|   | 
		
		 
		ĐẠP LÓ, BẮN BÔÔNG  
		
		TRẦN VĂN TÍCH 
		
		Quê tôi (Quảng Trị) mỗi năm thu hoạch được hai vụ lúa, một vụ gạo trắng, 
		một vụ gạo đỏ, vụ gạo trắng là vụ chính. Lúa gặt xong chất thành đống 
		bên bờ ruộng. Khi đã gặt được khá nhiều, một bác lực điền sẽ phụ trách 
		bó lúa lại từng bó lớn. 
		
		Lạt để bó lúa đã được chuẩn bị sẵn từ những ngày đông tháng giá. Người 
		nông dân chọn loại tre trung niên, không già không non, dai sức, ít mắt, 
		để chẻ lạt. Sợi lạt dài cỡ ba mét, to bản, bề ngang lối một xăng-ti-mét 
		và dày chừng bốn đến năm mi-li-mét. Lạt chẻ sợi rồi hong trên giàn bếp 
		hun khói cho thêm bền, đồng thời tránh mối mọt. Bó lạt khi mang ra ruộng 
		được ngâm dưới nước ruộng cho dịu và dẻo. 
		
		  
		
		Việc bó lúa là cả một nghệ thuật đòi hỏi không những phải sức khỏe mà cả 
		sự khéo léo. Sợi lạt được đặt nằm dọc bờ ruộng lúa và được chất thành 
		một đống cao trên sợi lạt.  Bác lực điền - việc bó lúa là việc riêng của 
		nam giới - dùng sức mạnh xoắn sợi lạt quanh trục chính của nó khiến nó 
		giập ra, mềm oặt ở hai điểm cách một đầu lạt khoảng chừng mười 
		xăng-ti-mét. Phần bị giập, bị xoắn mềm này sẽ được gấp thành một nút 
		thòng lọng thật đơn giản. Đầu kia của sợi lạt được luồn vào trong nút 
		thòng lọng và người thợ gặt hết ra sức xiết mạnh bó lúa bằng cách dùng 
		toàn lực kéo đầu sợi lạt nằm trong thòng lọng; đồng thời dùng tất cả sức 
		nặng của thân thể đẫy đà của mình đè lên bó lúa, ép nó, thúc nó, dồn nó, 
		đè nó để buộc gọn đống lúa ở khoảng giữa các thân cây lúa mới gặt thành 
		môt bó chắc chắn. Khi đã đạt tiêu chuẩn chặt và chắc, đầu lạt không phải 
		là thòng lọng cũng được vặn cho mềm nhũn và buộc xoắn vào với đầu kia 
		thành một cái nơ bền bỉ. Bó lúa bó xong trông gồm hai hình nón cụt nối 
		vào nhau mà thắt lưng là sợi lạt. 
		
		Để gánh các bó lúa này về nhà phải dùng đòn xóc là một loại đòn gánh đặc 
		biệt, hai đầu vót nhọn hoắt, làm bằng tre già rất chắc và hong khói 
		thường xuyên đến độ trở thành nâu sậm và láng bóng. Đặc biệt đòn xóc còn 
		được uốn cong như một vành cung để khi gánh hai bó lúa nặng chình chịch 
		ở hai đầu thì nó oằn xuống trở lại thành ra một đòn thẳng. Nếu không uốn 
		sẵn thành vòng cung thì hai bó lúa rất nặng ở hai đầu đòn xóc sẽ bị 
		trọng lượng lúa kéo cong hai đầu xuống tạo thành vòng cung lõm về phía 
		dưới và như thế tất nhiên hai bó lúa phải rơi xuống đất. Nói cách khác, 
		đòn xóc không có bộ phận để giữ bó lúa, nó chỉ giữ được gánh lúa mới gặt 
		chừng nào nó không bị cong hai đầu. Người thợ gặt dùng đầu nhọn của đòn 
		xóc đâm thật mạnh, thật sâu vào bó lúa mới gặt, ngay phía dưới sợi lạt 
		của bó lúa. Sau đó  dùng hai tay nâng bó lúa lên cao và vác nó đến bó 
		lúa thứ hai. Với một bó lúa xóc sẵn ở một đầu, đòn sóc lại được đâm sâu 
		và đâm mạnh vào bó lúa thứ hai. Lần này có phần thuận lợi hơn vì có thêm 
		lượng của bó lúa đã xóc sẵn một đầu tăng thêm sức xuyên thấu. Giai đoạn 
		kế tiếp là nhấc hai bó lúa treo ở hai đầu đòn xóc trên vai. Người nông 
		dân nam giới làm công việc này không mấy khó khăn nhưng các o, các mụ 
		thì thường phải nhờ phái nam nhấc và đặt dùm đòn xóc đã xóc sẵn lúa trên 
		vai. 
		
		Băng qua những bờ ruộng mấp mô, vượt qua những con đường làng nhỏ hẹp, 
		đoàn người gánh lúa nhịp nhàng hướng về thôn xóm sau lũy tre xanh. Đường 
		xa gánh nặng nên thỉnh thoảng phải đảo vai. Hai gánh lúa được đôi tay 
		gân guốc xoay một vòng tròn, để từ vai này chuyền nhẹ nhàng sang vai 
		kia. Cảnh một đoàn người gánh lúa nối đuôi nhau, nam có, nữ có, thoăn 
		thoắt bước đều gần như chạy, với hai bó lúa nặng, trĩu ở hai đầu đòn xóc 
		đong đưa theo từng bước chân, giữa một bầu trời mùa hạ trong xanh, nắng 
		vàng rực rỡ, trong một không gian thoang thoảng mùi lúa chín, mùi rơm 
		mới; với một chú bé lúp xúp chạy theo sau, tay nâng niu vài con niêng 
		niểng hay vung vẩy vài sợi lạt chưa dùng đến, là một khúc phim mà mỗi 
		lần ký ức quay lại luôn luôn làm cho tôi bồi hồi xúc động vì chú bé được 
		tôi nhìn lại qua hồi tưởng với tất cả lòng trìu mến, như Anatole France 
		trong vườn Luxembourg nhìn lại chính mình thời thơ ấu. 
		
		Lúa gánh về nhà chất vào một chỗ để chờ đạp ló. Ở quê tôi, gặt lúa xong 
		người ta không đập lúa ngay tại ruộng như ở miền Nam sung túc mà lại đem 
		lúa ra đạp tại nhà. Đạp ló có thể do người, có thể do trâu. 
		
		Giữa hai cột nhà buộc một cây tre dài và chắc, cách mặt đất chừng 1 mét 
		2. Nếu ít lúa thì một người đạp, nếu lượng lúa kha khá thì từ ba đến bốn 
		người đạp. Bó lúa được mở ra và để cạnh người đạp ló, đứng trong tư thế 
		hai tay vịn vào cây tre, mình hơi ngả về đằng trước. Với một bàn chân, 
		người đạp ló kéo một mớ lúa về phía mình và dùng hai chân không đạp trên 
		mớ lúa. Đạp lui đạp tới, vừa đạp vừa trở, cho đến lúc nào tất cả hạt lúa 
		rơi rụng ra hết, chỉ còn trơ lại một mớ cọng rơm dài thậm thượt thì dùng 
		chân hất qua một bên. Và lại kéo theo một mớ lúa khác, và lại đạp lại 
		trở bằng hai chân không. Hai bàn chân người nông dân quê tôi có lẽ có 
		sức chịu đựng, có độ bền bỉ hơn cả chân nhiều loài vật. Ngựa chẳng hạn 
		phải được bịt móng mới chạy nổi đường trường, còn người nông dân quê tôi 
		quanh năm suốt tháng không hề xử dụng giày dép, chỉ đi chân không và còn 
		dùng hai bàn chân chai đá của mình để đạp rụng, đạp rời từng đống lúa 
		cao có ngọn. Nhìn đôi chân của những ôông Cọi, eng Cáo, chú Bạo, tôi mới 
		thấm thía tại sao người dân Việt Nam chỉ mong và chỉ ước trông cho chân 
		cứng đá mềm. 
		
		Đạp ló bằng chân người thường chỉ tiến hành vào mùa lúa phụ, vì vào mùa 
		này lượng lúa thu hoạch không nhiều. 
		
		Nhưng đó chỉ là đối với gia đình tôi, vốn thuộc hàng giàu có trong làng; 
		chứ đa số bà con đồng hương của tôi thì cả hai vụ đều dùng chân mà đạp 
		ló. 
		
		Gánh ló, đạp ló, thường có bữa ăn phụ vì ăn ba bữa như ngày thường không 
		đủ ca-lo-ri. Cho nên đạp từ sáng đến nửa buổi thì nghỉ để ăn cháo nếp, 
		ăn chè đậu đen hay ăn khoai khô nấu trộn với đậu. 
		
		Vào vụ lúa chính, gia đình tôi hay tổ chức đạp ló bằng trâu. Thời điểm 
		thông thường là buổi chiều hay buổi tối, nhất là vào các đêm trăng sáng. 
		Nhưng dầu có trăng, vẫn cần thêm ánh sáng do những dĩa dầu chuồn cung 
		cấp. Các bó lúa được mở ra. Lúa được xếp chồng thành một hình nấm mộ 
		lớn, đường kính vào chục thước, cao lối năm, sáu tấc, nằm ngồn ngộn giữa 
		sân. Một chú lực điền dắt một cặp trâu trèo lên đống lúa. Chú đứng ở 
		trung tâm, dùng roi quất nhè nhẹ chỉ huy cặp trâu bước thành vòng tròn 
		quanh chú. Trâu vốn hiền lành, ngoan ngoãn nên tham gia rất nhanh chóng 
		trò chơi đèn kéo quân này. Trâu đi từ tốn, chững chạc, thong thả theo 
		trâu. Hạt lúa rơi rụng lả tả dưới những móng chân nặng nề của đôi trâu 
		đạp ép. Sau chừng vài giờ, thấy lúa đã rụng hết thì nghỉ. Thông thường 
		mỗi buổi chỉ đạp một lần. Và sau mỗi lần đạp tất nhiên cũng có chút đỉnh 
		cháo, chè hay xôi. Một “sự cố kỹ thuật” thường xảy ra khi trâu bài tiết. 
		Nếu trâu tiểu thì chả gay cấn mấy vì nước tiểu của trâu không gây hại gì 
		cho hạt lúa. Nhưng nếu trâu đại tiện thì phải ứng phó cấp kỳ. Vừa nhác 
		thấy trâu cong đuôi lên là lập tức chú lực điền chụp lấy đuôi trâu đè 
		xuống, đồng thời la lên ơi ới: “Trâu ẻ, trâu ẻ!”. Đã có chuẩn bị sẵn, 
		một người nào đó chụp lẹ một cái giỏ tre trong đó có lót một lớp rơm dày 
		mang đến đặt ngay chỗ phân trâu sắp rơi xuống. Lúc bấy giờ mới là giờ 
		hoàng đạo để cho trâu giải quyết nhu cầu. Đuôi không còn bị đè nữa, trâu 
		khoan khoái phóng uế ào ào, phèn phẹt. Xong, vừa dợm bước đi thì cái giỏ 
		được nhấc ra ngay. Tất nhiên phế vật của trâu được tận dụng làm phân 
		bón, nhất là để “cùi” mấy cây bầu, cây bí. Đạp ló đã trở thành truyền 
		thống ở quê tôi, mà sở dĩ có truyền thống đó có lẽ là do hạt lúa quá quý 
		giá nên nếu đập - mà nhất là đập ngoài ruộng như ở trong Nam - thì họ sẽ 
		hao hụt đáng kể. 
		
		Nhưng lúa nếp thì không thể đạp vì rất khó khăn cho hạt nếp rụng khỏi 
		gié nếp. Cho nên phải truốt nếp. Đây là công việc của phụ nữ. Các o, các 
		mụ, mỗi người trang bị một đôi đũa, ngồi bệt xuống sàn nhà và nhấc từng 
		gié lúa nếp lên, kẹp nó vào giữa hai chiếc đũa rồi kéo mạnh làm cho các 
		hạt nếp đứt rời khỏi cọng rơm. Mỗi lần tất nhiên chỉ truốt được một cọng 
		nếp, và cứ nhẫn nại, kiên trì như thế mà làm từ sáng đến tối. Công việc 
		coi bộ nhàn nhã nhưng ngồi như thế cả ngày là một cực hình đối với các 
		đốt sống lưng. 
		
		Rơm đực xây thành đụn. Chỉ cần nhìn đụn rơm mỗi nhà là có thể ước lượng 
		được mùa màng từng nhà là nhiều ít bao nhiêu. Có đụn rơm cao nghệu, có 
		đụn rơm bé tẻo tèo teo. Rơm ít, không đủ đun quanh năm thì có thể cắt 
		thêm toóc, tức là rạ. Nhưng toóc vốn quá ngắn nên chẳng thể nào xây 
		thành đụn, chỉ có thể xài ngay sau khi cắt. Vì thế toóc là việc của các 
		o trên các cánh đồng nứt nẻ sau khi vụ mùa đã mãn, và lúc bụi toóc cũng 
		khô đến độ tối đa. Cắt toóc về là để chụm ngay, có được nguyên liệu đun 
		đỡ ngày nào hay ngày đó, còn rơm thì để dành trong đụn. Trường hợp toóc 
		không được cắt thì sẽ bị cái nắng gay gắt miền Trung hun cho đến độ mủn 
		ra: 
		
			- Hết mùa toóc rã rơm khô
 
			- Bạn về xứ bạn biết nơi mô mà tìm
 
		 
		
		Câu ca dao này được Thanh Tịnh ghi lại trong tập truyện ngắn Quê Mẹ, 
		nhưng thay vì ghi toóc ông lại ghi tót. Là dân Thừa Thiên, Thanh Tịnh đã 
		ghi không đúng một tiếng miền Trung cổ quý giá. 
		
		* 
		
		Cây bông chỉ được trồng ở nương, thường là mảnh vườn nằm trong phạm vi 
		đất đai canh tác quanh ngôi nhà của từng gia đình. Bông thu hoạch về 
		phải qua một quá trình chế biến phức tạp mới thành được tấm vải.Trong 
		giai đoạn đầu và sau khi đã được phơi cho thực khô, phải tách rời các 
		hạt bông nõn ra khỏi các hạt bông bằng máy cán bông. Gọi là máy nhưng đó 
		chỉ là một cơ phận thô sơ gồm chủ yếu hai cây gỗ hình trụ, lớn bằng thỏi 
		son của các bà các cô, ở thành thị và dài chừng ba tấc. Hai cây gỗ này 
		ghép song song sát vào nhau và vận chuyển theo hai chiều ngược nhau, qua 
		sức quay của một tay cầm. Người cán bông ngồi trên sàn nhà hay trên ghế 
		dài, một tay quay tay cầm nhằm vận chuyển hai ống trụ, một tay đút bông 
		vào khe giữa hai ống trụ đó. Phần bông sợi sẽ bị hút vào giữa hai ống 
		trụ và bị tách rời khỏi các hạt bông. Hạt bông sẽ được thu thập làm phân 
		hay ép dầu. 
		
		Bông cán xong phải mang đi bắn, để làm cho sợi bông tua ra. Cả làng tôi 
		chỉ có một người chuyên nghề bắn bông, đó là chú Kích. Thiết bị bắn bông 
		là một sợi dây rất bền bằng tơ tằm se lại thực săn, vỏ ngoài được bọc 
		một lớp sáp ong mỏng bóng láng, căng chéo trên một bộ phận bằng gỗ hình 
		chữ L, hai đầu dây buộc chặt vào hai điểm cuối chữ L. Qua một hệ thống 
		điều chỉnh, sợi dây được căng đến mức tối đa. Chú Kích ngồi trên một thứ 
		ghế đẩu đặc chế, ghế đó có kèm một cần câu bằng một cây trúc rất khỏe và 
		dài. Cây trúc này có công năng nâng đỡ bộ phận chữ L dùng để bắn bông. 
		Vận dụng tay trái, chú Kích có thể di chuyển chữ L, theo ý muốn, hoặc là 
		là ở mặt đất, hoặc cao khỏi mặt đất chừng vài ba tấc, hoặc ở mép đống 
		bông phải bắn, hoặc chui sâu vào giữa đống bông. Với tay phải, chú dùng 
		một cái gậy có mấu đánh vào sợi dây căng thẳng khiến nó rung lên bần 
		bật. Và vì sự rung chuyển đó xảy ra trong lòng đám bông nên các mớ bông 
		bị cuốn hút vào dây, bị dây đánh cho banh ra, bị xé ra, bị bung ra tơi 
		tả. Kết quả, đống bông càng ngày càng phồng lên theo với thời gian bắn 
		để rồi cuối cùng trở vào thành một khối bông nõn xốp nhẹ, trông tựa như 
		một đám mây trời bằng bông nõn phơi phới. 
		
		Đơn vị để tính toán công lao bắn bông là yến. Không biết các khái niệm 
		đo lường thuộc mét hệ, người dân quê tôi trước 1954 chỉ xử dụng các đơn 
		vị đo lường cổ truyền như thước (thước ta), sào, mẫu, yến, phân. Chú 
		Kích lãnh thù lao theo số yến bông bắn được và lãnh thù lao bằng ló. 
		Tiếng bắn bông “bịch bịch, xèng xèng” là một điệu nhạc độc đáo mà tôi 
		chỉ được nghe ở một nơi duy nhất trên mặt địa cầu này, đó là tại ngôi 
		nhà tranh vách đất của chú Kích, nằm khiêm tốn nơi xóm làng Quảng Lượng 
		heo hút. 
		
		Bông bắn xong se thành con cúi. Con cúi là một cuộn bông hình trụ, đường 
		kính thiết diện chừng 1,5cm đến 2cm, dài lối 30cm. Cuộn bông thành con 
		cúi là một công việc nhẹ nhàng đơn giản. Chỉ cần một nắm bông nõn đã bị 
		bắn xốp, trải dài và rộng trên một mặt phẳng láng rồi cuộn lại xung 
		quanh một chiếc đũa lớn trơn bóng. 
		
		Giai đoạn kế tiếp là kéo con cúi thành sợi vải. Thiết bị kéo bông không 
		có gì đặc biệt, nó cũng giống như các loại máy kéo sợi ở các vùng đất 
		khác trên khắp thế giới, mới một bộ phận chính là một bánh xe quay và 
		một con sót. Khi đến Berlin, ghé vào xem một viện bảo tàng kinh tế dân 
		tộc, tôi thú vị tìm lại được guồng máy kéo sợi này trưng bày bên cạnh 
		các công cụ nghề dệt cổ lỗ của dân tộc Đông Đức. Đặc biệt con sót có một 
		đầu máy chế bằng thép tôi rất kỹ vì phần đó phải quay triền miên, do 
		bánh xe vận chuyển, nhằm kéo sợi vải ra khỏi con cúi; và tiến trình 
		“kéo” này thực chất chỉ là một tiến trình se chỉ thật săn và thật mịn. 
		
		Rồi chỉ được quấn thành từng khoanh lớn và ngâm nước cơm cho thêm bền vì 
		trước khi mang đi dệt. Chuyên lãnh dệt vải cho gia đình tôi là bà vợ kế 
		của ông chúng tôi, mà các cháu thân yêu thường gọi là mụ. Mụ dệt có phẩm 
		chất tốt vì dệt cẩn thận, các sợi chỉ dọc cũng liền xít với nhau nên tấm 
		vải dày dặn, không thưa rếch thưa rác như vải bán ở chợ. Nhưng khổ vải 
		thì rất khiêm tốn vì con thoi chẳng thể nào được ném đi quá xa, tối đa 
		mức tấm vải chỉ rộng chừng sáu tấc. Mang vải đến cho mụ dệt, tôi còn 
		được cái thú nghe mụ nói chuyện canh cửi, qua đó tôi học được ở mụ một 
		số từ kỹ thuật chuyên môn cho nên sau này khi đọc Nguyễn Du, tôi rất 
		thông cảm với Tố Như tiên sinh: 
		
		Thôn ca sơ học tang ma ngữ 
		
		(Câu hát thôn dã giúp ta học được tiếng nói của nghề trồng dâu). 
		
		Vải để trắng hoặc nhuộm đà, nhuộm đen. Nhuộm đà có vỏ cây đà mua ở chợ 
		Thuận. Nhuộm đen có bùn non móc từ đáy ao, đáy rào (rào là một nhánh 
		sông bé nhỏ) lên, có khi còn “tăng cường” thêm nước lá chè tàu, vốn 
		trồng làm dậu, cô đặc quánh. 
		
		Có một độ gia đình tôi trồng được loại cây bông cho bông không phải màu 
		trắng “kinh điển” mà màu cà phê sữa, nghe đâu từ xứ Lào xa xôi nhập cảng 
		về. Loại bông này dệt thành tấm vải có màu cà phê sữa loãng, trông không 
		mấy mỹ thuật nhưng cả làng chẳng ai có thứ vải màu đó. Tiến thêm bước 
		nữa, mẹ tôi phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật nhờ mụ dệt những tấm 
		vải mà phần sợi dọc màu trắng còn phần sợi ngang màu cà phê sữa, chúng 
		tôi gọi là vải kaki. Được mẹ may cho - tất nhiên là may bằng tay - những 
		bộ áo quần gồm quần cộc vải kaki và áo sơ mi cổ bẻ vải trắng, anh em 
		chúng tôi cảm thấy đã được may mặc mốt nhất đời. 
		
		Giờ đây nhìn lại thời gian và không gian của thuở đạp ló bắn bôông tôi 
		nghiệm ra người dân quê Việt Nam đã cố thích nghi với những điều kiện 
		khiêm tốn của cuộc sống và đã tự túc được về ăn về mặc, hai nhu cầu cơ 
		bản của con người. Ngay như khung cửi, máy cán bông cũng được một người 
		bà con trong họ chuyên nghề thợ mộc đóng ráp. Thợ rèn thì cũng chỉ ở 
		những làng lân cận. Thảng hoặc có cần đến “chuyên viên cao cấp” nhưng 
		thợ đóng cối xay lúa thì cũng chỉ đi bộ chừng nửa ngày đường là tới làng 
		Đồng Bào để mời được ông thợ Dự. Thành ra tôi đã từng sống những ngày 
		tháng thuần túy “nhà quê”, với gạo nấu cơm do chính bà con cấy mạ, gặt 
		lúa, với vải may mặc do chính họ hàng sản xuất. Bốn mươi năm sau, hồi 
		tưởng lại khung cảnh đó và so sánh nó với đời sống hiện thời của gia 
		đình, ngẫm nghĩ về hai câu thơ của sứ thần Phan Thanh Giản trình bày về 
		xã hội nhất là kỹ thuật Tây phương lên quân vương: 
		
			- Bá ban xảo kế tề thiên địa
 
			- Duy hữu tử sinh tạo hóa quyền
 
		 
		
		(Trăm nghề tinh xảo ngang với trời đất, duy chỉ có việc sống chết mới 
		phụ thuộc vào quyền của tạo hóa mà thôi) tôi càng thấy ngậm ngùi cho bà 
		con làng nước, không biết bao giờ mới có được mức sống bằng người. Nguồn: saigontimesusa  |