, tức thì thấy 
		xuất hiện từng bầy chim bay lượn khắp đó đây. Đó là loài chim du thực, 
		sinh con đẻ cháu thì ở tận núi xanh, mà sinh sống kiếm ăn lại xuống miền 
		đồng nội, trong những vụ mùa lúa chín. Người nông dân đặt tên cho chúng 
		nó là con chim gì đây?Đất Gò Nổi được tạo hóa ưu đãi tạo dựng thành vùng 
		đất phù sa màu mỡ. Đồng lúa và ruộng mía được người nông dân gieo trồng 
		khắp mọi nơi. Ruộng điền thì cấy lua, ruộng thổ thì trồng mía. Hai loại 
		nông sản này san sát bên nhau, được trải dài khắp vùng, từ cực tây Tư 
		Phú đến tận cực đông An Trường. Bởi vậy, mỗi khi nhớ đến CON CHIM MÍA, 
		tôi không quên TÁNG ĐƯỜNG của Quê Hương. Hai món đặc sản này luôn luôn 
		được đi đôi với nhau, như trái mít non và con cá chuồn vậy: 
		
		“Ai về nhắn với Bạn nguồn 
		
		Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên” 
		  
		
		  
		  
		
		Gò Nổi, quê tôi có gì hấp dẫn bà con nông dân ở đây?Đó 
		phải chăng là nơi chôn nhau cắt rốn, được nối liền tình nghĩa họ hàng, 
		xóm làng qua bao nhiêu thế hệ. Sự dứt bỏ ra đi khỏi quê hương, đất Tổ 
		quê Cha là một niềm đau xót rây rứt trong lòng của mọi người nông dân ở 
		đây. Nguyện vọng thô thiển và mộc mạc của họ là được sống và chết trên 
		mảnh đất Quê Hương. Họ không quản ngại gian nan khổ cực, dãi nắng dầm 
		sương quanh năm suốt tháng, chăm lo vun trồng cho đồng lúa xanh tốt, 
		chín vàng nặng hạt. Đồng mía bao la, cây mập - lóng dài.Thời xưa, trong 
		một năm người ta chỉ làm hai mùa lúa chính, mà giống lúa thì dài hạn, 
		đến 6 tháng mới thu hoạch. Mùa lúa cấy thì gặt từ tháng 3 âm lịch, và 
		mùa lúa gieo gặt vào tháng 10 âm lịch. Nhờ trời mưa thuận gió hòa, mùa 
		gặt tháng 3 thu hoạch có phần khấm khá. Trái lại, mùa tháng 10 thường 
		hay thất thu, vì thời tiết bất lợi, lụt to gió lớn: 
		
		“Ông tha mà Bà chẳng tha, 
		
		Không qua lụt hai mươi ba tháng mười” 
		
		Ngoài khó khăn trở ngại về thời tiết, người nông dân còn phải lo đối phó 
		với nạn sâu rầy, ăn vàng lá lúa lúc đương thời non mạ, và với lũ chuột 
		đồng, cắn sả lúc đương thời kỳ lòng đòng.Đến khi thấy đồng lúa chín vàng, 
		tưởng chừng đâu lúa thóc sắp sửa vô bồ; Lại thấy xuất hiện lũ chim ác 
		nghiệt, chúng nó từng bầy hàng ngàn, hàng vạn con, men theo dòng sông từ 
		miền rừng núi bay về đồng nội, để tha hồ ăn hại, phá hoại mùa màng. Đám 
		ruộng mía nào không may gặp bầy chim hạ sà xuống, chỉ một thời gian ngắn 
		thôi cũng đủ tiêu điều. Chúng nó vừa ăn vội vàng, vừa kêu ríu ra, ríu 
		rít om sòm cả một vùng trời.Người nông dân cũng không chịu thua những 
		con chim tinh ma này. Cánh đồng lúa chín vàng, vang vọng đó đây tiếng 
		khua đuổi: Quơ... quờ… quợ. Cứ bị đuổi chỗ này, chúng lại bay sang chỗ 
		khác. Bởi thế, để giúp sức cho con người, hàng loạt con bù nhìn mới có 
		cơ hội xuất mặt lộ diện. Bù nhìn bằng rơm, cũng mang tơi rách, đội nón 
		cời, tay cầm roi – a dua xua đuổi những con chim ranh mãnh, khi được 
		giựt dây...Bị bao vây, theo đuổi dài dài, không lẽ những chú chim này 
		chịu bay vòng vòng, tren bầu trời mãi mãi hay sao? Ruộng mía bây giờ là 
		sào huyệt, là nơi đậu dừng chân nghỉ cánh của bọn chúng. Hơn nữa trong 
		thời gian ngắn lưu lại vùng đồng lúa chín, ruộng mía cũng là nơi ngủ đêm, 
		và là vùng đất tạm dung của những bầy chim du thực, chứ không phải là 
		nơi sinh sống vĩnh viễn cho chúng nó.Cũng vì thế, chúng nó được người ta 
		áp đặt cho một cái tên: “Con Chim Mía”. Loại chim này thuộc loại nhỏ 
		con, cũng giống như các loại chim se sẻ, dồn dộc, chim ri, chim sâu… 
		Loại chim mía có thể không bao giờ thấy chúng nó làm tổ ở miền đồng bằng. 
		Con trống - con mái rất khó phân biệt. Màu lông xam xám, rằn lác đác, mỏ 
		nhọn, chân mảnh, mình thon và yếu ớt. Ngoài cách xua đuổi, người ta còn 
		tìm cách này hay cách nọ, để bắt cho được chúng nó, giảm đi một phần 
		thiệt hại đáng kể. Thổi ong đồng cũng là một cách. Trong những đêm trời 
		mưa bão, người ta mang theo đèn pin, ống đồng và những hạt đạn được nặn 
		bằng đất sét, trộn chút ít muối sống phơi khô. Những con chim mía ngủ co 
		ro vì mưa bão, trên ngọn mía là mồi ngon – lần lượt rơi rớt lộp độp. Lối 
		bắt chim mía theo kiểu thổi ống đồng chỉ có tính cách tiêu khiển mua vui. 
		Đại qui mô hơn là rập chim mía. Cứ vào buổi chiều, chập choạng tối, 
		người đi rập chim mía chuyên môn dò xem điểm tụ của những bầy chim ở đâu? 
		Gió thổi về hướng nào? Nắm được yếu điểm, kết quả rập được thường là rất 
		mỹ mãn, không đời nào để lưới trống không. Bộ lưới rập chim rất đơn giản, 
		gồm một tấm lưới đan bằng gai (lá cây gai làm bánh ít ngọt rất ngon), lỗ 
		lưới nhỏ vừa phải, bề ngang có khi trên 10 mét, bề cao trên 5 mét. Bên 
		dưới tấm lưới, đan thành bụng rốn để chứa chim khi mắc bẫy. Móc vào hai 
		cạnh bên của tấm lưới, hai cây sào bằng ngọn cây tre.Người ta chọn vào 
		những đêm tối trời, có mưa to gió lớn là thời điểm thuận lợi nhất để đi 
		rập chim mía. Một số người căn tay lưới và đơm về hướng đã định sẵn. Còn 
		lại một số người khác, chia nhau len lỏi lội vào các đám mía lân cận, và 
		nhè nhẹ khua đuổi cho bầy chim mía di chuyển dần đến chỗ bày tay lưới 
		chực sẵn. Tài nghệ là đừng bao giờ làm: NỔ, có nghĩa là làm cho bầy chim 
		hoảng sợ, cất cánh bay cao. Khi đã đến đích cuối cùng, chỉ cần đồng loạt 
		la thật to: QUỢ... Cả bầy chim vừa bay ra, liền bị tay lưới đánh sập 
		xuống, tóm gọn cả bầy - Tha hồ mà bắt cho thật đầy giỏ.Công việc bắt 
		được những con chim mía, nghĩ cũng là: “nhất cữ mà lưỡng tiện”. Thứ nhất 
		tiêu diệt một phần không phải là ít loài chim phá hại. Thứ hai nữa, 
		những con chim đó cũng khá béo mập, xương lại mềm, đem um dầu mà lai rai 
		trong những ngày mưa lạnh ở nông thôn cũng thú vị lắm. Hấp dẫn hơn nữa, 
		khi những con chim mía lọt ra thị thành, vào tận đến các nhà hàng sang 
		trọng, biến chế thành món nhậu số 1 - món chim mía rô ti, trong ruột độn 
		thêm hạt đậu phụng, đem trưng bày trên đĩa xà-lách, cà chua, thì thật là 
		ngon tuyệt.Hết mùa lúa chín, người ta không còn thấy những bầy chim mía 
		lai vãng. Một phần còn sót lại, chúng nó rủ nhau bay trở về nguồn, để 
		rồi tiếp tục đẻ trứng - nuôi con, và chờ đến mùa lúa chín sang năm sẽ 
		trở lại... 
		
		Nói về con chim mía xong rồi, thiết tưởng cũng nên đề cập đến ruộng mía. 
		Ở nông thôn, ngoài nông sản chính lúa thóc, nông sản phụ ruộng mía cũng 
		là một nhu yếu phẩm đáng kể, giúp cho đời sống người nông dân sung túc 
		hơn. Vì thế, đất để trồng mía được chọn lựa kỹ lưỡng hơn đất trồng bắp, 
		khoai lang, đậu mè...Giống mía trồng để nấu đường thường gọi là mía ta. 
		Thân cây mọc thẳng, cao độ 3 mét trở lại. Màu da cây mía tím đà hay vàng 
		sậm, lóng dài, vỏ mỏng và trong thân cây chứa bọng nước. Các loại mía 
		khác như mía mưng, mía đỏ tía, thân cây thường lớn hơn mía ta, chỉ trồng 
		trong vườn dùng để ăn chơi, vì ít nước và nhặt lóng.Vào khoảng tháng 
		giêng, tháng hai âm lịch là mùa trồng mía tốt nhất, khí hậu mát mẻ, đất 
		khô ráo, ngọn mía trồng mau nẩy mầm. Ruộng thổ được cày lên và phơi một 
		thời gian cho đất ải. Sau đó cho trâu bộng để làm cho đất nhỏ cục, bấn 
		mịn… Tiếp theo là bừa để thu nhặt cho thật sạch cỏ, và sau đó rải đều 
		phân trước khi trồng ngọn mía. Con trâu đi trước rọc hàng những người đi 
		sau chỉ việc cắm ngọn mía giống xuống đất, cứ hai hàng cày thì cắm một 
		hàng mía, đầu ngọn hơi chếch lên trời một tí là được. Hàng cày đi sau sẽ 
		lấp đất phủ kín ngọn mía đã trồng. Một con trâu rọc hàng cũng phải mất 
		đi từ 4 đến 5 người mới kịp đặt trồng ngọn mía. Thời gian sau cây mía 
		mọc lên cao khỏi đầu gối, bắt đầu làm cỏ và vun tém đất vào gốc cây mía, 
		một hai lần là bỏ thẳng cho đến ngày thu hoạch, lau phát mía. Ruộng mía 
		trồng lần đầu, thời gian đến một năm, gọi là mía tơ. Mía tơ thân cây 
		mượt, nước nhiều, đường nấu được thanh dịu và tinh khiết. Ruộng mía sau 
		khi phát, dọn sạch, giữ lấy gốc cũ, cày bừa, vô phân trở lại gọi là mía 
		gốc. Mía gốc lấy đường không được tốt như mía tơ. Nhưng đỡ tốn công hơn 
		nhiều. 
		
		Mùa lau phát mía vào tháng 1 hay tháng chạp ta, dành cho loại mía gốc. 
		Còn loại mía tơ, phải đợi đến tháng 2 hay tháng 3 trong tiết Thanh Minh, 
		đồng loạt rập ràng dựng chòi đạp mía - nấu đường.Mùa lau mía ở nhà quê 
		thật là vui nhộn. Tại đám mía, trai tráng tay cầm dao bầu, từng nhóm đua 
		nhau phơ hết tán gốc những cây mía đầy nước ngọt lịm. Trên đường về chòi 
		đạp, những gánh mía nặng trĩu kẽo kẹt trên vai bác nông phu. Rác mía (lá 
		mía khô) chuyên chở tấp nập, choáng hết lối đi của người bộ hành. Khách 
		gần xa, ghé vào đám, xin một vài cây mía để ăn giải khát là thường tình. 
		Người dân quê sống có tình cảm lắm chứ! Của ngày mùa mà. Bọn con nít, 
		nhiều khi làm biếng, ưa ăn của sẵn, vào chòi đạp mía để xin ăn cho gần, 
		ăn quen xin tới - xin lui nên có khi bị từ chối, sinh ra bất mãn - trù 
		rủa vô cớ. Chúng có biết đâu: “của một đồng - công một lượng” mà. 
		
		“Tau xin cây mía không cho 
		
		Tau về, tau vái ông lò bà lè 
		
		Sụp chảo đổ chè 
		
		Trâu què che gãy 
		
		Bà con bay, lên núi hốt dòi về mà ăn”Ấy thế, mà có ai lại ghét bỏ bọn 
		trẻ con bao giờ đâu. Mía không cho, lại cho uống nước chè hai (nước mía 
		khi nấu sôi), cho ăn đường chắt (đường vắt trong thùng rót) hay mảnh 
		đường cầu (mảnh đường bắt cầu từ táng này qua táng nọ) là thường 
		tình.Làng nào thấy có ruộng mía, nơi đó có dựng chòi đạp mía - nấu đường. 
		Chòi đạp mía được cất dựng thô sơ. Đó là cái chòi vòm hình tròn, sườn 
		bằng tre lợp tranh, che mưa nắng tạm thời. Nơi đây đặt một bộ che, gồm 
		hai khối hình trụ bằng gỗ lim thật nặng. Đường kính khoảng 5 tấc chiều 
		cao khoảng 1 thước rưỡi ông che bà che quay ngược chiều với nhau, nhờ bộ 
		răng ăn khớp ở phần trên. Giữ cho bộ che đứng vững nhờ bộ giàn: trên đè 
		- dưới giữ. Phần bộng bên dưới có đường khe dẫn nước mía chảy ra. Con 
		trâu mang ách đi vòng quanh, làm cho bộ che quay tròn đều đều, tiếng kêu 
		kẽo kẹt - rộn rã... Người chụm che, lần lượt đưa vào bộ che từng hai cây 
		mía một, xuyên qua bàn lùa để tránh nguy hiểm. Cây mía được ép qua che 
		hai - ba lần mới thải ra ngoài và trở thành chất đốt cùng với rác mía 
		đun lò để nấu đường.Lò nấu đường cũng được đào ngay bên cạnh chòi đạp 
		mía cho tiện. Lò đào sâu xuống mặt đất một thước, gồm có hai phần: phía 
		trước là cửa lò, rộng rãi để dễ đưa từng bó rác hay bã mía khô vào đất. 
		Phần sau là phần đặt ba chiếc chảo bằng gang cỡ to (11 chỉ). 2 chiếc đặt 
		ở phía trước gần cửa lò và 1 chiếc đặt ở phía sau gần lỗ lù. 
		
		Thoạt đầu, nước mía ép được đem đổ vào 3 chiếc chảo, khi nước mía vừa 
		sôi, lần lượt múc ra bằng chiếc gáo, làm bằng vỏ nửa trái bầu khô, và đổ 
		chứa vào cái thùng lóng thật to, đóng bằng gỗ. Nước mía lúc này gọi là 
		nước chè hai, uống ngon và mát lắm.Sau khi lọc sạch chất dơ bẩn, nước 
		mía lại được vợi qua chảo, để tiếp tục nấu trở lại cho thành đường. Ba 
		chảo nước chè hai, nấu một thời gian cao lại còn 2 chảo, và cuối cùng 
		còn lại một chảo.Người thợ nấu đường không quên cho vào chảo đường, một 
		ít vôi bột để cho đường thanh nước. Càng về sau chảo đường càng vợi đều 
		tay, để tránh nước đường trào ra ngoài. Khi chảo đường đến độ sa cánh 
		dơi, mà ném vào đó một xâu khoai lang củ nhỏ và đợi cho nó teo lại, ăn 
		ngon khỏi phải chê. Hay lẹ hơn, thả vào cái bánh tráng nướng, vớt lẹ ra 
		cũng tiện. Đường sa cánh dơi, đem đổ vào bẹ chuối túm hai đầu gọi là 
		đường xối hay đem đổ vào cái bát uống nước, trên lớp mặt rải hạt mè rang 
		chà vỏ gọi là đường non. Bát đường non làm quà biếu tặng chỗ thân tình, 
		ngày đầu mùa tình nghĩa.Nghề nấu đường ở quê tôi, cốt yếu là nấu đường 
		hạ (đường nước) hay đường cát (đường trong muống đã rút mật). Nhưng 
		thông dụng nhất là Đường Táng, một thứ đường thật là quen thuộc với mọi 
		người dân xứ Quảng, không một ai mà không có nhiều lần ăn tới nó, biết 
		thưởng thức mùi vị ngọt đậm đà - ngon và bổ của loại đường địa phương 
		này.Muốn có được những táng đường, dụng cụ rất giản tiện, gồm có một cái 
		thùng rót, đóng bằng gỗ cây mít, niềng bằng tre chẻ nhỏ và bện lại với 
		nhau. Trên miệng thùng có hai cái thanh cao trội hơn, dùng để bưng khi 
		rót đường vào chén qua cái phễu trên miệng thùng. Thùng rót cũng vừa 
		phải nặng, khoảng 10 lít. Một bộ chén bằng đất, loại có thể nói xấu nhất 
		và trẹt lét là bộ khuôn để rót đường táng. Bộ chén này được sắp thành 4 
		hàng dọc trên một tấm ván, trước khi rót đường không quên thoa vào thành 
		chén một chút nước muối, thấm ở đầu cộng tàu lá chuối.Khi chảo đường tới 
		nước, người thợ múc hết đường đổ hết vào thùng rót. Đợi một thời gian 
		ngắn cho đường vừa hơi nguội, dùng cây chày bằng gỗ, từ từ quậy đều vòng 
		vòng theo thành thùng rót.Đến khi nào thấy nước đường sánh lại, hơi có 
		cát, lúc này lần lượt rót vào các dãy chén đã sắp sẵn. Nhớ không quên đi 
		trở lại, rót mỗi chén một tí nữa để mặt táng đường nhô phồng lên, và nứt 
		rạng mới có mỹ thuật. Có điều cũng lạ, táng đường được rót ra từ cái 
		chén trẹt lét, mà gọi tên là Bát Đường, chứ không gọi chén đường? Khi 
		đường nguội rồi, người ta cầm lên và chỉ cần xoay nhẹ một cái, lấy ra 
		bát đường. Cứ hai bát đường úp mặt lại với nhau gọi là một cặp, đem quấn 
		rơm khô và chất vào chiếc bầu nan đan bằng tre của bạn hàng ngồi chực 
		sẵn, đem đi bán...Đường táng là một món ăn rất thông dụng ở nhà quê, cầm 
		một táng đường vừa lọt trong lòng bàn tay, đập mạnh một cái nghe cái CỤP 
		vào cây cột nhà, táng đường bể thành những miếng nhỏ, đem cục đường ăn 
		với miếng bánh tráng nướng, miếng gừng tươi hay với cái khóm mít vừa mới 
		hái, cũng cảm thấy ngon ngon. Hay đem đường táng cạo thành bột, dùng ăn 
		với đậu hủ, trộn vào bột nếp rang, bột đậu xanh rang mà in thành bánh 
		cũng tiện. Ở thôn quê, món cháo ngọt nấu bằng đậu đen - nếp và chút ít 
		gừng tươi giã nhỏ, mà không dùng đến loại đường táng thì chưa đúng điệu. 
		Đường táng còn dùng để đổ bánh tổ mới hợp gu, mùi vị mới đậm đa. Bánh tổ 
		mà dùng loại đường cát trắng, coi bộ đẹp bên ngoài, chứ tranh cái cốt 
		cách, đậm đà thua đường táng là cái chắc.Ngày nay - Hồi tưởng lại, tôi 
		nhớ Quê Hương qua con Chim Mía và Táng Đường. Con Chim Mía cũng không 
		lấy gì làm hấp dẫn cho mấy, khi chúng nó chỉ là món ăn đơn thuần. Trái 
		lại hình ảnh chúng nó là những con chim có Tổ, có NGUỒN GỐC để trở về - 
		mới đáng nhớ. Còn Táng Đường Quê Hương luôn luôn khiêm nhượng, mãi mãi 
		vẫn giữ được phẩm chất Nguyên Thủy của nó: Đậm Đà - Chắc Nuội, mà bất cứ 
		ai ai cũng đều ưa chuộng. Và nhất là Anh Em Bạn Tù, không phân biệt Nam, 
		Trung hay Bắc cũng đều Khen Ngon - Ngọt Đủ Đô. 
		 
		 
 Nguồn: saigontimesusa  |