| 
 |  | 
 Thương Về Huế 
 
                                                                  Người xứ Huế 
                                    trang nghiêm và trầm lặng,  
                                                                     Thường hay 
                                    sầu giữa lúc thế nhân vui,   
                                                                         Tâm sự 
                                    nhiều mà ít hé trên môi...  
                                     
                                    (thơ của Bích 
                                    Lan)  
                                     
                                        
                                     
                                     
                                       
                                     
                                    Danh từ Huế một thời thanh 
                                    b́nh trước đây với thi sĩ Nam Trân đă được 
                                    thăng hoa với tĩnh từ cổ điển “Đẹp và Thơ“ 
                                    mà người đời quen nhắc tới ! Một cô gái b́nh 
                                    dân với tà áo dài chiếc nón lá giản dị trên 
                                    sông Hương cũng đă trở thành yểu địêu thục 
                                    nữ trong mắt người thơ xứ Quảng rồi !  
                                      
                                    Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,  
                                    Cô gái Kim luông yểu điệu chèo  
                                    Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết  
                                    Rằng Thơ thấy Đẹp phải t́m theo !   
                                      
                                    Huế : Đẹp và Thơ ! Điều này không ai căi 
                                    nhất là chúng ta xem lại cuốn Album lưu niệm 
                                    hay xem lại những cuốn phim mầu đầu tiên 
                                    quay về cảnh đẹp tại Cố đô Huế chiếu tại rạp 
                                    Richard Việt nam Film đường Ngă Giữa năm xưa.  
                                    Nhưng tôi thiết tưởng vẫn c̣n nhiều cái Huế 
                                    khác đă phản ánh qua thơ văn mà kư ức thơ ấu 
                                    của tôi khó có thể nhạt nḥa !  
                                    Như lớp học sinh Huế tha hương nay đă tra 
                                    nậy, họ vẫn c̣n để ḷng tương tư về Huế của 
                                    phượng vĩ, Huế của mùa hè :  
                                      
                                    Sung sướng quá, giờ cuối cùng đă đến!  
                                    Đàn chim non hớn hở rủ nhau về  
                                    Chín mươi ngày bay nhảy nhảy ở đồng quê  
                                    Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ   
                                    (thơ Xuân Tâm)  
                                      
                                    Họ vẫn nhớ Huế của mùa thi với Đỗ kim Bảng 
                                    mà ngộ nghĩnh hát rằng:   
                                    Thi ơi là thi , sinh mi là chi, „bay“ nghẹn 
                                    ngào, „bám ồn ào“, buồn vui v́ mi !  
                                      
                                    C̣n lớp người cao niên mái tóc kim sinh đă 
                                    úa vàng th́ họ lại muốn ngậm ngùi nh́n về 
                                    một Huế của sự cổ kính huy hoàng từ chín đời 
                                    chúa mười ba đời vua với kinh thành, phủ đệ, 
                                    với lăng tẩm u trầm, với những bóng cung tần 
                                    nhang khói trước những khám thờ Tiên đế chạm 
                                    trổ sơn son !  
                                      
                                    Ngậm ngùi giai nhân khẽ thở dài,   
                                    Nắng chiều ngủ úa sắc lâu đài,   
                                    Gượng cười trong nét vàng son cũ,   
                                    Như ả cung tần tuổi nhạt phai.  
                                    (Đông Hồ)  
                                      
                                    Đôi lúc, họ không thể không có lại cảm giác 
                                    ớn lạnh về một Huế trong sương mù bảng lảng 
                                    của không khí Liêu trai:  
                                      
                                    Dịp cầu Bạch hổ mấy bóng ma,   
                                    Biến mất v́ nghe giục tiếng gà,   
                                    Trăng tỉnh giấc mơ lười biếng dậy,   
                                    Động ḷng lệ liễu, giọt sương sa…  
                                    (Thúc Tề)   
                                      
                                    Họ khó quên nổi về một Huế của nhiều am miễu 
                                    vào ngày rằm hay mồng một với đồng cô bóng 
                                    cậu ban phát bùa linh thuốc dấu, về một Huế 
                                    của niềm tin phong thủy... Tất cả đă toát ra 
                                    từ cảnh vật u uất của cây cao bóng cả với 
                                    những rồng linh nằm trong mạch đất hay những 
                                    rắn thiêng đầu có mồng làm ngựa cưỡi cho mấy 
                                    ngài khuất mày khuất mặt thường đu về đêm 
                                    trên những cành cổ thụ! Họ c̣n mang trong 
                                    trí nhớ về một Huế của linh thiêng huyền bí 
                                    với bùa yêu thuốc dấu, với thần đá, với ngọc 
                                    rắn... như đă được mô tả trong cuốn “ Huế: 
                                    la mystérieuse” của Louis Chochod từng ở Huế 
                                    nhiều năm vào đầu thế kỷ. Ngay một nàng đầm 
                                    cha Pháp mẹ Việt cũng chôn sâu trong kư ức 
                                    về một Huế mà huyền linh pha ḥa với thực 
                                    tại:  
                                      
                                    Rồi một hôm, niềm mơ tôi thành sự thực:  
                                    Tôi bước về , lạc rừng thơ nhung nhớ  
                                    Trời đầy sao - khung cảnh ảo huyền thay!  
                                    Bao thần linh cùng rồng thiêng xứ Huế  
                                    Nhảy tưng bừng như canh giữ thành xưa !  
                                    (thơ của Monique Leverset do Lê văn Lân 
                                    chuyển Việt ngữ)  
                                      
                                    Sống ở Huế lâu, hầu như tất cả người ngoại 
                                    quốc ít nhiều nhiễm pha gịng máu Huế cũng 
                                    thấy rằng đất Huế quá nặng về dĩ văng và là 
                                    nơi con người dương thế luôn luôn tưởng nhớ 
                                    đến những hồn ma như trường hợp điển h́nh 
                                    của Giáo sư Henri Cosserat. Ông coi Huế cổ 
                                    kính của lăng tẩm như :   
                                      
                                    Huế: tam đại bài vị thiên thu yên ngủ  
                                    Giữa bảo châu từ quá khứ truyền kỳ.  
                                    Tôi, bé mọn: bái tôn hồn linh đế.  
                                      
                                    Đứng trước cảnh tà dương với vầng mặt trời 
                                    đỏ rực lặn ở sau dăy Trường sơn phía tây, 
                                    Henri Cosserat đă hoài vọng thâm trầm về quá 
                                    khứ của kinh thành:  
                                      
                                    Ôi đế đô...ḱa vầng dương đỏ ráng  
                                    Lặn phương đoài trong lửa rực vinh quang  
                                    Huế: dĩ văng hồi sinh từ lăng mộ !  
                                      
                                    Nhưng rất nhiều người Việt ở Bắc và Nam đă 
                                    thắc mắc không hiểu nổi về một đặc thù lớn 
                                    nhất về tâm t́nh của những con người xứ Huế:  
                                      
                                    Người xứ Huế trang nghiêm và trầm lặng,  
                                    Thường hay sầu giữa lúc thế nhân vui,   
                                    Tâm sự nhiều mà ít hé trên môi...  
                                    ( thơ của Bích Lan)   
                                      
                                    Tại sao vậy? Nét tương phản này phải chăng 
                                    v́ Huế là sản phẩm của tang thương, của 
                                    những gịng nước mắt chảy vào trong, của 
                                    những ngấn lệ lưng tṛng, Huế là h́nh ảnh 
                                    của nàng quả phụ sầu muộn muôn đời, Huế là 
                                    địa bàn của những oan khiên trên gịng lịch 
                                    sử gây ra bởi những ách nước tai trời. Henri 
                                    Cosserat đă tinh tế nhận ra cái đặc thù 
                                    tương phản này trong cái đẹp cực kỳ nên thơ 
                                    nhưng sao buồn u uất về đất Huế  
                                      
                                    Tôi thấy Huế ngủ mơ bên bờ mộng  
                                    Miền Cố đô khoác phủ ngoc xanh lam !  
                                    Thành lũy oai, cao dầy trông ngạo nghễ  
                                    Tôi đă nh́n tỉnh giấc Huế hừng đông !  
                                    Tôi lại chọn - giống tay sành cổ ngoạn,  
                                    Tranh b́nh minh mịn phấn rộn ḷng tôi  
                                    Để ngắm Huế: nàng góa chồng tim rạn  
                                    Vén khăn sô màn sương trắng tháng tư  
                                      
                                    “Vành khăn sô cho Huế” mà Nhă Ca sau 
                                    này dùng làm tựa cho cuốn sách về Huế sau 
                                    tết Mậu Thân của bà phải chăng đă từng được 
                                    quấn trên đầu người dân Huế từ rất lâu rồi 
                                    v́ vùng đất này đă từng chịu bao nhiêu tang 
                                    tóc v́ ách nước tai trời. Nói đến ách nước, 
                                    th́ vùng đất Phú xuân đă từng là sân khấu 
                                    của nhiều cuộc giao tranh tiếp nối đẫm máu 
                                    lịch sử trong ṿng vài trăm năm cận đại: 
                                    Trịnh ào ạt vô tiếp thu, Nguyễn vội vàng bôn 
                                    tẩu, Tây sơn vô khống chế, rồi Nguyễn lại về 
                                    để rồi đến nạn Pháp ngoại xâm để gịng Hương 
                                    giang êm đềm thơ mộng bỗng biến thành “ Nhất 
                                    giang lưỡng quốc nan phân thuyết” và làm mặt 
                                    đất Huế thấm đẫm máu của người dân dày xéo 
                                    lên nhau mà chạy ngày Thất thủ Kinh đô...[ 
                                    Đây là cái Huế ” nước loạn canh tàn khóc 
                                    biển dâu” mà tiến sĩ học giả Thái văn Kiểm 
                                    đă viết kỹ.]   
                                    Hương khói ngây ngấy từ miễu Ngă tư Âm hồn, 
                                    từ những giàn cúng ngày 23 tháng năm âm lịch 
                                    hay h́nh ảnh chập chờn ma quái của những bè 
                                    chuối đựng bỏng nếp, cháo thí trong lá đa 
                                    thắp nến thả trên sông, những tiếng tụng 
                                    niệm trong hồi chuông tiếng mơ cầu siêu 
                                    thoát từ hàng trăm cảnh chùa chính là những 
                                    cái ǵ mà con dân Huế đă nhập tâm khiến họ “
                                    thường hay sầu trong lúc thế gian vui  
                                    !”  
                                    Ách nước c̣n đè nặng trên đất Huế với bao 
                                    nhiêu cuộc can qua, chính biến ngút ngàn 
                                    khói lửa trong ḷng thế kỷ 20: những cuộc 
                                    thủ tiêu về đêm ghê rợn bằng mă tấu, bằng 
                                    cán cuốc hận thù hồi Cách mạng Việt minh 
                                    cộng với hàng ngàn thây ma chết giữa ngày 
                                    tết Mậu thân lấp vùi rải rác từ đồng bằng 
                                    Phú thứ đến khe núi Đá mài, với bao nhiêu 
                                    thây người chạy di tản trên bờ biển Thuận An 
                                    dưới cơn mưa pháo 75 là những cái ǵ làm cho 
                                    nụ cười Huế dù sau này có khuây khỏa với 
                                    thời gian bao nhiêu cũng khó tươi vui nếu 
                                    không nói là khô môi đắng họng v́ oan cừu 
                                    c̣n ấp ủ trong ḷng trong những ngày kỵ giỗ. 
                                    Tâm hồn Huế là trong héo ngoài tươi vậy. 
                                    Lịch sử Huế khẳng định là những gịng lệ 
                                    chảy vào trong. C̣n nói đến tai trời th́ câu 
                                    chuyện thời sự thương tâm mới đây là cơn lũ 
                                    tháng 11 năm Kỷ Măo(1999) khiến hàng trăm 
                                    thân xác Huế cuốn theo gịng nước bạc. Ta tự 
                                    hỏi riết rồi ông trời kia ác nghiệt cũng phá 
                                    cái lệ truyền thống “ băo năm Th́n, lụt năm 
                                    Tị”? Hay phải chăng lần này yếu tố phá hoại 
                                    của tay người ta đă góp thêm vào làm nguyên 
                                    nhân gây ra điều thảm khốc?   
                                    Người ta phải thừa nhận rằng đọc bài thơ sau 
                                    của Nguyên Phương khó mà cầm được mắt lệ 
                                    rưng rưng:  
                                      
                                    Huế ơi! Cơn lũ lại về  
                                    (Gửi Huế trong niềm đau cơn lụt tháng 11 năm 
                                    1999)  
                                    Không thể nào quên - mà măi nhớ  
                                    Trời hành cơn lụt hàng năm  
                                    Huế một đời oan khiên- nghiệt ngă  
                                    Tội cho người lại trắng khăn tang !  
                                      
                                    Bốn mươi năm quay về lụt cũ  
                                    Thế kỷ buồn nhớ lũ năm ba  
                                    Đón năm hai ngàn bằng hung tin dữ  
                                    Huế đắm ch́m băo tố phong ba !  
                                      
                                    Ông tha mà bà chẳng tha  
                                    Bà cho cái lụt hăm ba tháng mười !  
                                    Huế chưa kịp nở nụ cười  
                                    Ông cho cơn lụt ngập trời đầu Đông.  
                                      
                                    Nước ngập đồng, nước tràn sông  
                                    Nước trào khóe mắt tuôn ḍng lệ đau  
                                    Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Băi Dâu  
                                    Đâu c̣n thấy Huế - nhuộm màu nước đen !  
                                      
                                    Nếu làm được phép tiên mầu nhiệm  
                                    Xoay chuyển ṿng quay nửa địa cầu  
                                    Cho Huế thoát cơn nguy truyền kiếp  
                                    Cho tia nắng hồng đẹp Huế mai sau !  
                                      
                                    Chẳng c̣n bao lâu thay thế kỷ  
                                    Huế đă trăm năm lắm đọa đầy  
                                    Mưa gió từ đâu gieo hệ lụy  
                                    Huế nghèo thêm nỗi khổ oằn vai  
                                      
                                    Phải Huế, mới thấm đau lụt Huế,  
                                    Của xa người ̣a vỡ giữa mênh mông  
                                    Da xanh loang loáng trên gịng nước  
                                    Níu kéo nhau đi nỗi hăi hùng !  
                                      
                                    Phải Huế, mới đau từng đoạn ruột  
                                    Mới nghe gió buốt lạnh mềm xương  
                                    Mới đảo điên cửa xiêu nhà dột  
                                    Nước đầy nhà, cơm chẳng c̣n cơm  
                                      
                                    Không Huế, cũng mềm ḷng về Huế  
                                    Màn trời, đất chiếu khổ nào hơn  
                                    Buông tay, chồng vợ xa nhau măi  
                                    Nước chảy tuôn tràn, mẹ bỏ con  
                                      
                                    Tha phương - lụt Huế - theo từng bước  
                                    Nhịp Huế trong tim - Huế thổi bùng  
                                    Nhói đau cơn lũ ngàn năm trước  
                                    Tin về - lụt mới - nỗi đau chung !   
                                      
                                    Nguyên Phương đă nhắc lại cơn lũ lụt khủng 
                                    khiếp ở Huế năm 1953 tức là năm Quí Tị như 
                                    dân Việt vẫn mang niềm tin rằng “ lụt năm Tị. 
                                    băo năm Th́n” là những năm lụt băo nặng nề! 
                                    Tôi lại bất giác liên tưởng đến nhiều cơn 
                                    băo cuồng phong mà chính đất Huế từng thê 
                                    thảm chịu trong những năm Th́n lịch sử:   
                                    năm Canh Th́n ( 1820) tức năm Vua Minh mạng 
                                    mới lên ngôi, mưa to gió lớn làm đổ sụp 300 
                                    trượng đất ( 1200 mét) của bờ thành lũy Huế;  
                                    năm Giáp Th́n ( 1904), cơn băo khủng khiếp 
                                    đă thổi bay bốn vài sắt của cây cầu Thành 
                                    Thái xuống sông Hương.   
                                    Có vài giai thoại tôi xin nói trong dấu 
                                    ngoặc: Cầu này -về sau quen gọi là cầu 
                                    Trường tiền- dài 400 mét do hăng thầu Eiffel 
                                    khởi công xây năm 1897 với vài sắt nhưng c̣n 
                                    lót ván gỗ được vua Thành thái khánh thành 
                                    năm 1900. Lúc ăn lạc thành, viên Toàn quyền 
                                    Pháp đă. kiêu căng ngạo mạn nói với nhà vua 
                                    rằng cây cầu bằng sắt sẽ vững bền kiên cố 
                                    như sự cai trị bảo hộ của Pháp vậy, nhà vua 
                                    mỉm cười nói chưa chắc đâu. Quả nhiên, bốn 
                                    năm sau - 1904-, cầu bị bay bốn vài v́ băo, 
                                    nhà vua bấy giờ lại nói vào mặt tên Toàn 
                                    Quyền: “ Vous” nghĩ sao? Ta đâu có nói sai !
                                      
                                      
                                    Thi sĩ Tam Xuyên Tôn thất Mỹ đă cảm hoài về 
                                    sự kiện lịch sử này như sau:  
                                      
                                    Năm Th́n tháng tám bữa mồng hai  
                                    Một trận phong tai thực khuấy đời  
                                    Vững vàng cầu sắt c̣n bay nổi  
                                    Cứng cáp lầu vôi cũng tả tơi!   
                                      
                                    Cầu này sau được sửa lại và đúc sàn bằng xi 
                                    măng, xong năm 1906 nên dân Huế có câu hát:  
                                    Chợ Đông ba đem ra ngoài dại  
                                    Cầu Trường tiền đúc lại xi -moon  
                                      
                                    Ngẫm lại, tôi thấy thấm thía cho h́nh ảnh 
                                    cuộc tang thương mà đất Huế phải oằn vai 
                                    chịu qua lịch sử của cây cầu sắt Trường tiền 
                                    kiên cố này: nó đă bao lần phải đổi tên nào 
                                    là cầu Thành thái, nào là cầu Clémenceau, 
                                    nào là cầu Nguyễn Hoàng; nó lại bao lần bị 
                                    hư sụp khiến nhà thơ Thảo Am Nguyễn Khoa Vy 
                                    - vốn trứ danh qua câu “ Núi Ngự không cây, 
                                    cu đậu đất, Sông Hương vắng khách đĩ kêu 
                                    trời - cũng châm biếm mà cảm tác bài thơ sau:  
                                      
                                    Sông Hương thường rộng nước thường sâu,  
                                    Thành thái năm xưa mới có cầu.  
                                    Ngă lại, ngă qua luôn sáu nhịp  
                                    Bên am, bên thẳng khác hai đầu  
                                    Trời xô một độ năm Th́n trước   
                                    Người phá ba vài tháng Hợi sau.  
                                    Cái dại Trường tiền c̣n đó măi,  
                                    Đố ai biết dại ở từ đâu?   
                                      
                                    “Trời xô” tức là thiên tai băo lớn năm Giáp 
                                    Th́n (1904), c̣n “ Người phá” tức là nạn 
                                    nước khiến Việt Minh phá sập ba vài vào năm 
                                    Đinh Hợi (1947)- chưa kể chuyện cầu lại bị 
                                    đánh sụp Tết Mậu Thân ( 1968). Mỗi lần trời 
                                    xô, mỗi lần người phá là mỗi lần dân Huế lại 
                                    bị chít thêm vô số vành khăn sô tang tóc, và 
                                    mắt Huế lại đ̣i phen đẵm lệ !:  
                                      
                                    Phải Huế, mới đau 
                                    từng đoạn ruột  
                                    Mới nghe giá buốt lạnh mềm xương  
                                    Mới đảo điên cửa xiêu nhà dột  
                                    Nước đầy nhà, cơm chẳng c̣n cơm.   
                                    ( Nguyên Phương )  
                                     
                                     
                                     
                                    Tại sao Huế thường dễ lụt vào 
                                    tháng 10 âm lịch hằng năm để khiến :  
                                      
                                    “ nước ngập đồng, nước tràn sông,  
                                    Nước trào khóe mắt tuôn ḍng lệ đau”?  
                                      
                                      
                                    Hăy nghe tiến sĩ Thái Công Tụng lấy khoa học 
                                    mà giải thích:  
                                    … Trời hành cơn lụt mỗi năm...Các gịng sông 
                                    chảy qua các đồng bằng B́nh Trị Thiên thường 
                                    ngắn và có một lưu vực hẹp. Sông Giang, sông 
                                    Nhật lệ ở Quảng B́nh, sông Thạch Hăn ở Quảng 
                                    trị, sông Bồ, sông Hương ở Thừa Thiên là ví 
                                    dụ điển h́nh...Lũ lụt thường đến bất th́nh 
                                    ĺnh và thay đổi tùy năm. Có lúc mưa băo gây 
                                    ra một lượng mưa lớn, có thể vài trăm 
                                    millimét trong 24 giờ. Ảnh hưởng của dăy núi 
                                    cũng gây ảnh hưởng. Một phần th́ rặng núi 
                                    gần đồng bằng, mặt khác th́ núi có triền dốc 
                                    rất lớn, nên vận tốc của ḍng chẩy cũng rất 
                                    mạnh. Do đó, nước sông lên rất nhanh. Mùa 
                                    lụt đi sát với mùa mưa lớn. Ở miền châu thổ 
                                    sông Hồng lũ lụt cao nhất vào tháng 8 dương 
                                    lịch, vào đến Thanh Hóa là tháng 9, Nghệ 
                                    Tĩnh thánh 10, đồng bằng B́nh Trị Thiên vào 
                                    tháng 11.  
                                    Câu tục ngữ của dân gian cũng nói lên điều 
                                    ấy: “ Ông tha mà bà chẳng tha, làm cho cái 
                                    lụt hăm ba tháng mười” ( tính theo âm lịch) 
                                    [ Thái công Tụng - Vùng thiên nhiên B́nh Trị 
                                    Thiên _ Tiếng Sông Hương TX, 1997]  
                                      
                                    Tại sao vua Gia long lại không dự trù điều 
                                    trên mà chọn kinh đô tại Huế?  
                                    Đương nhiên nhà vua đă chọn vị trí trung 
                                    ương giữa Bắc và Nam mà cai trị, nhưng cũng 
                                    v́ lư do t́nh cảm lưu luyến vùng đất Phú 
                                    Xuân với nhiều ưu điểm về phong thủy địa lư 
                                    huyền bí mà các Chúa Nguyễn tổ tiên từng dấy 
                                    nghiệp sau dẫy “Hoành sơn vạn đại dung than” 
                                    như lời khuyên bảo của Trạng Tŕnh ! T́nh 
                                    cảm thường chi phối con người như ông Ngô 
                                    Đ́nh Diệm mặc dù làm tổng thống ăn cơm chỉ 
                                    thích cá bống thệ kho. Một bằng chứng khác 
                                    nói lên t́nh cảm trong quan niệm của nhà 
                                    Nguyễn chọn kinh đô Huế, đó là cửa biển Tư 
                                    Hiền ở huyện Phú lộc. Cửa này ngày xưa sâu 
                                    rộng nên tầu thuyền ra vào tiện lợi, nhưng 
                                    đầu đời Gia long lại hẹp, cát lấp nước nông 
                                    có thể lội bộ qua, nhưng đến đời Gia long 
                                    thứ 10, lụt to cửa biển vỡ , sau lại nông 
                                    cạn, đến năm Minh mạng quí mùi th́ nước cạn 
                                    đến nỗi thuyền lớn không qua được; đến năm 
                                    Thiệu trị thứ 4, lụt lớn, cửa Tư Hiền lại vỡ 
                                    nhưng sau lại bồi lấp như trước. Ư của vua 
                                    Minh mạng về cửa Tư Hiền như sau trong Thánh 
                                    chế thi tập như sau:   
                                    “ Sự lấp mở cửa sông biển là tự tay trời, 
                                    không phải dựa vào sức người....Xét ngược 
                                    lại, bản triều năm Giáp ngọ vận nước gian 
                                    nan, quân Trịnh lấn vào, vua Duệ tông ta do 
                                    cửa này vào Nam, Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng 
                                    ta ( tức là vua Gia Long Nguyễn Ánh) mới có 
                                    13 tuổi cũng cùng theo hầu; đến năm tân dậu, 
                                    đại binh lấy lại thầnh kinh cũng do cửa này 
                                    tiến vào. Lúc ấy trẫm mới 11 tuổi cũng đi 
                                    theo hầu. Thế là cái cơ thịnh suy trước sau 
                                    na ná như vậy, tựa hồ có số mệnh định sẵn. 
                                    Nay cửa biển vô cố nông cạn, có lẽ ư trời 
                                    giúp ngầm bản triều, muốn cho cơ nghiệp bền 
                                    vững, không để cho người ngoài nḥm ngó, cho 
                                    nên chuyển biến như thế chăng ?”   
                                    Qua sự kiện trên, ta thấy yếu tố t́nh cảm đă 
                                    chi phối ư kiến của nhà vua v́ nó nhắc ông 
                                    nhớ lại tuổi ấu thơ 11 tuổi. [Nói chí t́nh, 
                                    “dân Huế ḿnh” bây giờ cũng vậy, tha hương 
                                    vạn dặm trùng dương, dù đang ở tai những 
                                    thành phố lớn huy hoàng của quốc tế, mỗi khi 
                                    họ gặp nhau hay đặt bút viết , đều có luận 
                                    điệu:” nhứt Huế, nh́ Sịa”]  
                                    Qua chuyện cửa Tu Hiền, ta lại thấy đất Huế 
                                    đă từng bị lụt lớn nhiều lần trong nhiều thế 
                                    kỷ trước đến nỗi cửa biển Tư Hiền phải vỡ 
                                    rồi sau lại bồi lấp !  
                                    Tuy rằng kinh đô Huế nằm vào địa thế bất lợi 
                                    dễ lụt hằng năm, nhưng ta không nên hồ đồ 
                                    trách cứ nhà Nguyễn ! Đọc lại sử ta thấy các 
                                    vua nhà Nguyễn cũng gia công trị thủy bằng 
                                    cách đào nhiều sông nhân tạo để dẫn nước hay 
                                    làm đập ngăn nước mặn có lợi cho nhà nông ví 
                                    dụ các sông Lợi nông ( tức An cựu), sông 
                                    Thiên lộc, sông Xuân ḥa, sông Phổ lợi...  
                                    Ta thường nghe người ta nói về “ mưa Huế”, 
                                    mưa buồn thúi ruột thúi gan, buồn đến nỗi 
                                    thi sĩ Nguyễn Bính phải than:  
                                      
                                    Trời mưa ở Huế sao buồn thế  
                                    Cứ kéo dài ra đến mấy ngày  
                                    Gia hội thuyền kia nằm bát úp  
                                      
                                    Chính v́ cái “ mưa Huế” dầm dề nên học tṛ 
                                    đi học phải mang tơi cá, tơi đọt tùm lụp kín 
                                    mít nên các chàng trai xứ Huế theo gái chẳng 
                                    thấy ǵ ngoài các “ gót son” của mấy o mà cả 
                                    tá chàng c̣n đem ca tụng trong những vần thơ:  
                                      
                                    Theo em mô dám theo gần quá  
                                    Xa khoảng đủ bưa “nghễ gót chân”  
                                    Trắng mịn pha hồng như sáp nặn  
                                    Hồn thơ ngùn ngụt, tứ lâng lâng  
                                    ( LVL) [ Nếu những cái mưa dầm, lụt lội 
                                    ở Huế làm người lớn lo âu đói kém th́ tụi 
                                    con nít ngây thơ lại có dịp lội nước thích 
                                    thú và được ăn những bữa cơm lạ miệng với cá 
                                    lúi, cá cấn kho sung với tương. Nghĩ lại tôi 
                                    thấy mặc cảm tội lỗi len lén trong hồn trước 
                                    cái đau buồn của người lớn mà tôi dửng dưng 
                                    không chia xẻ!]  
                                      
                                    Ở Huế vốn là cái đất gió mưa truyền kiếp nên 
                                    các ôn mệ ở đây đương nhiên đă thu thập 
                                    nhiều kinh nghiệm về khí hậu trong năm trong 
                                    sự canh tác nên có những danh từ ngộ nghĩnh 
                                    về gió, về mưa:  
                                    - về mùa xuân giêng hai th́ khí trời ôn ḥa 
                                    ấm áp nên cây cỏ trổ hoa, cau bắt đầu ôm bẹ 
                                    th́ ngọn gió xuân là “ gió cau chửa” tựa như 
                                    danh từ “ lúa con gái” lúa có mang, lúa trổ 
                                    đ̣ng đ̣ng”;   
                                    đến tháng 3, trời nóng dần, thỉnh thoảng có 
                                    gió mạnh từ phương nam gọi là “ băo Nồm Nam” 
                                    th́ dân đi sông nước phải đề pḥng;  
                                    tháng 4 tiết tiểu măn, thỉnh thoảng có lụt;  
                                    tháng 5, tháng 6, tháng 7 gió nồm thổi mạnh; 
                                    trước ngày 7 tháng 7, có mưa lớn tục gọi là 
                                    “mưa rửa xe”;  
                                    tháng 8,tháng 9 khí trời mát dần, thường có 
                                    mưa lũ, lại thỉnh thoảng có dông vài ba ngày 
                                    mới tắt. Mùa này gió mát thổi từ sông vô nên 
                                    gọi là   
                                    “ gió bến”;  
                                    tháng 10 trong những ngày mồng 3, 13, 23 
                                    thường bị lụt, ngạn ngữ có câu: “Ông tha mà 
                                    bà chẳng tha, làm cho cái lụt hăm ba tháng 
                                    mười”. Sau lụt th́ bùn đóng dơ bẩn nhưng lại 
                                    có mưa mà dân Huế gọi là “ mưa rửa bùn”;  
                                    về mùa đông, th́ có mưa nhỏ, sắc nước tối 
                                    nên gọi là “ mưa tro”  
                                    Đại khái, trong một năm, nửa mùa thu sang 
                                    mùa đông th́ thường mưa nhiều; c̣n nửa mùa 
                                    xuân về sau thường nắng nhiều.  
                                    Một năm thường có hai vụ lúa:   
                                    1) Vụ hạ: tức là tháng 10 cấy th́ tháng 3 
                                    gặt;   
                                    2) Vụ thu: tức là tháng 5 cấy th́ tháng 8 
                                    gặt.   
                                    Nếu lụt sớm vào tháng 7, tháng 8 th́ hỏng 
                                    lúa, cho nên vụ thu được dân nhà nông Huế 
                                    gọi là “ đánh bạc với trời”, nghĩa là có cấy 
                                    mà chưa chắc được ăn!  
                                    Dân miền núi rừng th́ mỗi năm chỉ cấy một 
                                    mùa.   
                                      
                                    Triều đ́nh Huế ngày xưa cũng có tục thu góp 
                                    những kinh nghiệm dân gian mà soạn ra 11 bài 
                                    thơ ngắn ngũ ngôn tứ tuyệt gọi là Nông ngạn 
                                    để phổ biến trong ngành canh tác. Ví dụ tục 
                                    coi trời đêm trừ tịch 30 Tết, mà đoán mùa 
                                    màng năm tới thất bát hay được mùa: như ngày 
                                    Nguyên đán trời trong sáng th́ được mùa gấp 
                                    mười, c̣n mưa dầm lạnh th́ mất mùa; mùa hè 
                                    măng tre mọc đầu hướng vào bụi th́ năm ấy 
                                    gió to nên bất lợi cho lúa. Về tháng 6, khó 
                                    có mưa; nếu có mưa th́ giọt nước rất quí cho 
                                    lúa nên mưa tháng sáu là “ mưa máu rồng”, 
                                    mưa này càng nhiều th́ thóc gạo bội thu.   
                                    Qua những điều trên, ta thấy nhà nông Huế 
                                    không những phải “trông trời, trông đất, 
                                    trông mây, trông mưa, trông gió, trông ngày, 
                                    trông đêm” như những nơi khác mà c̣n phải 
                                    liều lĩnh “ đánh bạc với trời”:  
                                      
                                    Phải Huế- mới thấm đau lụt Huế!  
                                    Của xa người ̣a vỡ giữa mênh mông  
                                    Da xanh loang loáng trên gịng nước  
                                    Níu kéo nhau đi nỗi hăi hùng !  
                                      
                                    Phải Huế - mới đau từng khúc ruột  
                                    Mới nghe giá buốt lạnh mềm xương  
                                    Mới đảo điên, cửa xiêu nhà dột  
                                    Nước đầy nhà, cơm chẳng c̣n cơm !  
                                    Có hiểu Huế, mới hiểu thấm thía tại sao dân 
                                    Huế:   
                                    Thường hay sầu trong lúc thế nhân vui,   
                                    Tâm sự nhiều mà ít hé trên môi.   
                                      
                                    Bên cạnh đặc tính về địa lư, thiên văn, 
                                    người dân Huế trong vùng dân cư nói chung 
                                    B́nh Trị Thiên c̣n phải chịu ảnh hưởng về 
                                    nạn nhân măn như tiến sĩ Thái công Tụng giải 
                                    thích :   
                                    Hệ sinh thái đất hẹp mà người đông. Mật độ 
                                    dân cư trên đất trồng trọt th́ quá lớn. 
                                    Người dân xứ này phải di dân vào Sàig̣n, Đà 
                                    nẵng, Nha trang, B́nh tuy, Phước long. Nhưng 
                                    đến một lúc th́ di dân chẳng hiệu quả v́ tài 
                                    nguyên đất là một hằng số có hạn.  
                                    Dân số càng ngày càng đông th́ nẩy sinh ra 
                                    một số nhu cầu căn bản: nhu cầu chất đốt, về 
                                    gỗ xây cất, diện tích đất canh tác càng ngày 
                                    càng nhỏ; trâu ḅ, dê không đủ cỏ ăn, cỏ 
                                    không mọc lên kịp lại làm đất thêm một phen 
                                    bị xói ṃn, chưa kể dê thả lang thang v́ đói 
                                    ăn luôn các đọt cỏ non...Các rừng miền núi 
                                    trong vài thập niên gần đây bị đốn cây toàn 
                                    bộ, cả cây lớn lẫn cây con nên rừng bị hủy 
                                    diệt không c̣n cây mẹ để tái sinh. Càng phá 
                                    rừng bừa băi th́ càng dẫn đến xói ṃn, càng 
                                    dễ lụt to trong khi chính quyền không có kế 
                                    hoạch kiểm soát lại thêm nạn tham nhũng dung 
                                    túng thêm. Rốt cuộc, người dân chịu một cổ 
                                    nhiều tṛng thắt siết đến le lưỡi.   
                                      
                                    Tại sao dân Huế ḿnh thường hay hóm hỉnh nói 
                                    đùa về một sự tương phản sau :   
                                    “ Đất Huế không phải là nơi ở để mà 
                                    thương, nhưng là chốn ra đi để mà nhớ” 
                                    như mối t́nh nghịch lư : “De près, je te 
                                    fuis mais de loin je te suis !” mà tôi 
                                    tạm dịch:   
                                    Gần em chạy trốn em hoài,   
                                    Xa em dơi nhờ rạc rầy xác ve!   
                                      
                                    Phải chăng dân Huế đối với đất Huế - cũng 
                                    như cặp chồng già ở với nhau gần măn đời - 
                                    đi ra đi vô trong một mái nhà chật hẹp, hằng 
                                    ngày cũng nh́n khuôn mặt của nhau khủng 
                                    khẳng muốn bắt gây gổ,   
                                    - “Ôn hay bà hăy đi mô khuất mắt cho tui 
                                    khỏe cái than” - ! Ấy rứa mà thử đi vài bữa 
                                    coi, chao ôi là dớ, là thương, là thiếu vắng 
                                    te te đi năn nỉ trở về thiệt tội chưa tề.  
                                    Hăy nói đúng đắn th́ phải chăng đất Huế là 
                                    một môi trường khép kín khiến con người dễ 
                                    chia xẻ với nhau một mẫu số chung về nếp 
                                    sinh hoạt, về kỷ niệm kư ức, về những nét 
                                    t́nh cảm và tư duy. Tha hương ngộ cố tri, 
                                    tha hương gặp nhau là muốn nhận” bà con Huế 
                                    ḿnh” một cách thoải mái như dân Bắc trước 
                                    đây gặp nhau, điều ǵ cũng kể lể: ngoài ta 
                                    thế nọ, ngoài ta thế kia!   
                                    Đất Huế mang một sắc thái tương phản lạ lùng: 
                                    Huế tuy rằng rất đẹp, rất thơ, rất cổ kính 
                                    và có một chiều dầy về lịch sử và văn hóa 
                                    nhưng lại giới hạn v́ diện tích sinh thái, 
                                    vốn hẹp lại càng ngày càng hẹp thêm, tài 
                                    nguyên không đủ dung dưỡng những con dân, 
                                    cọng thêm ách nước tai trời, nhân tài đào 
                                    tạo ra cũng nhiều nhưng không có môi trường 
                                    dụng vơ, thi thố, thăng tiến...như những con 
                                    rồng nằm nước cạn bị g̣ bó khó có dịp bay 
                                    bổng! Nhưng khi xa Huế th́ dân Huế lại muốn 
                                    gần nhau, muốn nhớ đến quê nghèo, càng nghèo 
                                    lại càng nhớ một cách dị hợm:  
                                      
                                    Những kỷ niệm thời xa xưa bừng dậy  
                                    Âm thanh ấy thoát từ câu mái đẩy  
                                    Tiếng “ḥ ơ”nghe đứt ruột buồn sao.  
                                    Biết mấy đau thương, cũng biết mấy ngọt ngào  
                                    Lưu luyến ngàn đời như chưa muốn dứt  
                                    (Nhớ Huế của Tô Kiều Ngân)   
                                      
                                    Không phải là chỉ dân Huế chay chính gốc có 
                                    cái nét tương phản “ ở giận đi thương” mà 
                                    ngay cả những ai ngụ cư, thậm chí những 
                                    người Pháp lai Huế bỏ Huế đi về Pháp cả gần 
                                    nửa thế kỷ cũng muốn làm một thứ tù nhân của 
                                    dĩ văng để nhớ về Huế như bà Monique 
                                    Liverset năm nay hơn thất tuần ở Paris:  
                                      
                                    Rồi một hôm, niềm mơ tôi thành sự thực:  
                                    Như lời kinh, miệng nhẩm buổi b́nh minh,  
                                    Tôi hân hoan - không trông mai chưa tới  
                                    Thích làm tù ôm ấp tuổi hoa niên  
                                    Để sống lại ân t́nh dâng đất Huế.  
                                      
                                     
                                     
                                    ( - Un jour, mon rêve deviendra réalité  
                                    Comme une prière au petit matin  
                                    Ma joie n'aura pas de lendemain  
                                    Pour rester prisonnière du temps  
                                    Et revivre ce bonheur renaissant  
                                    De mon enfance près de toi: Huê!...)  
                                     
                                     
                                      
                                      
                                    Hăy nghe bà đầm lai Monique ni điện thoại 
                                    nói với Nguyễn Cúc (Tiếng sông Hương Texas) 
                                    sau khi bà gởi bài thơ Pháp “ Peut- être 
                                    des retrouvailles!” rằng :  
                                    Je les ai écrits sans aucune prétention, 
                                    mais avec mon coeur, car Hué est ma ville 
                                    natale et le Vietnam est aussi mon pays…  
                                    ( Tôi làm thơ này chẳng có tham vọng chi mà 
                                    chỉ viết ra với tất cả tấm ḷng tôi, v́ Huế 
                                    là nơi tôi chào đời và Việt nam cũng là quê 
                                    hương của tôi nữa)  
                                    Các bạn nghe thấy tội chưa!  
                                      
                                    Huế chính là những trang sử dệt bằng những 
                                    đau thương của nước loạn canh tàn khóc bể 
                                    dâu, của những thiên tai. Người dân Huế 
                                    không thể không nhớ về Huế với những mắt lệ 
                                    lưng tṛng !  
                                    Trước cơn lụt Kỷ Măo vừa, “ Không Huế - cũng 
                                    mềm ḷng với Huế”, huống hồ chi là những tâm 
                                    hồn Huế chay thường đa cảm, đa sầu, thường 
                                    nhớ về quê nghèo với mắt lệ rưng rưng. Nếu 
                                    họ không làm được điều chi to tát như “cho 
                                    Huế thoát cơn nguy truyền kiếp, cho tia nắng 
                                    hồng đẹp Huế mai sau” chắc ít ra họ cũng ít 
                                    nhiều xẻ áo, nhường cơm cho bà con xứ Huế 
                                    ngơ hầu làm vơi nỗi khổ chung hiện tại!  
                                      
                                     
                                    LÊ VĂN LÂN  
                                      
                                     
                                       |  
                                     
                                        |