Công viên bờ sông Trần Hưng Đạo.
Vườn hoa trải dài từ cầu Trường Tiền đến cầu Dă Viên.
Một bạn từ phương xa lần đầu đến
Huế nh́n vườn hoa này đă thốt lên, “Ồ, Huế rất xanh!”
Xa xa là Nghinh Lương Đ́nh và một
chiếc thuyền cổ phục chế.” Nghinh Lương” là đón gió mát từ
sông Hương. Đây cũng là bến cho các thuyền ngự – thuyền vua
và các bà phi tần.
Và những con thuyền có hai tầng
gọi là ”lâu thuyền”.
Cầu Dă Viên mới (chưa đặt tên
chính thức và đang trong giai đoạn hoàn thiện). Cầu có các
nhà thủy tạ để du khách ngắm cảnh núi sông.
Cồn Dă Viên là một trong những
yếu tố phong thủy quan trọng khi vua Gia Long chọn địa điểm
xây dựng kinh đô. Cồn Dă Viên đóng vai tṛ”hữu bạch hổ”
trong khi cồn Hến đóng vai tṛ “tả thanh long” tượng trưng
cho quần thần, dân chúng pḥ trợ cho triều đ́nh. Trước đây
trên cồn có vườn ngự, với đ́nh, tạ, miếu, v.v. Ngày nay vườn
xưa không c̣n dấu vết nhưng c̣n đó bài thơ Dữ Dă Viên kư của
vua Tự Đức, ca ngợi thú điền viên.
Năm 1908 cây cầu bắc qua đây được
đặt tên là cầu Dă Viên, nhưng dân gian th́ căn cứ trên thuật
phong thủy, gọi là cầu Bạch Hổ, mặc dầu tên Bạch Hổ được đặt
cho cây cầu gần đó,
bắc qua sông đào Kẻ Vạn, mà ngày
nay được gọi là cầu Kim Long. Năm 1909 một nhà máy nước với
tháp nước được xây dựng trên cồn Dă Viên.
Có điều lạ là đoạn cầu phía bên
phải tháp nước, thông ra quốc lộ 1 có biển ghi là cầu Bạch
Hổ. C̣n phần cầu bên trái tháp nước đổ xuống đường Bùi Thị
Xuân th́ một biển khác ghi là cầu Giă Viên.
Cầu Kim Long bắc qua sông Kẻ Vạn,
tức là Tây Hộ Thành Hà
Kim Long, nơi có Đại Chủng Viện
Huế, Ḍng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, đan viện Carmel Huế, v.v.
Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ
nhất ở Huế, được xây vào năm 1601 dưới thời chúa Nguyễn
Hoàng. Chùa nằm trên đồi Hà Khê, trên bờ bắc sông Hương.
Tháp Phước Duyên 7 tầng, 21m, được xây vào năm 1844 dưới
thời vua Thiệu Trị. Chùa c̣n có các công tŕnh như điện Đại
Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm xây song song theo h́nh
chữ NHẤT.
Về sau các công tŕnh trong đại
nội như cửa Ngọ Môn, điện Thái Ḥa cũng xây cùng một hướng
với các công tŕnh chùa Thiên Mụ.
Chùa được vua Thiệu Trị làm thơ
ca tụng là một trong 20 thắng cảnh của đất kinh kỳ.
Ngày nay tháp Phước Duyên được
xem là biểu tượng của xứ Huế.
Ít người biết đây là dấu tích c̣n
lại của Vơ Thánh Miếu ở làng An Ninh Thượng, phía bắc của
chùa Thiên Mụ, do vua Minh Mạng xây dựng năm 1835 để thờ các
danh tướng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu
Tiến, Nguyễn Văn Trương. Ngoài ra c̣n thờ các danh tướng của
Trung Quốc như Quản Trọng, Trương Lương, Hàn Tín, Khổng
Minh,
Quách Tử Nghi. Miếu bao gồm Chính
Điện, hai nhà Tả Vu và Hữu Vu.
Năm 1836 vua cho dựng 3 tấm bia
vơ công, ghi chức tước, hành trạng của 10 vơ tướng dưới
triều Gia Long và Minh Mạng như Trương Minh Giảng, Phạm Hữu
Tâm, Tạ Quang Cự, Nguyễn Xuân, v.v. Sau đó, vua Tự Đức cho
dựng 2 tấm bia khắc tên những người đậu tiến sĩ vơ các khoa
thi năm 1865, 1868 và 1869.
Văn Thánh Miếu, gọi tắt là Văn
Thánh, được xây trước Vơ Thánh Miếu, cũng tại thôn An
B́nh, làng An Ninh Thượng, vào năm 1808, dưới thời vua Gia
Long để thờ Khổng Tử và các học tṛ là những bậc thánh hiền
của Nho giáo.
Linh Tinh Môn là phường môn hay
cổng chào ở trước mặt Văn Thánh Miếu.
Đây là một công tŕnh vừa được
tôn tạo vào năm 2011, với nghệ thuật pháp lam độc đáo được
phục hồi. Có hai câu đối, một mặt ghi Đạo Tại Lưỡng Gian và
mặt kia ghi Trác Việt Thiên Cổ, ca tụng đạo Nho.
Văn Miếu Môn, cổng vào Văn Miếu
Đại Thành Môn, cổng vào Đại Thành
Điện là điện thờ nhưng ngày nay không c̣n.
Hai dăy bia tiến sĩ, tổng cọng có
32 bia ghi tên 293 vị đỗ tiến sĩ trong các khoa thi từ
năm 1822 dưới thời vua Minh Mạng cho đến năm 1919 dưới thời
vua Khải Định.
Linh Tinh Môn, Văn Miếu Môn và
Đại thành Môn nh́n từ sông Hương
Đến địa phận làng Lương Quán,
sông Hương “ôm cua” gần như 90 độ, khiến bên Lương Quán bờ
sông được bồi một đoạn gần cả 100m – tha hồ để trồng trọt,
nhất là bắp. C̣n bên kia sông là làng Long Hồ th́ bị lở.
Băi bồi Lương Quán
Bờ sông làng Long Hồ
Kế đến là làng Ngọc Hồ. Qua một
khúc quanh nữa thuộc làng Hải Cát, thuyền bắt đầu đi vào
vùng linh địa của xứ Huế (theo thuật phong thủy). Cũng phía
bên phải bắt đầu xuất hiện núi Ngọc Trản với Ngọc Trản Sơn
Tự mà sau này vua Đồng Khánh đổi tên thành Huệ Nam điện, c̣n
dân gian th́ gọi là điện Ḥn Chén. Đây là nơi người Chàm đă
dựng đền thờ nữ thần Po Nagar (mẹ xứ sở), là vị thần đă sinh
ra đất cho chúng ta ở.
Người Việt sau khi tiếp nhận đất
đai cũng tiếp tục thờ cúng thần của người Chàm. Đồng thời họ
cũng lập miếu thờ hàng trăm vị thần khác, mà người ta tin
tưởng là những vị cai quản rừng, núi, sông, đất đai, và rồi
cả “quan binh” hầu cận các vị thần ấy. Họ xin triều đ́nh
“công nhận” và sắc phong cho nữ thần có tên là Thiên Y A Na
Ngọc Diễn Tôn Thần, gọi tắt là bà chúa Ngọc.
Cả vua Đồng Khánh cũng tin tưởng
và nhận làm em bà chúa. Sau khi vua băng hà, nhà vua cũng
được thờ ở đây.
Năm 1954, người ta mang mẫu Liễu
Hạnh c̣n gọi là Vân Hương thánh mẫu ngoài Bắc vào thờ, cùng
với các mẫu thượng ngàn, mẫu thủy phủ, v.v. và h́nh thành
một tín ngưỡng mới gọi là Thiên Tiên Thánh Giáo. Hằng năm
dân chúng, nhất là những người sinh sống, làm nghề trên sông
nước và trong rừng, tụ hội về đây cúng tế. Lễ hội được tiến
hành trên sông lẫn cả trên bộ (đưa ngài đến đ́nh làng Hải
Cát rồi rước về) vào tháng ba và tháng bảy âm lịch.
Điện Ḥn Chén ở lưng chừng ngọn
núi Ngọc Trản (tức là chén ngọc)
Một miếu thờ ở điện Ḥn Chén
Minh Kính Đài
Minh Kinh Đài thờ nhiều vị thần
thánh theo tín ngưỡng dân gian, Đức Phật và cả Quan Công, vị
thần của người Hoa.
Bờ bên trái là đồi Vọng Cảnh.
Cách đồi Vọng Cảnh không xa là lăng vua Tự Đức, Đồng
Khánh, Thiệu Trị, lăng các bà hoàng hậu như lăng Hiếu Đông
(Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu, vợ vua Minh Mạng), lăng bà Từ Dụ
(chính cung của vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức), lăng Khải
Định.
Đồi vọng Cảnh nh́n từ sông Hương
Đồi Vọng Cảnh
Cả khu vực này được gọi là Vạn
Niên Cát Cục, nghĩa là khu đất tốt lành trong cả vạn năm.
Đây là vùng đất để an táng các
bậc vua chúa, quan lại hay dân thường không được phép chôn ở
đây. Nhưng trên thực tế th́ “cát cục” cũng không hề tốt lắm
hay tốt tới vạn năm.
Các vua chúa cũng đều nếm mùi
thăng trầm, đau khổ chẳng kém lũ dân đen.
Lăng Tự Đức do vậy được gọi là
Vạn Niên Cơ, nhưng do những người xây lăng bị thúc ép
làm việc vất vả đă nổi dậy, dưới sự lănh đạo của Đoàn Hữu
Trưng, Đoàn Hữu Trục, đă đột nhập cung điện toan giết vua.
Trong sách sử, vụ nổi dậy này được gọi là “giặc chày vôi” do
những người này trang bị vũ khí bằng nhiều chày giă vôi, một
loại vật liệu xây dựng. Vua Tự Đức sau này đă tự “kiểm điểm”
và đổi tên lăng thành Khiêm Cung hay Khiêm Lăng.
Nhà máy bơm nước Vạn Niên do
người Pháp đă xây vào năm 1909 dưới chân đồi Vọng Cảnh.
Kiến trúc sư Bossard đă tham khảo
các công tŕnh xung quanh để thiết kế nhà máy giống như một
lăng tẩm để hài ḥa với vạn niên cát địa.
Từ trên sông có thể nh́n thấy
lăng Cơ Thánh thuộc làng Cư Chánh, phường Thủy Bằng, thị xă
Hương Thủy. Lăng này c̣n gọi là lăng Cao Hoàng hay lăng Sọ,
là lăng của Nguyễn Phúc Luân (c̣n gọi là Nguyễn Phúc Côn,
cha của Nguyễn Phúc Ánh, tức vua Gia Long).
Ngài là con của chúa Nguyễn Phúc
Khoát, được chọn để nối ngôi chúa, nhưng ông cậu là Trương
Phúc Loan âm mưu giả chiếu chỉ để đưa Nguyễn Phúc Thuần, lúc
ấy mới 12 tuổi lên làm chúa. Nguyễn Phúc Côn buồn rầu sinh
bệnh mất vào năm 1765. Năm 1790 lăng mộ của Nguyễn Phúc Côn
bị nhà Tây Sơn (Quang Trung) đào lên và vứt hài cốt
xuống sông Hương. Có một người địa phương lén vớt được sọ và
chôn lại. Sau khi vua Gia Long lên ngôi, người này tŕnh báo
và vua đă cho vớt cát sỏi một đoạn sông đắp lên bờ và lập
lăng cho ngôi mộ sọ ấy. Đoạn bờ sông này ngày trước không ai
trồng trọt, nhưng vài năm gần đây đă có trồng hoa màu.
Lăng Cơ Thánh
Nhà thờ giáo xứ Ngọc Hồ ở bờ sông
bên phải
Đ́nh làng Hải Cát
Cầu Tuần.
Đ̣ đi dưới cầu Tuần và rẽ phải sẽ
gặp bến đ̣ lăng Minh Mạng
Hiển Đức Môn, cổng vào Sùng Ân
Điện là ngôi điện thờ vua
Bi đ́nh, nơi có tấm bia Thánh Đức
Thần Công ghi hành trạng, công lao của vua Minh Mạng
Minh Lâu, nơi nhà vua ngắm trời
đất để chiêm nghiệm lẽ đời
Bửu Thành, mộ phần của vua Minh
Mạng
Ngă ba Bằng Lăng, c̣n gọi là ngă
ba Tuần, nơi hai ḍng Tả Trạch và Hữu Trạch hợp lại để thành
ḍng sông Hương.
Vùng đất giữa hai ḍng ḍng sông
đó cũng là đất thiêng thuộc làng La Khê Trẹm, Kim Ngọc, Định
Môn thuộc thị xă Hương Thủy. Nơi đây có lăng mộ của tất cả
chín chúa Nguyễn và các bà hậu. Nhưng vào năm 1790 tất cả
các lăng mộ ấy đều bị nhà Tây Sơn đào lên và vứt xác. Sau
này vua Gia Long phải dùng gỗ dâu đẽo thành h́nh người và chôn
thay cho thi thể (về sau các vua Tây Sơn cũng bị đối xử tàn
nhẫn tương tự) .
Nhưng tính chất thiêng liêng của
vùng đất có lẽ được thể hiện trong sự nghiệp của các chúa
trong ṿng 200 năm đă mở mang bờ cơi từ Qui Nhơn ở miền
Trung cho đến trọn miền đất Nam bộ. Ngày nay, ngoài lăng
Trường Cơ của chúa Nguyễn Hoàng, các lăng c̣n lại đă bị lăng
quên và ở trong t́nh trạng hoang phế.
Lăng vua Gia Long cũng ở làng Kim
Ngọc, nơi đó c̣n có mộ của hai bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu,
Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu và nhiều bà hậu của các chúa.
Triều Nguyễn truyền ngôi được cho 13 vua trong ṿng gần 150
năm (1802-1945). Cho dù được chôn nơi cát địa và sống trong
sự chúc tụng vạn tuế hoặc muôn năm, các vua cũng không sống
lâu và đạt được mọi điều ước mong.
Vùng đất linh địa này biểu hiện
rơ tính chất vô thường và khổ đau của cuộc đời – ai ai cũng
chịu nhiều đổi thay, đau khổ mặc cho những nỗ lực coi ngày
giờ để kết hôn, an táng, chọn đất đai để xây dựng lăng tẩm
nguy nga tráng lệ, mặc cho tài sản lớn lao, mặc cho bao lời
cầu nguyện, chúc tụng, lễ bái thánh thần. Vô thường và khổ
đau mới thật là những điều linh thiêng, ứng nghiệm đối với
tất cả mọi người.