|
-
“HUẾ” CÓ TỪ KHI MÔ?
-
-
-
Đôi khi cái vỗ vai bất chợt cũng rất cần
thiết, v́ nó giúp cho ta tỉnh giấc lơ mơ. Mới đây, một anh bạn cũng
đă vỗ vai tôi như thế, và hỏi: này, cái tên Huế có từ khi mô? “Huế”
do mô mà ra? Nghe hỏi, chợt ngớ người ra. Ḿnh là Huế thổ sinh,
cái tên “Huế” hiện hữu từ thuở lọt ḷng, tự nhiên như thở khí trời,
nên có bao giờ thắc mắc làm chi, cho tới khi gặp cái vỗ vai. Muốn
trả lời hai câu hỏi này chắc phải đi t́m tới tổ sư Huế học là cụ
Cad́ere
mà hỏi mới được.
-
- Thực ra, đề tài chẳng mới mẻ
chi, v́ đă được nhiều người đề cập, tuy nhiên, câu trả lời vẫn đang
c̣n bỏ ngơ .
-
-
Sự h́nh thành
của Thuận Hóa,Phú Xuân
-
- Không thể nói tới Huế mà không
nói tới Thuận Hóa hay Phú Xuân. Cả ba cái tên này gắn bó với nhau
như một thực thể bất phân ly, nên trước khi đi vào phần thảo luận,
thiết tưởng cũng cần có đôi ḍng về sự thành h́nh của Thuận Hóa và
Phú Xuân để nắm vững rằng ta đang nói về cái ǵ và tại thời điểm
nào.
-
- Năm 1306, Công chúa Huyền Trân về làm vợ vua
Chiêm là Chế Mân, đổi lấy hai châu Ô và Lư làm sính lễ.
-
Năm 1307, vua Trần Anh Tông sai Đ̣an Nhữ Hài vào
tiếp thu vùng đất mới,và đổi tên làm châu Thuận và châu Hóa.
-
Việc gom hai
châu này làm một, dưới cái tên phủ Thuận Hóa, được thực hiện
dưới thời nội thuộc Nhà Minh. Đến đời Nhà Hậu Lê, dù có khi gọi là
thừa tuyên, hay xứ hoặc trấn, Thuận Hóa bao
giờ cũng là một đơn vị hành chánh cấp tỉnh. Thuận Hóa, từ thời Nhà
Hậu Lê, cho tới khi Nguyễn Ḥang vào trấn thủ năm 1558 là vùng đất
trải dài từ phía nam đèo Ngang cho đến bắc Quảng Nam ngày nay, gồm
hai phủ Tân B́nh (Quảng B́nh và bắc Quảng Trị) và Triệu Phong (nam
Quảng Trị đến bắc Quảng Nam). Năm 1604, Nguyễn Ḥang đă cắt huyện
Điện Bàn thuộc trấn Thuận Hóa, nâng lên thành phủ, sáp nhập vào trấn
Quảng Nam. Như vậy, có thể nói gọn lại rằng Thuận Hóa dưới thời các
chúa Nguyễn, nghĩa là trong hai thế kỷ 17 và 18, chính là vùng đất
trăi dài từ phía nam đèo Ngang cho tới đèo Hải Vân.
-
Năm 1558, Đoan Quận Công Nguyễn Ḥang (tục gọi Chúa Tiên), được anh
rể là Trịnh Kiểm tiến cử vào trấn thủ Thuận Hóa. Ông lập dinh tại
làng Ái Tử, huyện Đăng Xương ( thuộc huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị bây giờ.)
- Năm 1570, Nguyễn Ḥang dời dinh
vào làng Trà Bát, phía nam của Ái Tử (vẫn thuộc Triệu Phong), gọi là
Dinh Cát.
- Năm 1626, để chuẩn bị cho việc chống lại họ
Trịnh ở phía bắc, Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh xa hơn về
phía nam, đến làng Phước Yên (Phúc An) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên bây giờ, và đổi Dinh làm Phủ.
- Năm 1636, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan
chọn làng Kim Long, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm nơi
đặt Phủ mới.
- Năm 1687, Chúa Ngăi Nguyễn Phúc Trăn,
dời Phủ chúa về làng Phú Xuân, cũng thuộc huyện Hương-Trà –
tức khu vực đông nam của Kinh thành Huế hiện nay
-
- Năm
1712, chúa Minh Nguyễn Phúc Chu lại
dời phủ về phía bắc, thuộc làng Bác Vọng , huyện Quảng Điền, Thừa
Thiên.
-
- Đến khi Vơ Vương Nguyễn Phúc Khóat
lên cầm quyền năm 1738 th́ phủ chúa mới trở về lại vị trí Phú Xuân,
hơi dịch về phía trái một chút, và yên vị từ đó cho đến ngày thất
thủ (1774) về tay quân họ Trịnh do Ḥang Ngũ Phúc chỉ huy.
-
-
Năm 1802, sau khi
thống nhất đất nước, vua Gia Long đă “đóng đô ở Phú Xuân, mới gọi
là Kinh sư” (Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh sư).
-
- “Huế”, theo Thái
Văn Kiểm
-
-
Học giả Thái Văn
Kiểm, một nhà Huế học nổi tiếng từ lâu, trong bài viết Rồng chầu
ng̣ai Huế, với tiểu mục Nguyên ủy chữ Huế (THÁI VĂN KIỂM,
Việt Nam Gấm Hoa, Làng Văn, Canada, 1997, tr. 147-149),đă đưa
ra những kiến giải sau:
-
-
1)
Chữ Huế bắt nguồn từ chữ Hóa trong địa
danh Thuận Hóa. Hóa biến thành Huế có thể là do việc kiêng tên của
một nhân vật quan trọng nào đó (tổ tiên, thành hoàng), có thể là tên
ông Nguyễn Nạp Hóa, cháu 6 đời của ông Nguyễn Bặc -- công thần của
Nhà Đinh -- tổ của Nhà Nguyễn.
-
2)
Có thể chữ Huế đă xuất hiện trong thời kỳ
Nam Bắc phân tranh, căn cứ trên những dữ kiện về ngôn ngữ và tự
điển. Chẳng hạn:
-
-Trên bản đồ Việt Nam in trong tự điển
Dictionarii Latino-Annamitici (tome II) của Taberd, in năm 1838
tại Ấn Độ, thấy có tên Huế.
-
-Trong tự điển Dictionarium
Annamitico-Latinum của Pigneau de Béhaine và J.L. Taberd có giải
thích, Huế: provincia regia Cocincinae.
-
- Trong hồi kư Souvenirs de Huế xuất bản
năm 1867 tại Paris của Michel Đức Chaingeau -- con trai của Jean
Baptiste Chaigneuau, tức Đức Thắng Hầu Nguyễn Văn Thắng, một trong
những người Pháp theo giúp vua Gia Long, có công, làm quan tại triều
đ́nh Huế -- cái tên Huế nhiều kỷ niệm về Huế hồi đầu thế kỷ 19 đă
được ghi lại một cách rơ ràng.
-
- 3) Tác giả cũng dẫn thêm rằng có thể do
kiêng tên bà Hồ Thị Hoa, chánh cung của vua Minh Mạng (1820-1841),
thân mẫu của vua Thiệu Trị (1841-1847) -- v́ Hoa và Hóa đọc na ná --
nên Hóa phải đổi thành Huế. Bằng cớ là người Huế tránh nói chữ
“hoa”, nên gọi hoa là bông, ba, hay huê, tỉnh Thanh
Hoa đổi làm tỉnh Thanh Hóa.
-
- Tất cả những
ư kiến trên của học giả Thái Văn Kiểm , theo thiển ư, cần được xét
lại.
- Thật vậy, về
ư kiến cho rằng chữ Huế là do đọc trại từ chữ Hóa mà ra, v́ lư do
kiêng húy của một nhân vật quan trọng nào đó, chẳng hạn, có thể là
húy ông tổ sáu đời của Nhà Nguyễn là Nguyễn Nạp Hóa, hoặc húy của bà
Hồ Thị Hoa, chánh cung của vua Minh Mạng, th́ nghe ra không hợp lư,
v́ hai lẽ:
-
- -Trong tộc
phổ họ Nguyễn, không thấy tên Nguyễn Nạp Hóa là cháu sáu đời của
ông tổ Nguyễn Bặc ( TÔN THẤT HÂN, Genéalogie des Nguyễn avant
Gia Long, BAVH, No3, 1930.) Mặt khác, nếu nói như vậy th́
tôi cũng có thể đưa ra một bằng cớ khác, có vẻ rơ ràng hơn, đó là
việc chúa Thượng có một người vợ mà ông rất cưng quí, người Quảng
Nam, họ Đ̣an (về sau được truy tôn là Thần Tông Hiếu Chiêu Ḥang
Hậu), có mẹ tên là Vũ Thuận Hóa (QUỐC SỬ QUÁN, Đại Nam
Liệt Truyện, Tập 1,Viện Sử học, NXB Thuận Hóa, Huế,1997, tr. 25).
Có phải v́ vậy mà đọc trại thành Thuận Huế, rồi thành Huế chăng?!
Chúng tôi không tin như thế!
-
- -Nói rằng v́
kiêng tên bà Hồ Thị Hoa --tức Tá Thiên Nhơn Ḥang Hậu, chánh cung
của vua Minh Mạng (1820-1841) -- nên Hóa trở thành Huế, cũng là suy
diễn quá đà, v́ bà Hoa mất năm 1807, mới 17 tuổi, sau khi
sinh vua Thiệu Trị được 13 ngày, khi vua Minh Mạng đang c̣n là một
ông Hoàng; c̣n cái tên Huế th́ xuất hiện hơn thế kỷ trước. Người ta
không thể đi ngược thời gian để sửa đổi quá khứ. Vả chăng, cũng v́
cái húy đó mà tỉnh Thanh Hoa đổi làm Thanh Hóa kể từ đời Thiệu Trị
(1841-1847); không lẽ lại c̣n phải bắt Hóa thành Huế mới phải phép
chăng?
-
-
- Thật
ra, không cần thiết phải dẫn những sách vở hay họa đồ của đầu thế
kỷ XIX, như nhiều người đă làm, để chứng minh sự hiện diện của
Huế, v́ ngay từ nửa
sau thế kỷ XVIII -- nghĩa là ngay cả trước khi hồi kư về Huế của Đức
Chaigneau ra đời vào năm 1867, hay tự điển của Taberd xuất bản năm
1838 -- th́ cái tên Huế đă chễm chệ có mặt hẳn hoi rồi.
-
Chẳng hạn, trong hồi kư của Pierre
Poivre, một thương nhân Pháp đến Phú Xuân vào năm 1749, cái tên Huế
xuất hiện nhiều lần dưới dạng ḥan chỉnh là Hué
(BAVH., No.4, 1918, tr.285; BAVH., No.1, 1922, tr. 53.)
-
Chẳng hạn, năm 1787, Le Floch de
la Carrière đă vẽ bản đồ duyên hải Đàng Trong (cho Bộ Hải Quân Pháp)
từ cù lao Chàm-Hội An cho đến Huế, theo dữ kiện thu thập được trong
các năm 1755-1756, trong đó bản đồ đô thành Huế được vẽ một cách
khá rơ và cái tên Huế đă được ghi, như cách người Pháp thường viết
về sau: HUÉ ( BOUDET & MASSON, Iconographie Historique de
l’Indochine Française, Paris, 1931, Pl. XVI, xem h́nh) .
-
Một ví dụ
khác: ngay khi Huế đang c̣n trong tay Tây Sơn, trong một lá thư
viết tại Sàig̣n ngày 15/7/1789 của Olivvier de Puynamel gởi cho
Létodal ở Macao, hai lần cái
tên Huế (Hué) được nhắc đến khi nói về t́nh h́nh nơi này (
CADIÈRE, Les Français au
service de Gia Long, XII. Correspondance, BAVH., No.4, 1929, tr.
364 )
-
-
Bản đồ này vẽ
năm 1787,
-
trên đó, cái
tên HÚE đă được ghi rất rơ
-
-
-
“Huế”, theo L.
Cadière, và
-
“Huế”, theo
Nguyễn Hy Vọng
-
-
Thời họ Nguyễn lập nghiệp ở miền Nam th́ người
Tây Phương cũng bắt đầu tới lui Đàng Trong ngày một nhiều, sớm nhất
là người Bồ Đào Nha. Khai thác nguồn tài liệu hồi kư và bút lục của
các nhà truyền giáo, các sĩ quan hàng hải, các nhà ngọai giao Tây
phương đă từng đến Đàng Trong, L. Cadière và các hội viên khác đă
viết một loạt bài đăng rải rác trên nhiều số BAVH, lấy tên chung là
Les Européens qui ont vu le Vieux-Hué (Những người Âu châu đến
Huế-Xưa), mỗi số giới thiệu một người, khởi đi từ khi Huế chưa
thành h́nh, với Cristoforo Borri -- đến Thuận Hóa trong khỏang
1618-1621 -- cho đến Dutreuil de Rhins,
đến Huế năm 1876, là chấm dứt chuyện Huế-Xưa.
- Theo đó, Cadière đă chia sự thành h́nh của
Huế qua những thời kỳ khác nhau:
-
- Tiền-Huế (pré-Hué), nghĩa là Huế của
thời chưa được các chúa Nguyển chọn làm thủ phủ, Huế trước 1636.
-
- Huế-Kim Long, là Huế kể từ lúc chúa
Thượng Nguyễn Phúc Lan dời phủ từ Phước Yên vô Kim Long vào năm
1636;
-
- Huế-Phú Xuân, là Huế kể từ khi chúa
Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn lập phủ ở làng Phú Xuân năm 1687;
-
- Và Cuối
cùng là Huế -Gia Long, Minh Mạng, kể từ năm 1802 (CADIÈRE, Les
Européens qui ont vu le Vieux-Hué, BAVH., No.3, 1915, tr. 231.)
-
- Chính qua bài giới thiệu về
linh mục Alexandre de Rhodes mà ta có thể thấy được kiến giải của
Cadière về “Huế”.
-
-
Linh mục A. de Rhodes
(1591-1660), người Pháp, là giáo sĩ ḍng Tên, đă đến Đàng Trong và
Đàng Ng̣ai nhiều lần. Ông để lại nhiều công tŕnh biên khảo, trong
đó, liên quan tới đề tài này là cuốn tự điển Việt-Bồ-La (Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum, xuất bản tại La Mă năm 1651)
và cuốn hồ́ kư Voyages et Missions du P.A. de Rhodes (xuất
bản lần đầu năm 1653, Paris;lần thứ hai
1884 ). Khi viết về A. de Rhodes, Cadière đă căn cứ phần lớn vào ấn
bản 1884.
-
-
Từ Macao, A.
de Rhodes đă đến Đàng Trong lần đầu vào khỏang đầu năm 1625 và ở lại
cho đến tháng 7 năm 1626 th́ được lệnh ra Đàng Ng̣ai. Trong năm đó,
ông đă cùng linh mục de Pina đi từ Quảng Nam ra Quảng Trị để gặp
chúa Săi, v́ bấy giờ Chính Dinh vẫn c̣n đặt tại Trà Bát. Họ đi bằng
đường bộ và lộ tŕnh bắt buộc phải đi ngang qua Huế (sau này) mà A.
de Rhodes gọi là province de Hoâ (tỉnh Hoâ)( CADIÈRE,
bài đă dẫn,bđd., tr.242.). Năm 1626, chúa Săi dời dinh từ Trà Bát
vô làng Phước Yên (tức Phúc An, thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên),
và đổi Dinh làm Phủ. Không rơ A. de Rhodes có biết việc này trước
khi rời Đàng Trong hay không, v́ không nghe nói tới.
-
Lần thứ hai, A. de Rhodes đến Huế là trong khỏang
1640-1645. Bấy giờ là thời của chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan
(1635-1648). Khi đó th́ phủ chúa đă dời vô làng Kim Long (Hương Trà,
Thừa Thiên), bên bờ sông Hương, được bốn năm. A. de Rhodes đă có
dịp đến phủ chúa ở “cái thành phố mà chúa lập dinh gọi là Kẻ
Huế” (“. . . la ville ̣u le Roi fait son séjour s’apple
Kehue.” - CADIÈRE, bđd., tr.242.)
v́ ông có một con chiên rất ngoan đạo là Minh
Đức Vương Thái Phi (tên Thánh là Maria Madalena), vợ thứ của chúa
Tiên Nguyễn Ḥang, nhờ vậy ông có thể ghi lại những điều mắt thấy
tai nghe về Huế-Kim Long lúc bấy giờ. Đại khái đó là một đô thị đang
được xây dựng, có nhiều đường sá, nhà cửa đông đúc, phủ chúa tuy
không nguy nga đồ sộ nhưng đẹp đẽ và tiện nghi. Ông cũng có cơ hội
tham dự một cuộc tiếp khách ngọai quốc tại phủ chúa, dự kiến một
cuộc thao diễn thủy quân trên sông Hương do chúa Thượng chỉ huy, và
một cuộc thao diễn trên bộ, phối hợp bộ binh và kỵ binh.
-
- Trong tự điển
Việt-Bồ-La, A. de Rhodes đă giải thích chữa “hóa” như sau:
-
-
- (h́nh
chụp lại từ cột 329 trong tự điển)
-
-
Bản dịch của
BS Nguyễn Hy Vọng (Từ-Điền Nguồn Gốc Tiếng Việt, ấn bản điện
tử CD, mục giải thích chữ Huế):
-
- hǒá, kẻ hǒá, thŏân hŏá:
-
-corte de Cochinchina que
os portugueses chamao Sinua”
-
“triều đ́nh của xứ Cochinchina [xứ Đàng Trong] mà
người Bồ đào nha gọi là Sinua”
-
-regia Cocincinensis à lusitanis dicta Sinua. kẻ hóe,
idem.
-
“triều đ́nh của xứ Cocincinensis mà người Bồ đào
nha gọi là Sinùa, kẻ hóe. cũng thế.
-
(NHV in đậm và gạch đít)
-
-
Căn cứ vào cách viết của A, de Rhodes về các chữ “hóa”, “ḥa” (
ngày nay) trong tự điển, Cadière cho rằng mấy chữ (province
de) Hoâ và Kehue mà A. de
Rhodes ghi lại trong hồi kư chính là các chữ hǒá và kẻ
hóe trong tự điển, chứ không có ǵ khác. L. Cadière đă có nhận
định như sau (CADIÈRE, bđd., tr.243):
-
-
- Vào thời của A. de Rhodes,
dạng viết Huế như ngày nay chưa có, v́ nếu có th́ đă
được de Rhodes ghi lại rồi;
-
- Cái tên Huế vào thời A. de Rhodes là Hóa, với
dạng Hoé mà ngày nay không c̣n nữa, c̣n cái tên Huế th́ chưa
thông dụng .
-
-
Nếu kết luận như Cadière th́ cái tên mà A. de
Rhodes đă ghi lại trong hồi kư, như Kehue, chỉ là một cách
ghi âm không chính xác. Huế đă bắt dầu có từ thời Huế-Kim Long
(1636) với cái tên là Hóa, c̣n
-
Hóa biến thành Huế khi nào và v́ sao thi không thấy
đề cập. Chúng tôi sẽ trở lại ư kiến này ở phần sau.
-
-
Cùng một nguồn tài liệu đă dẫn ở
trên, BS. Nguyễn hy Vọng lại có một nhận định khác hẳn. Sau khi
trích dẫn tự điển Việt-Bồ-La của de Rhodes, tác giả của Từ Điển
Nguồn Gốc Tiếng Việt (ấn bản điện tử dưới dạng CD), khẳng định:
-
-
“Như vậy là
hóa, huế, hai âm này đă có, đă nói, đă gọi như
thế, đă viết khác và đọc khác từ trước, đương nhiên là trước cả
năm 1651 nữa.”
-
-
Ông cũng trích dẫn câu văn có
chữ Kehue để làm mạnh thêm cái lư của ḿnh , và ông cũng nhận định
rằng “. . . các từ điển về sau, sau đó 187 năm, bắt chước cách viết
hue của ông cố đạo A. de Rhodes” [đó là các từ điển
của Taberd, 1838; Pingeau de Béhaine, 1838; Hùynh Tịnh Của, 1895.]
-
-
Khẳng định đó của Nguyễn hy Vọng cho ta hiểu rằng,
Huế đă có tên riêng là Huế ngay từ trước 1651 (năm xuất bản tự điển
Việt-Bồ-La), chứ chẳng dính ǵ đến Hóa của châu Hóa hay Thuận Hóa.
-
-
-
Nghiêm
Đức Thảo và “thóc Huế”
-
-
Trong Đặc san Quảng Trị, Xuân Tân Tỵ 2001
(Virginia, USA), tác giả Nghiêm Đức Thảo, trong bài viết Qua
truông Nhà Hồ đă có một kiến giải rất mới về nguồn gốc của Huế.
Theo đó, vua Lê Thánh Tông (1442-1497) có lẽ là người đầu tiên nói
đến địa danh Huế.
-
Trong bài văn nôm Thập giới
cô hồn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông đă
viết một câu trong đó có tên Huế rất rơ ràng: “Hương
kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, b́ hồ tiêu, thau Lào,
thóc Huế, thuyền tám tầm chở đă vạy
then. (Thơ Văn Lê Thánh
Tông, Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm, Khoa Học Xă Hội, Hà Nội, 1981,
tr. 134.)
-
Theo ông, “Bài thơ này được
trích lại từ tập Minh Lương Cẩm Tú, sáng tác trong năm Tân
Măo, 1471, lúc nhà vua vượt đèo Ngang vào đánh Chiêm Thành . . .”
-
-
“Rơ ràng câu văn của Lê Thánh
Tông đă có một căn bản địa lư lịch sử.
Vậy th́ tại sao cứ phải gọi Huế là do Hóa trong Thuận Hóa nói
trại ra. Chẳng lẽ một nhà văn một nhà thơ nổi tiếng như vua Lê
Thánh Tông, không đủ cho chúng ta tin, để cứ phải tin vào văn liệu
các nhà kư sự Tây phương viết ra sau đó 156 năm. Có lẽ nào vua Lê
Thánh Tông đă lầm khi viết Huế là một địa danh bên cạnh địa danh
Lào? “ (tr.140-141)
-
-
Sau khi dẫn chứng và lập luận để
củng cố kiến giải, ông đi đến kết luận:
-
-
“Cũng vậy, phải nói địa
danh Huế có trước khi vua Lê Thánh Tông ghé đến, ít ra là trước năm
1497. Xóa khai sinh của một địa danh khi chưa cố gắng t́m ra chứng
liệu khả tín trong kho tàng lịch sử dân tộc; nhận những ḍng kư sự
Tây phương như chứng liệu duy nhất, đó là một việc làm thiếu thận
trọng.” (tr.142)
-
-
Trong việc t́m về
cội nguồn của ḿnh, tôi cũng rất muốn
tin và nghĩ như Nghiêm Đức Thảo nhưng sao vẫn có nhiều nghi vấn ám
ảnh như áng mây mờ.
-
-
Hăy nói về hai chữ thóc
Huế trong bài văn của Lê Thánh Tông. Xin hăy lưu ư một điều:
chữ Hóa trong Thuận Hóa là chữ Hán, c̣n chữ Huế là chữ Nôm. Cả hai
chữ Hóa và Huế khi viết trên giấy trắng mực đen đều có một lối kư
tự giống nhau là
化,
và tùy ngữ cảnh (context) mà đọc Hóa hay Huế.
-
Vậy th́ sao lại chỉ có thể
đọc là thóc Huế mà không đọc thóc Hóa ? Dẫu có đọc
thóc Hóa th́ nghĩa câu thơ cũng không có ǵ thay đổi.
-
Mặt khác, đọc là thóc Hóa
th́ mới đúng với điều kiện sản xuất tại địa phương hơn. V́ sao? V́
ngay cả Huế bây giờ ( 2004), rộng lớn và đông dân hơn thời
Huế-Lê-Thánh-Tông (?) gấp bội cũng chưa phải là một nơi sản xuất lúa
dồi dào để có tiếng là thóc Huế, mà phải là cả vùng Thuận Hóa hay
châu Hóa, th́ mới đủ sức làm ra thóc Hóa được.
-
Cho nên tôi vẫn
chưa tin rằng Huế có từ trước thời Lê Thánh Tông.
-
-
“Huế”
có từ khi mô?
-
-
Ư kiến của học giả Thái Văn Kiểm cho rằng cái tên Huế đă
xuất hiện trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh không mấu thuẩn với
nhận định của linh mục Cadière. Tuy
nhiên, khi cho rằng “Huế” thành h́nh kể từ Huế-Kim Long (1636 trở
đi) th́ thời điểm của Cadière tương đối xác thực hơn. Tôi ḥan ṭan
tán thành quan điểm của Cadière.
-
-
Khi tới Huế lần thứ hai
(1640-1645), được mục kích Huế-Kim Long, A. de Rhode đă rất ngạc
nhiên về sự quần tụ đông đảo của dân chúng, và ông đă dùng những chữ
như grande ville (đô thị lớn), grande foule de peuple
(đám đông dân chúng) để diễn tả, và chính điều này đă khiến Cadière
nghĩ tằng Huế-Kim Long lúc đó không phải chỉ đơn giản có làng Kim
Long mà thôi mà c̣n phải kể đến các làng chung quanh như Xuân Ḥa,
Vạn Xuân, An Ninh
và Phú Xuân nữa. Chỉ nội với một đ̣an quân đông đảo hơn 6,000 người
cùng với gia đ́nh của họ, thêm vào đó là quan lại và gia đ́nh, chưa
kể dân chúng, th́ số người tụ hội sinh sống không nhỏ, một ḿnh Kim
Long không thể dung chứa đủ. Việc kể thêm các làng chung quanh vào
Huế-Kim Long lúc bấy giờ là hợp lư. Điều này cũng dễ hiểu như về
sau này mọi người đều chấp nhận rằng Huế không phải chỉ gói trọn
trong Kinh thành mà c̣n phải tính đến cả vùng chung quanh, kéo dài
đến Bao Vinh, lên đến Thiên Mụ và vùng các lăng tẩm, xuống đến Vỹ
Dạ, Cửa Thuận, mặc dầu những vùng này, trước 1975, không thuộc khu
vực hành chánh của Huế.
-
-
Với uy thế chính trị mới, với sự
quần tụ đông đảo của dân chúng, cái tên Huế nếu có bắt đầu xuất hiện
cũng là điều hợp lư. Khi nói bắt đầu xuất hiện, nên hiểu
theo hai nghĩa : thứ nhất, có thể là nó chưa có, bây giờ mới được
đặt tên; thứ hai, nó đă có sẵn rồi, nhưng bây giờ, do ở trong một
điều kiện khác, mới được người ta lưu ư và công nhận. Tôi chọn
nghĩa thứ hai, lư do như sẽ tŕnh bày phần tiếp đây.
-
-
“Huế”
từ mô ra ?
-
-
Trong khi đi t́m giải đáp cho
câu hỏi:
Huế” từ mô ra? tôi nhận thấy có mấy điểm đặc biệt sau đây, mà
hầu như chưa có ai quan tâm đề cập:
-
-
1)Thứ nhất, trong nguồn sử liệu Việt
Nam, không thấy có tài liệu nào nói tới
chữ “Huế” . Tại sao?
-
Ngọai trừ Quốc Triều Chính
Biên Tóat Yếu (QTCB., ấn bản điện tử,www.honosoft.com.).
Tất cả, khi nói tới Huế, đều dùng cái tên Phú Xuân hoặc Kinh đô,
hoặc Kinh, chứ không dùng cái tên Huế bao giờ. Trong QTCB, Huế được
nhắc đến nhiều lần trong các trang 172,199,215,216,217 nhân khi nói
về mối quan hệ với Pháp. Sách này do Tổng tài Quốc Sử Quán Cao Xuân
Dục soạn năm1908 – nghĩa là lúc nền bảo hộ của Pháp đă hết sức vững
vàng -- sau đó vua Khải Định (1916-1925) truyền dịch ra quốc ngữ để
phổ biến các trường, năm 1925. Lúc đó th́ ảnh hưởng của Pháp đă hết
sức lớn lao, quan lại Việt Nam bắt chước người Pháp-đô-hộ gọi
Kinh đô Phú Xuân là Huế, là chuyện đương nhiên. Bộ Việt Nam Sử
Lược của Trần Trọng Kim ( tập I và II, Institut de l’Asie du
Sud-Est, Paris, 1987,) cũng đi theo hướng đó. Đây là bộ sử đầu tiên
của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, và trong khi viết, ngoài nguồn
sử liệu truyền thống, tác giả đă sử dụng nguồn sử liệu của phương
Tây, và thế là cái tên Huế bỗng nương theo đó, không kèn
không trống, xuất hiện một cách rất tự nhiên (từ trang 254 trở đi
của tập II mới có, khi nói về những sự kiện liên quan đến Pháp).
-
Hai
tài lịêu mà tôi đặt hy vọng nhiều nhất là Ô Chậu Cận Lục (bản
dịch của Bùi Lương, Văn Hóa Á Châu, Sàig̣n, 1961) và Phủ Biên Tạp
Lục của Lê Quí Đôn (2 tập, bản dịch của Lê Xuân Giáo, Phủ Quốc
Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa, Sàig̣n, 1973) , nhất là cuốn sau, nhưng
cũng không có một manh mối nào cả, mặc dù trong đó tác giả đă mô tả
Phú Xuân rất tỉ mỉ , và Phan Khoang đă tận dụng để viết Việt Sử
Xứ Đàng Trong.
-
Tại sao? Theo ư
tôi:
-
Một địa phương Việt Nam thường có hai
tên, một tên chính thức bằng chữ Hán, và một tên Nôm do dân chúng
đặt. Ví dụ làng Lại Ân và làng Śnh ở Huế là một. Trong trường hợp
như thế, sử sách Nhà Nguyễn có khuynh hướng chỉ ghi tên chính
thức, tên “chữ” (Hán) và thường bỏ qua cái tên thông tục. Đại Nam
Nhất Thống Chí (Kinh sư-Thừa Thiên Phủ) không biết tới cửa Thượng
Tứ, cửa Đông Ba, và cửa Ngăn; c̣n dân Huế th́ không quan tâm tới
cửa Đông Nam, cửa Chính Đông và cửa Thể Nhơn, mà chỉ quen thuộc với
cửa ThượngTừ, cửa Đông Ba và cửa Ngăn mà thôi. Đó là sự khác nhau
giữa sách vở và thực tế. Và đó là lư do cái tên Huế không có
trong sử liệu Nhà Nguyễn, mặc dầu nó vẫn hiện hữu.
-
-
2)
Thứ hai, hầu như chỉ có thể t́m thấy dấu
vết của Huế trong tài liệu của Tây Phương.
Tại sao?
-
Thật vậy, tại Đàng Trong, trong hai thế kỷ XVII và XVIII, có ba địa
điểm quan trọng mà Tây phương biết đến nhiều, là: Huế, Hội An, và Đà
Nẵng; trong
đó, Huế là trung tâm quyền lực,
Hội An là trung tâm thương măi, và Đà Nẵng là cửa ngơ hàng hải.
-
-
Trong khi sử sách và giấy tờ của Việt Nam, cho tới nửa sau thế kỷ
XIX, chỉ gọi ba nơi này bằng ba cái tên chính thức là Phú Xuân, Đà
Nẵng, và Hội An, th́ người Tây phương lại chỉ gọi theo cách riêng
của họ, tùy nước và tùy thời kỳ. Xin tạm xem xét bản đối chiếu sau
đây (ghi một số tượng trưng):
-
- VN gọi
|
- Phú Xuân
|
- Hội An
|
- Đà Nẵng
|
- Cách gọi
- của Tây
- phương
-
-
- Định h́nh
-
|
- Kehue
|
- Hai-pho
|
- Kéan
|
- kẻ hŏé
|
- Phai-pho
|
- Cuhan
|
- kẻ hóa
|
-
|
- Turaon
|
- hŏá
|
-
|
- Turon
|
- Hoâ
|
-
|
- Touron
|
- Hué (Huế)
|
- Faifo
|
- Tourane
|
-
-
Rơ ràng cả ba địa điểm này đều có một đặc điểm giống nhau, ấy là
cùng một địa phương nhưng ông nói gà bà nói vịt, nghĩa là sử liệu
Việt Nam không hề đả động tới những cái tên như Huế, Faifo, và
Tourane th́ tài liệu Tây phương cũng hầu như không bao giờ nói
tới Phú Xuân, Hội An và Đà Nẵng, mặc dầu cả hai bên cùng nói về
một địa phương và biết rất rơ về địa phương đó!
- Và điều này đáng
cho ta đặt ra câu hỏi tại sao.
-
- Theo thiển ư,
nguyên nhân là thế này: buổi đầu, khi mới đặt chân lên một địa
phương lạ, người Tây phương, trước nhất là các nhà truyền giáo,
thường hỏi dân địa phương để biết nơi đó gọi là ǵ. Câu trả lời của
dân sở tại thường là cái tên thông tục, chứ ít khi là cái tên chính
thức của nhà nước. Người Tây phương sẽ ghi lại theo cách nghe,
cách hiểu và cách viết của nước họ. Những cái tên ban đầu ấy
sẽ phát triển dần dần theo cách riêng cho đến khi định h́nh hẳn.
Bản đối chiếu mà tôi cung cấp tạm thời ở trên về ba địa danh Huế,
Faifo, Tourane là một ví dụ.
-
-
3) Thứ quốc ngữ thời A. de Rhodes là lọai quốc ngữ chưa định
h́nh.
-
Điều này là một sự thật hiển nhiên khi đọc những
tác phẩm viết bằng quốc ngữ của A. de Rhode. Khi viết, dĩ nhiên
phải dựa trên một nguyên tắc nào đó mới viết được, nhưng nguyên tắc
này vào buổi sơ khai, khá lỏng lẻo, khá du di. Điều này dẫn đến sự
bất nhất trong cách viết của cùng một chữ; ví dụ cách viết các địa
danh trên bản đồ và trong tự điển, có khi không giống nhau, dù cùng
một tay của A. de Rhodes mà ra. Trong bản đồ Đàng Trong và Đàng
Ng̣ai xuất bản năm 1653. cái tên Thuận Hóa được ghi là Thoanoa,
trong khi tự điển ghi là thŏân hŏá; hoặc bản đồ ghi
Haifo nhưng tự điển ghi là hǒài phố, faifo,v.v.
Do đó, kết luận của Cadière, như đă dẫn ở trên, không lấy chi làm
thuyết phục lắm.
-
- Những suy nghĩ
tại các điểm 1); 2); và 3) nêu trên dẫn tôi đi đến chỗ
-
-
4) Tôi nghĩ rằng Kehue là Kẻ Huế. Huế là từ Kẻ Huế/Kẻ Hóa mà ra.
-
-
Từ cầu Bạch Hổ đi lên chợ Kim Long là vùng đất
của hai xă Vạn Xuân và Kim Long. Con sông đào -- trên đó cầu Bạch
Hổ vắt qua để dẫn đến Vạn Xuân, Kim Long -- nối liền sông Hương ở
phía nam và Hộ Thành hà ở phía bắc, có tục danh là sông Kẻ Vạn
Từ cửa Hũu đi ra, băng qua đường An Ḥa (tức một đọan của QL1 cũ),
khách sẽ qua bến đ̣ Kẻ Vạn, chợ Kẻ Vạn, rồi nhà thờ Kẻ Vạn.
-
-
Khi đă có Kẻ Vạn ở Vạn Xuân, tại sao lại
chối bỏ Kẻ Huế ở Kim Long, khi A. de Rhode đă ghi rơ ràng rằng “cái
thành phố mà chúa lập dinh gọi là Kẻ Huế “ ?
-
-
Tác giả Nguyễn hy Vọng đă ghi nhận, “Như vậy là
hóa, huế, hai âm này đă có, đă nói, đă gọi như
thế, đă viết khác và đọc khác từ trước, đương nhiên là trước cả
năm 1651 nữa.”
- .
- Sự hiện hữu của hai âm hóa, huế về cùng
một địa phương và có giá trị như nhau cho phép ta nghĩ rằng vào
thời bấy giờ Kim Long c̣n có một tên khác là Kẻ Huế hay Kẻ Hóa
(kiểu như Vạn Xuân với Kẻ Vạn vậy), tùy theo cách gọi của dân
chúng.
-
-
V́ là cái tên thông tục nên sử sách chẳng ghi
nhận làm ǵ, nhưng với người ngọai quốc, nhất là các nhà truyền giáo
th́ khác. Vùng này th́ hẳn A. de Rhodes không lạ lùng ǵ, v́ là đất
của bổn đạo. Khi trở lại Đàng Trong lần thứ hai, mặc dầu đă đến nơi
và biết rơ chúa Nguyễn lập phủ ở Kim Long nhưng A.de Rhodes lại
không đă động ǵ tới cái tên Kim Long, chỉ ghi nhận cái địa danh Kẻ
Huế. V́ sao? V́ Kim Long là cái tên chính thức, xa lạ, c̣n Kẻ
Huế mới là cái tên quen thuộc, là nơi trước kia bổn đạo của ông đă
ở nhưng nay phải thiên di chỗ khác cho chúa lập phủ. Đó là nguyên
nhân khiến Kẻ Huế hay Kẻ Hóa không c̣n tồn tại như Kẻ Vạn, nhưng tồn
tại trong ḷng con chiên, và tồn tại trong hồi kư của A, de Rhodes.
-
-
Những cái tên Kehue hay Kehǒá ban đầu
đó tiếp tục xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau theo cách nghe và
cách viết của mỗi người (Tây phương), cho đến khi định h́nh hẳn, từ
nửa sau thế kỷ XVIII, theo cách của Pháp, là Hué.
-
-
Trong khi cái tên
này ngày càng phổ biến trong giới người Âu th́
Việt Nam theo tiến tŕnh ngược lại.
Lúc chúa Nguyễn chưa lập phủ th́ nó là Kẻ Huế/Kẻ Hóa, khi lập phủ
th́ cái tên dân giả này mất đi, sử sách chỉ biết có Kim Long. Sau
đó th́ qua giai đọan Phú Xuân. Cái tên Phú Xuân được chính thức
công nhận nhưng người Âu không cần biết tới, v́ Phú Xuân và Kẻ Huế/Kẻ
Hóa ở gần nhau, họ đă quen tên cũ, vậy th́ cứ thế mà dùng, không
cần phân biệt.
-
-
Cho tới nửa sau
thế kỷ XIX, khi chủ quyền dần dần mất đi, ảnh hưởng của kẻ mạnh ngày
càng lấn tới, để rồi Phú Xuân, Kinh đô, cùng theo chân như kiểu Hội
An, Đà Nẵng, dần dần bị nhạt nḥa, quên lăng, nhường chỗ cho Huế,
Faifo, Tourane, trở thành hiện thực, xuất hiện hàng ngày trên lời
nói, trên giấy tờ, trên sử sách, một cách quen thuộc và được chấp
nhận một cách tự nhiên.
-
- Dẫu cho con đường của “Huế’ đi có quanh co,
gián đọan, nhưng “Huế” vẫn từ Huế mà ra, và đă trở về vĩnh viễn với
Huế./
-
- VƠ HƯƠNG-AN
- 11/2004
- Trích từ hue.org
Bản đồ Huế: http://www.bandovanhoa.net/Hu%E1%BA%BF
|