|   | 
		 
			- 
			“HUẾ” CÓ TỪ KHI MÔ?
 
			-  
 
			-  
 
			- 
			           
			Đôi khi cái vỗ vai bất chợt cũng rất cần 
			thiết, v́ nó giúp cho ta tỉnh giấc lơ mơ.  Mới đây, một anh bạn cũng 
			đă vỗ vai tôi như thế, và hỏi: này, cái tên Huế có từ khi mô? “Huế” 
			do mô mà ra?  Nghe hỏi, chợt ngớ người ra.  Ḿnh là Huế thổ sinh, 
			cái tên “Huế” hiện hữu từ thuở lọt ḷng, tự nhiên như thở khí trời, 
			nên có bao giờ thắc mắc làm chi, cho tới khi gặp cái vỗ vai.  Muốn 
			trả lời hai câu hỏi này chắc phải đi t́m tới tổ sư Huế học là cụ 
			Cad́ere 
			
			 
			mà hỏi mới được.  
 
			-             
 
			-             Thực ra, đề tài chẳng mới mẻ 
			chi, v́ đă được nhiều người đề cập, tuy nhiên, câu trả lời vẫn đang 
			c̣n bỏ ngơ .  
 
			-   
 
			- 
			Sự h́nh thành 
			của Thuận Hóa,Phú Xuân
 
			-  
 
			-              Không thể nói tới Huế mà không 
			nói tới Thuận Hóa hay Phú Xuân.  Cả ba cái tên này gắn bó với nhau 
			như một thực thể bất phân ly, nên trước khi đi vào phần thảo luận, 
			thiết tưởng cũng cần có đôi ḍng về sự thành h́nh của Thuận Hóa và 
			Phú Xuân để nắm vững rằng ta đang nói về cái ǵ và tại thời điểm 
			nào.
 
			-  
 
			- Năm 1306, Công chúa Huyền Trân về làm vợ vua 
			Chiêm là Chế Mân, đổi lấy hai châu Ô và Lư làm sính lễ.  
			
 
			- 
			Năm 1307, vua Trần Anh Tông sai Đ̣an Nhữ Hài vào 
			tiếp thu vùng đất mới,và đổi tên làm châu Thuận và châu Hóa.
			  
 
			- 
			 Việc gom hai 
			châu này làm một, dưới cái tên phủ Thuận Hóa,  được thực hiện 
			dưới thời nội thuộc Nhà Minh.  Đến đời Nhà Hậu Lê, dù có khi gọi là
			thừa tuyên, hay xứ hoặc trấn,  Thuận Hóa bao 
			giờ cũng là một đơn vị hành chánh cấp tỉnh.  Thuận Hóa, từ thời Nhà 
			Hậu Lê, cho tới khi Nguyễn Ḥang vào trấn thủ năm 1558 là vùng đất 
			trải dài từ  phía nam đèo Ngang cho đến bắc Quảng Nam ngày nay, gồm 
			hai phủ Tân B́nh (Quảng B́nh và bắc Quảng Trị) và Triệu Phong (nam 
			Quảng Trị đến bắc Quảng Nam).  Năm 1604, Nguyễn Ḥang đă cắt huyện 
			Điện Bàn thuộc trấn Thuận Hóa, nâng lên thành phủ, sáp nhập vào trấn 
			Quảng Nam.  Như vậy, có thể nói gọn lại rằng Thuận Hóa dưới thời các 
			chúa Nguyễn, nghĩa là trong hai thế kỷ 17 và 18, chính là  vùng đất 
			trăi dài từ phía nam đèo Ngang cho tới đèo Hải Vân.  
			
 
			- 
			Năm 1558, Đoan Quận Công Nguyễn Ḥang (tục gọi Chúa Tiên), được anh 
			rể là Trịnh Kiểm tiến cử vào trấn thủ Thuận Hóa.  Ông lập dinh tại 
			làng Ái Tử, huyện Đăng Xương ( thuộc  huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng 
			Trị bây giờ.)
 
			-             Năm 1570,  Nguyễn Ḥang dời dinh 
			vào làng Trà Bát, phía nam của Ái Tử (vẫn thuộc Triệu Phong), gọi là 
			Dinh Cát.
 
			- Năm 1626, để chuẩn bị cho việc chống lại họ 
			Trịnh ở phía bắc, Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh xa hơn về 
			phía nam, đến làng Phước Yên (Phúc An) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh 
			Thừa Thiên bây giờ, và đổi Dinh làm Phủ.
 
			- Năm 1636, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan 
			chọn làng Kim Long, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm  nơi 
			đặt Phủ mới.
 
			- Năm 1687, Chúa Ngăi Nguyễn Phúc Trăn,  
			dời Phủ chúa về làng Phú Xuân, cũng thuộc huyện Hương-Trà –  
			tức khu vực đông nam của Kinh thành Huế hiện nay 
			
 
			-  
 
			- Năm
			1712, chúa Minh Nguyễn Phúc Chu  lại 
			dời phủ về phía bắc, thuộc làng Bác Vọng , huyện Quảng Điền, Thừa 
			Thiên.
 
			-  
 
			- Đến khi Vơ Vương  Nguyễn Phúc Khóat 
			lên cầm quyền năm 1738 th́ phủ chúa mới trở về lại vị trí Phú Xuân, 
			hơi dịch về phía trái một chút, và yên vị từ đó cho đến ngày thất 
			thủ (1774) về tay quân họ Trịnh do Ḥang Ngũ Phúc chỉ huy.
 
			-  
 
			- 
			Năm 1802, sau khi 
			thống nhất đất nước,  vua Gia Long đă  “đóng đô ở Phú Xuân, mới gọi 
			là Kinh sư” (Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh sư).
 
			- 
			 
 
			- “Huế”, theo Thái 
			Văn Kiểm              
 
			-  
 
			- 
			Học giả Thái Văn 
			Kiểm, một nhà Huế học nổi tiếng từ lâu, trong bài viết Rồng chầu 
			ng̣ai Huế, với tiểu mục Nguyên ủy chữ Huế (THÁI VĂN KIỂM,
			Việt Nam Gấm Hoa, Làng Văn, Canada, 1997, tr. 147-149),đă đưa 
			ra những kiến giải sau:
 
			-  
 
			- 
			1)     
			Chữ Huế bắt nguồn từ chữ Hóa trong địa 
			danh Thuận Hóa.  Hóa biến thành Huế có thể là do việc kiêng tên của 
			một nhân vật quan trọng nào đó (tổ tiên, thành hoàng), có thể là tên 
			ông Nguyễn Nạp Hóa, cháu 6 đời của ông Nguyễn Bặc -- công thần của 
			Nhà Đinh -- tổ của Nhà Nguyễn.
 
			- 
			2)     
			Có thể chữ Huế đă xuất hiện trong thời kỳ 
			Nam Bắc phân tranh, căn cứ trên những dữ kiện về ngôn ngữ và tự 
			điển.  Chẳng hạn: 
 
			- 
			-Trên bản đồ Việt Nam in trong tự điển 
			Dictionarii Latino-Annamitici (tome II) của Taberd, in năm 1838 
			tại Ấn Độ, thấy có tên Huế.  
 
			- 
			-Trong tự điển Dictionarium 
			Annamitico-Latinum của Pigneau de Béhaine và J.L. Taberd có giải 
			thích, Huế: provincia regia Cocincinae.  
 
			- 
			- Trong hồi kư Souvenirs de Huế xuất bản 
			năm 1867 tại Paris của Michel Đức Chaingeau -- con trai của Jean 
			Baptiste Chaigneuau, tức Đức Thắng Hầu Nguyễn Văn Thắng, một trong 
			những người Pháp theo giúp vua Gia Long, có công, làm quan tại triều 
			đ́nh Huế -- cái tên Huế nhiều kỷ niệm về Huế hồi đầu thế kỷ 19 đă 
			được ghi lại một cách rơ ràng.
			 
 
			- 
			 
 
			- 3) Tác giả cũng dẫn thêm rằng có thể do 
			kiêng tên bà Hồ Thị Hoa, chánh cung của vua Minh Mạng (1820-1841), 
			thân mẫu của vua Thiệu Trị (1841-1847) -- v́ Hoa và Hóa đọc na ná -- 
			nên Hóa phải đổi thành Huế.  Bằng cớ là người Huế tránh nói chữ 
			“hoa”, nên gọi hoa là bông, ba, hay huê, tỉnh Thanh 
			Hoa đổi làm tỉnh Thanh Hóa.
 
			-  
 
			- Tất cả những 
			ư kiến trên của học giả Thái Văn Kiểm , theo thiển ư, cần được xét 
			lại.
 
			- Thật vậy, về 
			ư kiến cho rằng chữ Huế là do đọc trại từ chữ Hóa mà ra, v́ lư do 
			kiêng húy của một nhân vật quan trọng nào đó, chẳng  hạn, có thể là 
			húy ông tổ sáu đời của Nhà Nguyễn là Nguyễn Nạp Hóa, hoặc húy của bà 
			Hồ Thị Hoa, chánh cung của vua Minh Mạng,  th́ nghe ra không hợp lư, 
			v́ hai lẽ:
 
			-  
 
			- -Trong tộc 
			phổ họ Nguyễn, không thấy tên Nguyễn Nạp Hóa là cháu  sáu đời của 
			ông tổ Nguyễn Bặc ( TÔN THẤT HÂN, Genéalogie des Nguyễn avant 
			Gia Long, BAVH, No3, 1930.)  Mặt khác,  nếu nói như vậy th́ 
			tôi cũng có thể đưa ra một bằng cớ khác, có vẻ rơ ràng hơn, đó là 
			việc chúa Thượng có một người vợ mà ông rất cưng quí, người Quảng 
			Nam, họ Đ̣an (về sau được truy tôn là Thần Tông Hiếu Chiêu Ḥang 
			Hậu), có mẹ tên là Vũ Thuận Hóa (QUỐC SỬ QUÁN, Đại Nam 
			Liệt Truyện, Tập 1,Viện Sử học, NXB Thuận Hóa, Huế,1997, tr. 25).  
			Có phải v́ vậy mà đọc trại thành Thuận Huế, rồi thành Huế chăng?! 
			Chúng tôi không tin như thế!
 
			-  
 
			- -Nói rằng v́ 
			kiêng tên bà Hồ Thị Hoa --tức Tá Thiên Nhơn Ḥang Hậu, chánh cung 
			của vua Minh Mạng (1820-1841) -- nên Hóa trở thành Huế, cũng là suy 
			diễn quá đà, v́ bà Hoa mất năm 1807, mới 17 tuổi, sau khi 
			sinh vua Thiệu Trị được 13 ngày,  khi vua Minh Mạng đang c̣n là một 
			ông Hoàng; c̣n cái tên Huế th́ xuất hiện hơn thế kỷ trước.  Người ta 
			không thể đi ngược thời gian để sửa đổi quá khứ.  Vả chăng, cũng v́ 
			cái húy đó mà tỉnh Thanh Hoa đổi làm Thanh Hóa kể từ đời Thiệu Trị 
			(1841-1847); không lẽ lại c̣n phải bắt Hóa thành Huế mới phải phép 
			chăng?
 
			-  
 
			- 
			- Thật 
			ra, không cần thiết phải dẫn  những sách vở hay họa đồ của đầu thế 
			kỷ XIX, như nhiều người  đă làm,  để chứng minh sự hiện diện của 
			Huế, v́ ngay từ nửa 
			sau thế kỷ XVIII -- nghĩa là ngay cả trước khi hồi kư về Huế của Đức 
			Chaigneau ra đời vào năm 1867, hay tự điển của Taberd xuất bản năm 
			1838 -- th́ cái tên Huế đă chễm chệ có mặt hẳn hoi rồi.
 
			- 
			               
			Chẳng hạn, trong hồi kư của Pierre 
			Poivre, một thương nhân Pháp đến Phú Xuân vào năm 1749, cái tên Huế 
			xuất hiện nhiều lần dưới dạng ḥan chỉnh là Hué  
			(BAVH., No.4, 1918, tr.285;  BAVH., No.1, 1922, tr. 53.)
 
			- 
			            Chẳng hạn, năm 1787, Le Floch de 
			la Carrière đă vẽ bản đồ duyên hải Đàng Trong (cho Bộ Hải Quân Pháp) 
			từ cù lao Chàm-Hội An cho đến Huế, theo dữ kiện thu thập được trong 
			các năm 1755-1756, trong đó bản đồ  đô thành Huế được vẽ một cách 
			khá rơ và cái tên Huế đă được ghi, như cách người Pháp thường viết 
			về sau: HUÉ ( BOUDET & MASSON, Iconographie Historique de 
			l’Indochine Française, Paris, 1931, Pl. XVI, xem h́nh) . 
			
 
			- 
			Một ví dụ 
			khác:  ngay khi Huế đang c̣n trong tay Tây Sơn,  trong một lá thư 
			viết tại Sàig̣n ngày 15/7/1789 của Olivvier de Puynamel gởi cho 
			Létodal ở Macao, hai lần cái 
			tên Huế (Hué) được nhắc đến khi nói về t́nh h́nh nơi này ( 
			CADIÈRE, Les Français au 
			service de Gia Long, XII. Correspondance, BAVH., No.4, 1929, tr. 
			364 )
 
			-  
 
			
			
				 - 
				Bản đồ này vẽ 
				năm 1787, 
 
			
			
				 - 
				trên đó, cái 
				tên HÚE  đă được ghi rất rơ
 
			
			
				 - 
				 
 
			
			
				 - 
				 
 
			
			- 
			“Huế”, theo L. 
			Cadière, và
 
			- 
			“Huế”, theo 
			Nguyễn Hy Vọng
 
			-  
 
			- 
			Thời họ Nguyễn lập nghiệp ở miền Nam  th́ người 
			Tây Phương cũng bắt đầu tới lui Đàng Trong ngày một nhiều, sớm nhất 
			là người Bồ Đào Nha.  Khai thác nguồn tài liệu hồi kư và bút lục của 
			các nhà truyền giáo, các sĩ quan hàng hải, các nhà ngọai giao Tây 
			phương đă từng đến Đàng Trong, L. Cadière và các hội viên khác đă 
			viết một loạt  bài đăng rải rác trên nhiều số BAVH, lấy tên chung là
			Les Européens qui ont vu le Vieux-Hué (Những người  Âu châu  đến 
			Huế-Xưa), mỗi số giới thiệu một người, khởi đi từ khi Huế chưa 
			thành h́nh, với Cristoforo Borri --  đến Thuận Hóa trong khỏang 
			1618-1621 -- cho đến  Dutreuil de Rhins,
			đến Huế năm 1876, là chấm dứt chuyện Huế-Xưa.
 
			- Theo đó,  Cadière đă chia sự thành h́nh của 
			Huế qua những thời kỳ khác nhau:
 
			- 
			- Tiền-Huế (pré-Hué), nghĩa là Huế của 
			thời chưa được các chúa Nguyển chọn làm thủ phủ, Huế trước 1636.
 
			- 
			- Huế-Kim Long, là Huế kể từ lúc chúa 
			Thượng Nguyễn Phúc Lan dời phủ từ Phước Yên vô Kim Long vào năm 
			1636;
 
			- 
			- Huế-Phú Xuân, là Huế kể từ khi chúa 
			Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn lập phủ ở làng Phú Xuân năm 1687;
 
			- 
			- Và Cuối 
			cùng là Huế -Gia Long, Minh Mạng, kể từ năm 1802 (CADIÈRE, Les 
			Européens qui ont vu le Vieux-Hué, BAVH., No.3, 1915, tr. 231.)  
			
 
			- 
			 
 
			- Chính qua bài giới thiệu về 
			linh mục Alexandre de Rhodes mà ta có thể thấy được kiến giải của 
			Cadière về “Huế”.
 
			- 
			 
 
			- 
			            
			Linh mục A. de Rhodes 
			(1591-1660), người Pháp, là giáo sĩ ḍng Tên, đă đến Đàng Trong và 
			Đàng Ng̣ai nhiều lần. Ông để lại nhiều công tŕnh biên khảo, trong 
			đó, liên quan tới đề tài này là cuốn tự điển Việt-Bồ-La (Dictionarium 
			Annamiticum Lusitanum et Latinum, xuất bản tại La Mă năm 1651) 
			và cuốn hồ́ kư Voyages et Missions du P.A. de Rhodes (xuất 
			bản lần đầu năm 1653, Paris;lần thứ hai  
			1884 ).  Khi viết về A. de Rhodes, Cadière đă căn cứ phần lớn vào ấn 
			bản 1884.
 
			-  
 
			- 
			            Từ Macao, A. 
			de Rhodes đă đến Đàng Trong lần đầu vào khỏang đầu năm 1625 và ở lại 
			cho đến tháng 7 năm 1626 th́ được lệnh ra Đàng Ng̣ai.  Trong năm đó, 
			ông đă cùng linh mục de Pina đi từ Quảng Nam ra Quảng Trị để gặp 
			chúa Săi, v́ bấy giờ Chính Dinh vẫn c̣n đặt tại Trà Bát.  Họ đi bằng 
			đường bộ và lộ tŕnh bắt buộc phải đi ngang qua Huế (sau này) mà A. 
			de Rhodes gọi là  province de Hoâ (tỉnh Hoâ)( CADIÈRE, 
			bài đă dẫn,bđd., tr.242.).  Năm 1626, chúa Săi dời dinh từ Trà Bát 
			vô làng Phước Yên (tức Phúc An, thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên), 
			và đổi Dinh làm Phủ.  Không rơ A. de Rhodes có biết việc này trước 
			khi rời Đàng Trong hay không, v́ không nghe nói tới.
 
			- 
			            Lần thứ hai, A. de Rhodes đến Huế là trong khỏang 
			1640-1645.  Bấy giờ là thời của chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan 
			(1635-1648). Khi đó th́ phủ chúa đă dời vô làng Kim Long (Hương Trà, 
			Thừa Thiên), bên bờ sông Hương, được bốn năm.  A. de Rhodes đă có 
			dịp đến phủ chúa ở  “cái thành phố mà chúa lập dinh gọi là Kẻ 
			Huế”    (“. . . la ville ̣u le Roi fait son séjour s’apple 
			Kehue.” - CADIÈRE, bđd., tr.242.) 
			 v́ ông có một con chiên rất ngoan đạo là Minh 
			Đức Vương Thái Phi (tên Thánh là Maria Madalena), vợ thứ của chúa 
			Tiên Nguyễn Ḥang, nhờ vậy ông có thể ghi lại những điều mắt thấy 
			tai nghe về Huế-Kim Long lúc bấy giờ. Đại khái đó là một đô thị đang 
			được xây dựng, có nhiều đường sá, nhà cửa đông đúc, phủ chúa tuy 
			không nguy nga đồ sộ nhưng đẹp đẽ và tiện nghi.  Ông cũng có cơ hội 
			tham dự một cuộc tiếp khách ngọai quốc tại phủ chúa, dự kiến một 
			cuộc thao diễn thủy quân trên sông Hương do chúa Thượng chỉ huy, và 
			một cuộc thao diễn trên bộ, phối hợp bộ binh và kỵ binh.
 
			-             
			
 
			-             Trong tự điển 
			Việt-Bồ-La, A. de Rhodes đă giải thích chữa “hóa” như sau:
 
			- 
			                                                                           
			
  
			-  
 
			
				 - (h́nh 
				chụp lại từ cột 329 trong tự điển)
 
			
			
				 -  
 
			
			- 
			                Bản dịch của 
			BS Nguyễn Hy Vọng (Từ-Điền Nguồn Gốc Tiếng Việt, ấn bản điện 
			tử CD, mục giải thích chữ Huế):
 
			-  
 
			- hǒá, kẻ hǒá, thŏân hŏá:
 
			- 
			-corte de Cochinchina que 
			os portugueses chamao Sinua”
 
			- 
			“triều đ́nh của xứ Cochinchina [xứ Đàng Trong] mà 
			người Bồ đào nha gọi là Sinua”
 
			- 
			-regia Cocincinensis à lusitanis dicta Sinua. kẻ hóe, 
			idem.
 
			- 
			“triều đ́nh của xứ Cocincinensis mà người Bồ đào 
			nha gọi là Sinùa, kẻ hóe. cũng thế.
 
			- 
			(NHV in đậm và gạch đít)
 
			- 
			 
 
			- 
			Căn cứ vào cách viết của  A, de Rhodes về các chữ “hóa”, “ḥa” ( 
			ngày nay) trong tự điển, Cadière cho rằng  mấy  chữ (province 
			de) Hoâ  và Kehue mà A. de 
			Rhodes ghi lại trong hồi kư chính là  các chữ hǒá  và  kẻ 
			hóe trong tự điển, chứ không có ǵ khác. L. Cadière đă có nhận 
			định như sau (CADIÈRE, bđd., tr.243): 
 
			-  
 
			- 
			- Vào thời của A. de Rhodes, 
			dạng viết Huế như ngày nay chưa có, v́ nếu có th́ đă 
			được  de Rhodes ghi lại rồi;
 
			- 
			            - Cái tên Huế vào thời A. de Rhodes là Hóa,  với 
			dạng Hoé mà ngày nay không c̣n nữa, c̣n cái tên Huế th́ chưa 
			thông dụng .
			
 
			- 
			 
 
			- 
			Nếu kết luận như Cadière th́  cái tên mà A. de 
			Rhodes đă ghi lại trong hồi kư, như Kehue,  chỉ là một cách 
			ghi âm không chính xác. Huế đă bắt dầu có từ thời Huế-Kim Long 
			(1636) với cái tên là Hóa, c̣n 
 
			- 
			Hóa biến thành Huế khi nào và v́ sao thi không thấy 
			đề cập. Chúng tôi sẽ trở lại ư kiến này ở phần sau.
 
			- 
			 
 
			- 
			Cùng một nguồn tài liệu đă dẫn ở 
			trên, BS. Nguyễn hy Vọng lại có một nhận định khác hẳn.  Sau khi 
			trích dẫn tự điển  Việt-Bồ-La của de Rhodes, tác giả của Từ Điển 
			Nguồn Gốc Tiếng Việt (ấn bản điện tử dưới dạng CD), khẳng định:
 
			- 
			 
 
			- 
			 “Như vậy là
			hóa, huế, hai âm này đă có, đă nói, đă gọi như 
			thế, đă viết khác và đọc khác từ trước, đương nhiên là trước cả 
			năm 1651 nữa.”
 
			- 
			 
 
			- 
			Ông cũng trích dẫn câu văn có 
			chữ Kehue để làm mạnh thêm cái lư của ḿnh , và ông cũng nhận định 
			rằng  “. . . các từ điển về sau, sau đó 187 năm, bắt chước cách viết
			hue của ông cố đạo A. de Rhodes” [đó là các từ điển 
			của Taberd, 1838;  Pingeau de Béhaine, 1838;  Hùynh Tịnh Của, 1895.]
 
			- 
			 
 
			- 
			Khẳng định đó của Nguyễn hy Vọng cho ta hiểu rằng, 
			Huế đă có tên riêng là Huế ngay từ trước 1651 (năm xuất bản tự điển 
			Việt-Bồ-La), chứ chẳng dính ǵ đến Hóa của châu Hóa hay Thuận Hóa.
 
			- 
			 
 
			-  
 
			- 
			Nghiêm 
			Đức Thảo và “thóc Huế”
 
			-  
 
			- 
			            Trong Đặc san Quảng Trị, Xuân Tân Tỵ 2001 
			(Virginia, USA), tác giả Nghiêm Đức Thảo, trong bài viết Qua 
			truông Nhà Hồ đă có một kiến giải rất mới về nguồn gốc của Huế.  
			Theo đó, vua Lê Thánh Tông (1442-1497) có lẽ là người đầu tiên nói 
			đến địa danh Huế.  
 
			- 
			Trong bài  văn nôm Thập giới 
			cô hồn quốc ngữ văn,  Lê Thánh Tông đă 
			viết  một câu trong đó có tên Huế rất rơ ràng: “Hương 
			kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, b́ hồ tiêu, thau Lào, 
			thóc Huế, thuyền tám tầm chở đă vạy 
			then.  (Thơ Văn Lê Thánh 
			Tông, Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm, Khoa Học Xă Hội, Hà Nội, 1981, 
			tr. 134.)  
 
			- 
			 Theo ông, “Bài thơ này được 
			trích lại từ tập Minh Lương Cẩm Tú, sáng tác trong năm Tân 
			Măo, 1471, lúc nhà vua vượt đèo Ngang vào đánh Chiêm Thành . . .”
 
			- 
			 
 
			- 
			“Rơ ràng câu văn của Lê Thánh 
			Tông đă có một căn bản địa lư lịch sử.  
			Vậy th́ tại sao cứ phải gọi Huế là do Hóa trong Thuận Hóa nói 
			trại ra.  Chẳng lẽ một nhà văn một nhà thơ nổi tiếng như vua Lê 
			Thánh Tông, không đủ cho chúng ta tin, để cứ phải tin vào văn liệu 
			các nhà kư sự Tây phương viết ra sau đó 156 năm.  Có lẽ nào vua Lê 
			Thánh Tông đă lầm khi viết Huế là một địa danh bên cạnh địa danh 
			Lào? “ (tr.140-141)
 
			- 
			 
 
			- 
			Sau khi dẫn chứng và lập luận để 
			củng cố kiến giải,  ông đi đến kết luận:
 
			- 
			
			 
 
			- 
			“Cũng vậy, phải nói địa 
			danh Huế có trước khi vua Lê Thánh Tông ghé đến, ít ra là trước năm 
			1497.  Xóa khai sinh của một địa danh khi chưa cố gắng t́m ra chứng 
			liệu khả tín trong kho tàng  lịch sử dân tộc;  nhận những ḍng kư sự 
			Tây phương như chứng liệu duy nhất, đó là một việc làm thiếu thận 
			trọng.” (tr.142)
 
			-             
			
 
			- 
			            Trong việc t́m về 
			cội nguồn của ḿnh, tôi cũng rất muốn 
			tin và nghĩ như Nghiêm Đức Thảo  nhưng sao vẫn có nhiều nghi vấn ám 
			ảnh như áng mây mờ.
 
			- 
			 
 
			- 
			Hăy nói về hai chữ thóc 
			Huế trong bài văn của Lê Thánh Tông.  Xin hăy lưu ư một điều: 
			chữ Hóa trong Thuận Hóa là chữ Hán, c̣n chữ Huế là chữ Nôm.  Cả hai 
			chữ Hóa và Huế  khi viết  trên giấy trắng mực đen đều có một lối kư 
			tự giống nhau là  
			化,  
			và tùy ngữ cảnh (context) mà đọc Hóa hay Huế.  
			
 
			- 
			Vậy th́ sao lại chỉ có thể 
			đọc là thóc Huế mà không đọc thóc Hóa ?  Dẫu có đọc 
			thóc Hóa th́ nghĩa câu thơ cũng không có ǵ thay đổi.
 
			- 
			 Mặt khác, đọc là thóc Hóa 
			th́ mới đúng với điều kiện sản xuất tại địa phương hơn.  V́ sao? V́ 
			ngay cả Huế bây giờ ( 2004), rộng lớn và đông dân hơn thời 
			Huế-Lê-Thánh-Tông (?) gấp bội cũng chưa phải là một nơi sản xuất lúa 
			dồi dào để có tiếng là thóc Huế, mà phải là cả vùng Thuận Hóa hay 
			châu Hóa, th́ mới đủ sức làm ra thóc Hóa được. 
			
 
			- 
			            Cho nên tôi vẫn 
			chưa tin rằng Huế có từ trước thời Lê Thánh Tông.
 
			-  
 
			- 
			“Huế” 
			có từ khi mô?
 
			-             
			
 
			- 
			            Ư kiến của học giả Thái Văn Kiểm cho rằng cái tên Huế đă 
			xuất hiện trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh không mấu thuẩn với 
			nhận định của linh mục Cadière.  Tuy 
			nhiên, khi cho rằng “Huế” thành h́nh kể từ Huế-Kim Long (1636 trở 
			đi) th́ thời điểm của Cadière tương đối xác thực hơn. Tôi ḥan ṭan 
			tán thành quan điểm của Cadière.  
 
			-  
 
			- 
			Khi tới Huế lần thứ hai 
			(1640-1645), được mục kích Huế-Kim Long, A. de Rhode đă rất ngạc 
			nhiên về sự quần tụ đông đảo của dân chúng, và ông đă dùng những chữ 
			như grande ville (đô thị lớn), grande foule de peuple 
			(đám đông dân chúng) để diễn tả, và chính điều này đă khiến Cadière 
			nghĩ tằng Huế-Kim Long lúc đó không phải chỉ đơn giản có làng Kim 
			Long mà thôi mà c̣n phải kể đến các làng chung quanh như Xuân Ḥa, 
			Vạn Xuân, An Ninh 
			và Phú Xuân nữa.  Chỉ nội với một đ̣an quân đông đảo hơn 6,000 người 
			cùng với gia đ́nh của họ, thêm vào đó là quan lại và gia đ́nh, chưa 
			kể dân chúng, th́ số người tụ hội sinh sống không nhỏ, một ḿnh Kim 
			Long không thể dung chứa đủ.  Việc kể thêm các làng chung quanh vào 
			Huế-Kim Long lúc bấy giờ là hợp lư. Điều này cũng dễ hiểu như  về 
			sau này mọi người đều chấp nhận rằng Huế không phải chỉ gói trọn 
			trong Kinh thành mà c̣n phải tính đến cả vùng chung quanh, kéo dài 
			đến Bao Vinh, lên đến Thiên Mụ và vùng các lăng tẩm, xuống đến Vỹ 
			Dạ, Cửa Thuận, mặc dầu những vùng này, trước 1975, không thuộc khu 
			vực hành chánh của Huế.
 
			- 
			 
 
			- 
			Với uy thế chính trị mới, với sự 
			quần tụ đông đảo của dân chúng, cái tên Huế nếu có bắt đầu xuất hiện 
			cũng là điều hợp lư.  Khi nói bắt đầu xuất hiện, nên hiểu 
			theo hai nghĩa : thứ nhất, có thể là nó chưa có, bây giờ mới được 
			đặt tên;  thứ hai, nó đă có sẵn rồi, nhưng bây giờ, do ở trong một 
			điều kiện khác, mới được người ta lưu ư và công nhận.  Tôi chọn 
			nghĩa thứ hai, lư do như sẽ tŕnh bày phần tiếp đây.
 
			-  
 
			- 
			“Huế” 
			từ mô ra ?
 
			- 
			      
 
			- 
			Trong khi đi t́m giải đáp cho 
			câu hỏi: 
 
			Huế” từ mô ra? tôi nhận thấy có mấy điểm đặc biệt sau đây, mà 
			hầu như chưa có ai quan tâm đề cập: 
			-  
 
			- 
			      1)Thứ nhất, trong nguồn sử liệu Việt 
			Nam, không thấy có tài liệu nào nói tới 
			chữ “Huế” .  Tại sao? 
 
			- 
			Ngọai trừ Quốc Triều Chính 
			Biên Tóat Yếu (QTCB., ấn bản điện tử,www.honosoft.com.).  
			Tất cả, khi nói tới Huế, đều dùng cái tên Phú Xuân hoặc Kinh đô, 
			hoặc Kinh,  chứ không dùng cái tên Huế bao giờ. Trong QTCB, Huế được 
			nhắc đến nhiều lần trong các trang 172,199,215,216,217 nhân khi nói 
			về mối quan hệ với Pháp.  Sách này do Tổng tài Quốc Sử Quán Cao Xuân 
			Dục soạn năm1908 – nghĩa là lúc nền bảo hộ của Pháp đă hết sức vững 
			vàng -- sau đó vua Khải Định (1916-1925) truyền dịch ra quốc ngữ để 
			phổ biến các trường, năm 1925. Lúc đó th́ ảnh hưởng của Pháp đă  hết 
			sức lớn lao,  quan  lại Việt Nam bắt chước người Pháp-đô-hộ  gọi 
			Kinh đô Phú Xuân là Huế, là chuyện đương nhiên.   Bộ Việt Nam Sử 
			Lược của Trần Trọng Kim ( tập I và II, Institut de l’Asie du 
			Sud-Est, Paris, 1987,) cũng đi theo hướng đó.  Đây là bộ sử đầu tiên 
			của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, và trong khi viết, ngoài nguồn 
			sử liệu truyền thống,  tác giả đă sử dụng nguồn sử liệu của phương 
			Tây, và thế là cái tên Huế bỗng nương theo đó,  không kèn 
			không trống, xuất hiện một cách rất tự nhiên (từ trang 254 trở đi 
			của tập II mới có, khi nói về những sự kiện liên quan đến Pháp).
			
 
			- 
			                Hai 
			tài lịêu mà tôi đặt hy vọng nhiều nhất là Ô Chậu Cận Lục (bản 
			dịch của Bùi Lương, Văn Hóa Á Châu, Sàig̣n, 1961) và Phủ Biên Tạp 
			Lục của Lê Quí Đôn (2 tập, bản dịch của Lê Xuân Giáo, Phủ Quốc 
			Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa, Sàig̣n, 1973) , nhất là cuốn sau, nhưng 
			cũng không có một manh mối nào cả, mặc dù trong đó tác giả đă mô tả 
			Phú Xuân rất tỉ mỉ , và Phan Khoang đă tận dụng để viết Việt Sử 
			Xứ Đàng Trong.
 
			- 
			            Tại sao? Theo ư 
			tôi:
 
			- 
			      Một địa phương Việt Nam thường có hai 
			tên, một tên chính thức bằng chữ Hán, và một tên Nôm do dân chúng 
			đặt.  Ví dụ làng Lại Ân  và làng Śnh ở Huế là một. Trong trường hợp 
			như thế,  sử  sách Nhà Nguyễn có khuynh hướng chỉ ghi tên chính 
			thức, tên “chữ” (Hán) và thường bỏ qua cái tên thông tục.  Đại Nam 
			Nhất Thống Chí (Kinh sư-Thừa Thiên Phủ) không biết tới cửa Thượng 
			Tứ, cửa Đông Ba, và cửa Ngăn;  c̣n dân Huế th́ không quan tâm tới 
			cửa Đông Nam, cửa Chính Đông và cửa Thể Nhơn,  mà chỉ quen thuộc với 
			cửa ThượngTừ, cửa Đông Ba và cửa Ngăn mà thôi. Đó là sự khác nhau 
			giữa sách vở và thực tế.  Và đó là lư do cái tên Huế không có 
			trong sử liệu Nhà Nguyễn, mặc dầu nó vẫn hiện hữu.
 
			-  
 
			- 
			2)     
			Thứ hai, hầu như chỉ có thể t́m thấy dấu 
			vết của Huế trong tài liệu của Tây Phương. 
			Tại sao?
 
			- 
			Thật vậy, tại Đàng Trong, trong hai thế kỷ XVII và XVIII, có ba địa 
			điểm quan trọng mà Tây phương biết đến nhiều, là: Huế, Hội An, và Đà 
			Nẵng;  trong 
			đó, Huế là trung tâm quyền lực, 
			Hội An là trung tâm thương măi, và Đà Nẵng là cửa ngơ hàng hải.
 
			-  
 
			-             
			Trong khi sử sách và giấy tờ của Việt Nam, cho tới nửa sau thế kỷ 
			XIX,  chỉ gọi ba nơi này bằng ba cái tên chính thức là Phú Xuân, Đà 
			Nẵng, và Hội An, th́ người Tây phương lại chỉ gọi theo cách riêng 
			của họ, tùy nước và tùy thời kỳ. Xin tạm xem xét bản đối chiếu sau 
			đây (ghi một số tượng trưng):
 
			-  
 
		 
		
			
				
				
					- VN gọi
 
				 
				 | 
				
				
					- Phú Xuân
 
				 
				 | 
				
				
					- Hội An
 
				 
				 | 
				
				
					- Đà Nẵng
 
				 
				 | 
			 
			
				
				
					- Cách gọi 
 
					- của Tây
 
					- phương
 
					-  
 
					-  
 
					- Định h́nh
 
					-  
 
				 
				 | 
				
				
					- Kehue
 
				 
				 | 
				
				
					- Hai-pho
 
				 
				 | 
				
				
					- Kéan
 
				 
				 | 
			 
			
				
				
					- kẻ hŏé
 
				 
				 | 
				
				
					- Phai-pho
 
				 
				 | 
				
				
					- Cuhan
 
				 
				 | 
			 
			
				
				
					- kẻ hóa
 
				 
				 | 
				
				
					-  
 
				 
				 | 
				
				
					- Turaon
 
				 
				 | 
			 
			
				
				
					- hŏá
 
				 
				 | 
				
				
					-  
 
				 
				 | 
				
				
					- Turon
 
				 
				 | 
			 
			
				
				
					- Hoâ
 
				 
				 | 
				
				
					-  
 
				 
				 | 
				
				
					- Touron
 
				 
				 | 
			 
			
				
				
					- Hué (Huế)
 
				 
				 | 
				
				
					- Faifo
 
				 
				 | 
				
				
					- Tourane
 
				 
				 | 
			 
		 
		
			-  
 
			-            
			Rơ ràng cả ba địa điểm này đều có một đặc điểm giống nhau, ấy là 
			cùng một địa phương nhưng ông nói gà bà nói vịt, nghĩa là sử  liệu 
			Việt Nam không hề đả động tới những cái tên như Huế, Faifo, và 
			Tourane th́  tài liệu Tây phương  cũng hầu như không bao giờ nói 
			tới  Phú Xuân, Hội An và Đà Nẵng, mặc dầu  cả hai bên cùng nói về 
			một địa phương và biết rất rơ về địa phương đó! 
 
			- Và điều này đáng 
			cho ta đặt ra câu hỏi tại sao. 
 
			-  
 
			- Theo thiển ư, 
			nguyên nhân là thế này: buổi đầu, khi mới đặt chân lên một địa 
			phương lạ, người Tây phương, trước nhất là các nhà truyền giáo,  
			thường hỏi dân địa phương để biết nơi đó gọi là ǵ.  Câu trả lời của 
			dân sở tại thường là cái tên thông tục, chứ ít khi là cái tên chính 
			thức của nhà nước.  Người Tây phương sẽ ghi lại theo cách nghe, 
			cách hiểu và cách viết của nước họ.  Những cái tên ban đầu ấy 
			sẽ phát triển dần dần theo cách riêng cho đến khi định h́nh hẳn.  
			Bản đối chiếu mà tôi cung cấp tạm thời ở trên về ba địa danh Huế, 
			Faifo, Tourane là một ví dụ.
 
			- 
			 
 
			- 
			3)  Thứ quốc ngữ thời A. de Rhodes là lọai quốc ngữ chưa định 
			h́nh. 
 
			- 
			Điều này là một sự thật hiển nhiên khi đọc những 
			tác phẩm viết bằng quốc ngữ của A. de Rhode.  Khi viết, dĩ nhiên 
			phải dựa trên một nguyên tắc nào đó mới viết được, nhưng nguyên tắc 
			này vào buổi sơ khai, khá lỏng lẻo, khá du di.  Điều này dẫn đến sự 
			bất nhất trong cách viết của cùng một  chữ; ví dụ cách viết các địa 
			danh trên bản đồ và trong tự điển, có khi không giống nhau, dù cùng 
			một tay của A. de Rhodes mà ra. Trong bản đồ Đàng Trong và Đàng 
			Ng̣ai  xuất bản năm 1653. cái tên Thuận Hóa được ghi là Thoanoa, 
			trong khi tự điển ghi là thŏân hŏá; hoặc  bản đồ ghi 
			Haifo nhưng tự điển ghi là hǒài phố,  faifo,v.v.  
			Do đó,  kết luận của  Cadière, như đă dẫn ở trên, không lấy chi làm 
			thuyết phục lắm.
 
			-  
 
			- Những suy nghĩ 
			tại các điểm 1);  2);  và 3) nêu trên dẫn tôi đi đến  chỗ
 
			-  
 
			- 
			4) Tôi nghĩ rằng Kehue là Kẻ Huế.  Huế là từ Kẻ Huế/Kẻ Hóa mà ra.
 
			-  
 
			- 
			Từ cầu Bạch Hổ đi lên chợ Kim Long là vùng đất  
			của hai xă  Vạn Xuân và Kim Long.  Con sông đào -- trên đó cầu Bạch 
			Hổ vắt qua để dẫn đến Vạn Xuân, Kim Long -- nối liền sông Hương ở 
			phía nam và Hộ Thành hà ở phía bắc, có tục danh là sông Kẻ Vạn
			
			
			 
			Từ cửa Hũu đi ra, băng qua đường An Ḥa (tức một đọan của QL1 cũ), 
			khách sẽ qua bến đ̣ Kẻ Vạn, chợ Kẻ Vạn, rồi nhà thờ Kẻ Vạn.
			
 
			- 
			 
 
			- 
			 Khi đă có Kẻ Vạn ở Vạn Xuân, tại sao lại 
			chối bỏ Kẻ Huế ở Kim Long, khi A. de Rhode đă ghi rơ ràng rằng “cái 
			thành phố mà chúa lập dinh gọi là Kẻ Huế “ ? 
 
			-  
 
			- 
			 Tác giả Nguyễn hy Vọng đă ghi nhận, “Như vậy là
			hóa, huế, hai âm này đă có, đă nói, đă gọi như 
			thế, đă viết khác và đọc khác từ trước, đương nhiên là trước cả 
			năm 1651 nữa.”
 
			- .
 
			
				 - Sự hiện hữu của hai âm  hóa, huế về cùng 
				một địa phương và có giá trị như nhau cho phép ta nghĩ rằng vào 
				thời  bấy giờ  Kim Long c̣n có một tên khác là Kẻ Huế hay Kẻ Hóa 
				(kiểu như Vạn Xuân với Kẻ Vạn vậy), tùy theo cách gọi của dân 
				chúng.
 
			
			
				 -  
 
			
			- 
			V́ là cái tên thông tục nên sử sách chẳng ghi 
			nhận làm ǵ, nhưng với người ngọai quốc, nhất là các nhà truyền giáo 
			th́ khác.  Vùng này th́ hẳn A. de Rhodes không lạ lùng ǵ, v́ là đất 
			của bổn đạo. Khi trở lại Đàng Trong lần thứ hai, mặc dầu đă đến nơi 
			và biết rơ chúa Nguyễn lập phủ ở Kim Long nhưng  A.de Rhodes lại 
			không đă động ǵ tới cái tên Kim Long, chỉ ghi  nhận cái địa danh Kẻ 
			Huế.  V́ sao?  V́ Kim Long là cái tên chính thức, xa lạ,  c̣n  Kẻ 
			Huế mới là cái tên quen thuộc,  là nơi trước kia bổn đạo của ông đă 
			ở nhưng nay phải thiên di chỗ khác cho chúa lập phủ.  Đó là nguyên 
			nhân khiến Kẻ Huế hay Kẻ Hóa không c̣n tồn tại như Kẻ Vạn, nhưng tồn 
			tại trong ḷng con chiên,  và tồn tại trong hồi kư của A, de Rhodes.
 
			-  
 
			- 
			
			Những cái tên Kehue hay Kehǒá ban đầu 
			đó tiếp tục xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau theo cách nghe và 
			cách viết của mỗi người (Tây phương), cho đến khi định h́nh hẳn, từ 
			nửa sau thế kỷ XVIII, theo cách của Pháp, là Hué. 
			
 
			- 
			 
 
			- 
			Trong khi cái tên 
			này ngày càng phổ biến trong giới người Âu th́
			Việt Nam theo tiến tŕnh ngược lại.  
			Lúc chúa Nguyễn chưa lập phủ th́ nó là Kẻ Huế/Kẻ Hóa, khi lập phủ 
			th́ cái tên dân giả này mất đi, sử sách chỉ biết có Kim Long.  Sau 
			đó th́ qua giai đọan Phú Xuân.  Cái tên Phú Xuân được chính thức 
			công nhận nhưng người Âu không cần biết tới, v́ Phú Xuân và Kẻ Huế/Kẻ 
			Hóa ở gần nhau, họ đă  quen tên cũ, vậy th́ cứ thế mà dùng, không 
			cần phân biệt.
 
			- 
			 
 
			- 
			 Cho tới nửa sau 
			thế kỷ XIX, khi chủ quyền dần dần mất đi, ảnh hưởng của kẻ mạnh ngày 
			càng lấn tới, để rồi Phú Xuân, Kinh đô, cùng theo chân như kiểu Hội 
			An, Đà Nẵng,  dần dần bị nhạt nḥa, quên lăng, nhường chỗ cho Huế, 
			Faifo, Tourane, trở thành hiện thực, xuất hiện hàng ngày trên lời 
			nói, trên giấy tờ, trên sử sách, một cách quen thuộc và được chấp 
			nhận một cách tự nhiên.            
 
			-  
 
			- Dẫu cho con đường của “Huế’ đi có quanh co, 
			gián đọan, nhưng “Huế” vẫn từ Huế mà ra, và đă trở về vĩnh viễn với 
			Huế./
 
			-  
 
			- VƠ HƯƠNG-AN
 
			- 11/2004 
 
			- Trích từ hue.org
 
		 
		Bản đồ Huế: http://www.bandovanhoa.net/Hu%E1%BA%BF 
		   |