|
Ngôi Chùa Thiên Mụ Quê Tôi
Bài và ảnh Vơ Quang
Yến
Tiếng chuông Thiên Mụ dặn ḍ,
Em đi : cảnh vắng hẹn ḥ cùng ai ?
Tôi
c̣n nhớ hôm nhà tôi bảo vệ luận văn trên đề tài ngôi chùa
Thiên Mụ, nghe các giáo sư trong ban giám khảo và thí sinh
vui vẻ tranh luận về mấy chữ "anh đi", "em đi",
ai đi, ai đợi, ai hẹn, ai buồn trong câu ca dao quen thuộc,
có lẽ là người đi lại nhiều nhất ngôi chùa nầy trong số các
thính giả ở giảng đường hôm ấy, tôi thầm lặng thú vị thấy
ngôi chùa thân thương tuổi trẻ của ḿnh nay được tŕnh bày
trong viện đại học giữa kinh thành ánh sáng Paris. Nói cho
đúng, chùa Thiên Mụ không đồ sộ như đài Borobudur bên Java,
bí ẩn như kim tự tháp Ai Cập, mỹ miều như đền Taj Mahal xứ
Ấn Độ, lâu đời như nhà thờ Đức Bà Paris, ... nhưng thiền tự
duyên dáng nầy âm thầm quyến rũ khách lại xem, luôn gây ra
một ấn tượng nhớ nhung dạt dào trong ḷng người đến viếng.
Đừng nói đến những trai thanh gái lịch đă từng dắt nhau lại
văn cảnh sân chùa, đạp lá vàng khô, hay ngắm nh́n sông núi,
t́nh tự thề ước, chùa Thiên Mụ luôn vẫn là nơi chứa đầy kỷ
niệm êm đềm, suốt đời khó quên.
|
Về mặt lịch sử, ngôi chùa nầy là một cơ sở
quan trọng của thành Huế và từ năm 1993, cùng với thành phố,
chùa đă được Cơ quan Văn hóa Liên hiệp quốc công nhận làm Di
sản Nhân loại. Thật vậy, được xây dựng trên đồi Hà Khê năm
1601, từ thuở Đoan Quận công Nguyễn Hoàng, năm 34 tuổi, vài
năm sau từ ngoài Bắc vào đây trấn thủ, chùa trở thành nhà
thờ chính thức của triều Nguyễn. Liên tục chứng kiến những
bước thăng trầm, những thời thịnh suy của vương triều cuối
cùng nước ta, góp phần vào cuộc phát triển Phật giáo ở Việt
Nam, chùa Thiên Mụ đă để lại nhiều tài liệu trong sách sử,
tuy ngày nay lắm nhà học giả đang c̣n suy luận, bỏ công t́m
hiểu nhiều chi tiết ngay tại chỗ. Ngay tên ngôi chùa đă là
một huyền thoại có ư nghĩa. Từ lâu, năm 1719, Bảng Trung Hầu
Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1736) đă có viết trong cuốn Nam
triều công nghiệp diễn chí : " ....Đêm hôm ấy bỗng có
một người đàn bà trông thể sắc th́ c̣n trẻ, nhưng mày tóc
bạc phơ, ḿnh vận áo đỏ quần xanh ngồi dưới chân đồi than
văn, rồi cất tiếng to : đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi
đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều, th́ nên lập chùa thờ
Phật, cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi này để phúc dân giúp
nước, tất không có ǵ phải lo...Người đàn bà ấy nói
xong liền biến mất...." Non 200 năm sau, năm 1910, ..trong
bộ Đại Nam nhất thống chí, cũng có kể lại sự tích nầy.
Tuy lời của người đàn bà có phần khác " ...Sau sẽ có vị
chân chúa đến sửa sang dựng lại chùa nầy, tụ linh khí để giữ
vững long mạch cho được bền vững. Nói xong th́ biến mất,
nhân đó mà núi nầy được gọi là Thiên Mụ sơn . Chúa thượng
cho rằng đất nầy có linh khí, bèn dựng chùa gọi là Thiên Mụ
tự...." nhưng không ngoài mục đích của các vua chúa
Nguyễn dựa vào thiên nhiên, thần thánh để hợp pháp hóa bá
quyền của ḿnh, tin tưởng ở lời khuyên của Trạng Tŕnh
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) :
Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân. |
Đồi Hà Khê nằm về phía tây thành phố Huế,
khoảng 6km, trên bờ tả ngạn sông Kim Trà hay Linh Giang tức
là sông Hương bây giờ, hướng về dăy Trường Sơn hùng vĩ, c̣n
mang những tên Hương Oản, Uyển Sơn huyền bí, được xem như
điểm sơn triều thủy tụ giữa sông và núi, nơi phát xuất một
nền văn hóa Phú Xuân phong phú lưu truyền mấy trăm năm. Tục
truyền Cao Biền (821-887), thuở làm tiết độ sứ Giao Châu, đi
ngang qua đây thấy cánh đồi giống như một đầu rồng trong thế
long hồi cố tổ khoa địa lư phong thuỷ, bèn cho đào núi cắt
đứt long mạch, cố ư yểm phá một sự nghiệp lớn có thể bột
khởi trong tương lai. Dân địa phương trước kia đă có dựng
trên nền một tháp Chăm cũ một thảo am thờ tự mang tên chùa
Thiên Mỗ, nóc ở đỉnh núi chân gối ḍng sông. Chúa
Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) nắm cơ hội tự xưng ḿnh là
chân chúa, liền cho lấp núi, dựng lên nền cũ thảo am ấy một
ngôi chùa đặt tên chùa Thiên Mụ, trên bản viết Thiên Mụ Tự,
cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi nầy để bảo toàn long
mạch, phúc dân giúp nước. Hành động khôn ngoan của
Nguyễn Hoàng không những đem lại an cư lạc nghiệp cho dân
quanh vùng Hóa Châu mà c̣n làm thành điểm phát xuất một
vương triều Nguyễn trước 13 đời chúa, sau 9 đời vua, thống
nhất đất nước thu về một mối. Chỉ một đời sau, trong thời
chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên (1614-1635), dân cư đă đến đông
đúc quanh vùng. Nhưng phải đợi đến đời chúa Hiền Vương
Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) mới lại nghe nói đến chùa với kỳ
trùng tu năm 1665, vào lúc thiền sư Tạ Nguyên Thiều ḍng Lâm
Tế từ Quảng Đông đến hoằng dương Phật pháp ở Đàng Trong và
qua trù tŕ chùa Hà Trung ở huyện Phú Lộc dưới đời chúa
Nguyễn Phúc Thái (1650-1691). |
Phật giáo chỉ phát triển mạnh mẽ từ đời Quốc
Chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) là người có
tiếng mộ đạo. Năm 1695 chúa mời Thạch Liêm Ḥa Thượng tức
Đại Sán Hán Ông lại ở chùa tám tháng. Theo miêu tả của ḥa
thượng, chùa Thiên Mụ hồi ấy là đă là điện đài tuy lợp
tranh, tường vách ván đố, nhưng kèo, cột, rui, mè bằng gỗ
quư, chạm trổ hoa văn theo phong cách mỹ thuật truyền thống,
quanh vườn trồng cây cổ thụ. Năm 1710, chúa cho đúc chuông
lớn cung phụng Tam Bảo, nhân tứ nguyệt Đản nhật, tức
lễ Phật đản tháng tư năm Canh Dần. Năm 1714, chúa cho san
bằng đỉnh đồi Hà Khê, huy động quan chức, tuyển chọn quân
lính, t́m gỗ đá ở các tỉnh về chạm trổ, sửa chữa chùa rộng
đẹp trong hơn một năm. Chính ngay chúa đă thống kê những
điện lầu xây dựng sau thời kỳ trùng tu trong một tấm bia đá
cẩm thạch đặt trên lưng tượng một con rùa : " Từ cửa núi
đi vào có đ́ện Thiên Vương, điện Ngọc Hoàng, bảo điện Đại
Hùng, nhà thuyết pháp, lầu Tàng Kinh. Hai bên là lầu Chuông
và lầu Trống, rồi điện Thập Vương, nhà Vân Thủy, nhà ăn, nhà
tọa thiền, rồi điện Đại Bi, điện Dược sư, nhà ở của chư
tăng, nhà trọ cho khách, không dưới vài mươi sở. Bên sau là
vườn T́ Da, trong vườn có nhà Phương trượng, và các chỗ cũng
không dưới vài chục sở. Tất cả đều sáng chói rực rỡ, khiến
cho người xem phải kinh ngạc sợ hăi. Thật là một ṭa Quang
Minh trong thế giới toàn sắc vàng rực vậy." Chúa đổi tên
chùa thành Thiên Mụ Thiền Tự. Tuy là quốc tự và là nơi thừa
tự ḍng họ các chúa Nguyễn, sau chúa, chùa bị bỏ hoang, gỗ
hư mọt, ngói lỡ sụt, và qua năm 1775, lúc Định Vương Nguyễn
Phúc Thuần (1754-1777) chạy trốn vào nam, kinh thành Phú
Xuân bị quân Trịnh tàn phá th́ chùa hoàn toàn đổ nát, kinh
luận hủy hoại tiêu tán. Thời Tây Sơn (1786-1801), Phan Huy
Ích (1750-1822) đă từng đau ḷng trước cảnh hoang tàn lạnh
lẽo (1788) : Am xưa nay biển tế
đàn, Chùa xưa thờ Phật nay toàn để xe. |
Khi Gia Long (1762-1820) lên ngôi (1802), nhà
vua đợi đến năm 1815 mới cho sửa chữa chùa. Bửu điện Đại
Hùng được xây lại nhưng vẫn giữ chổ cũ từ thời Nguyễn Hoàng,
vua cho xây thêm các điện Di Lặc, Quán Âm, Thập Vương, Tàng
Kinh Lâu, Lôi Gia, lầu Chuông, lầu Trống hai bên Nghi Môn.
Năm 1825, vua Minh Mệnh (1791-1841) lại cho sửa chữa tiếp
rồi nhiều lần cho thiết trai đàn. Việc làm đáng kể của vua
Thiệu Trị (1807-1847) là cho xây tháp Phước Duyên năm
1844-1845 "Ta vốn chẳng phải kẻ sùng đạo, chỉ v́ sủng
nguyện của dân nên cho lập chùa mà thôi". Ngày nay, tháp
thờ Phật nhưng nghe theo di chiếu của vua Minh Mệnh th́ phải
là một công tŕnh hỗn hợp hài ḥa tam giáo và tín ngưỡng dân
gian. Ngoài ngôi tháp, nhà vua đă cho sửa chữa nhiều, xây
điện đài mới vào thay thế những sở nhà hư sập. Trước ngôi
tháp được dựng đ́nh Hương Nguyện trên nóc có pháp luân luôn
quay theo chiều gió, hai bên có hai bi đinh h́nh tứ giác, từ
bến sông đi lên có bốn trụ hoa biểu rất cao. Nói chung kiến
trúc chùa đă thật hoàn hảo và gần giống như ngày nay trừ vài
thay đổi. Đồng thời vua cũng cho tổ chức nhiều lễ lớn, Lạc
thành, Đảo vũ, Vu lan. Trong bảng kê 20 thắng cảnh đất Thần
Kinh kèm theo 20 bài thơ ca tụng, chùa Thiên Mụ qua bài
Thiên Mụ chung thanh được sắp số muời bốn. Gió đưa
cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.
Mỗi lần lên chùa với con, em, gia đ́nh, vua hay làm
nhiều bài thơ, cho khắc vào bia đá. Năm 1862, vua Tự Đức
(1829-1883) sợ chữ Thiên phạm đến Trời nên cho đổi tên Thiên
Mụ Tự ra Linh Mụ Tự, hy vọng có con nối dơi, từ đấy dân gian
có hai danh từ để gọi chùa. Năm 1899, vua Thành Thái
(1879-1947) lại cho sửa chữa, năm 1920 cho dựng bia ghi bài
thơ ca tụng vẻ đẹp của chùa. Nói chung, người nhiều kẻ ít,
phần lớn các vua chúa nhà Nguyễn đều có lo chăm sóc ngôi
quốc tự nầy. |
Ngày nay, đi bộ từ thành phố lên chùa, khách
hết c̣n phải len lóc cây cối hoang rậm như thuở trước, gần
đây cũng hết được dạo xem những quán hàng dọc ḷng sông được
giải tỏa, chỉ c̣n ngắm nh́n phong cảnh sông nước bao la, xa
xa những dăy núi Xước Dũ, Kim Phụng yên lặng soi bóng sông
Hương. Tuy nhiên, nếu ṭ ṃ t́m th́ c̣n thấy đuợc cổng vào
ngôi nhà-vườn truyền thống An Hiên của bà Lan Hữu nay được
ghi làm Di tích quốc gia, viếng thăm trong khu Đại Chủng
viện Kim Long ngôi mộ của cha Léopold Cadière (1869-1955),
người đă khảo cứu sâu rộng văn hóa Phú Xuân và đóng góp
nhiều trong hội Đô thành Hiếu cổ Association des Amis du
vieux Hué. Lại gần th́ từ xa đă thấy bóng tháp chùa thấp
thoáng sau mấy hàng cây. Rơ ràng hơn là đến chùa bằng đ̣,
nh́n từ sông tháp không bị che. Chỉ khi cập bến, nếu khách
lại mùa hè th́ mục kích được những cánh hoa phượng đỏ chói
làm tăng vẽ cổ truyền của ngôi tháp rêu phong. Leo lên mấy
tầng cấp, sau hai trụ đá, khách bước vào khuôn viên chùa qua
bốn trụ biểu cao gần 8m, có gắn gạch hoa tráng men,
với bốn vế đối của vua Thiệu Trị đánh dấu "ngự chế"
phát huy tinh thần Phật giáo "dạy dỗ cho muôn loài biết
đạo". Sau những trụ biểu một sân cỏ có viền mép đá thanh
là nền cũ đ́nh Hương Nguyện được dựng vào những năm
1844-1845 nghĩa là đồng thời với bửu tháp Phuớc Duyên nhưng
bị trận bảo năm Th́n (1904) đánh đổ, sau nầy được cất lại
phía sau điện Đại Hùng. Gọi là đ́nh v́ không phải nhà
thờ, cũng không phải đ́nh làng mà là nơi nghỉ chơi của nhà
vua. Hai bên nền là hai bi đ́nh, nhà vuông xây gạch,
nền ghép đá thanh : bia phía đông kể chuyện dựng tháp Phước
Duyên, bia phía tây khắc thơ của vua Thiệu Trị vịnh chùa
Thiên Mụ. Toàn khuôn viên nầy là một nơi dạo chơi thoải mái,
trước mặt có sông Hương êm đềm, những con đ̣ nhỏ lướt nhẹ
trên sóng, vào chiều in bóng trong nước, trước dăy núi hùng
vĩ bao la, không khỏi gợi trong ḷng khách một trạng thái
thảnh thơi, nhẹ nhàng nơi chốn Tiên Phật. |
Đứng ngay sau nền Hương Nguyện là bửu tháp
Phước Duyên, lúc đầu mang tên Từ Nhân, (người Pháp gọi
"tháp Khổng Tử" ?) bảy tầng bên ngoài h́nh bát giác (tám
góc), bên grong h́nh tṛn, cao hơn 20m, kể từ mặt nước sông
Hương th́ cao gấp đôi. Ngó lên ngọn tháp bảy tầng, Một
đêm em dậy mấy lần nghe chuông... Tháp có tường bằng
gạch nung già để trần không tô, dùng mạch vôi hồ kết dính,
xây trên nền đá thanh cứng với một lớp móng chôn vùi dưới
đất không biết dày bao nhiêu, trông tương tự tháp Chăm. Cả
tám mặt đều có lan can, hai cửa trước và sau, trang trí bằng
gạch hoa tráng men Long Thọ hay pháp lam. Mỗi tầng tháp có
cửa ṭ ṿ cho ánh sáng lọt vào, cửa tṛn thông gió không
hoàn toàn cân đối, lại có hoa văn khác nhau : chữ thọ (tầng
dưới cùng), chữ vạn (tầng tư và tầng trên cùng), hoa thị 4
cánh (các tầng năm và sáu) hay 6 cánh (tầng ba). Muốn lên
tầng trên, khách phải trèo một cầu thang xoắn ốc hướng tay
mặt chứ không phải hướng tay trái như thường lệ. Lên càng
cao, tháp càng nhỏ lại nhưng kiến thiết các tầng đều giống
nhau. Cầu thang xoắn ốc không đưa lên đến tầng chót, muốn
lên phải dùng một cái thang gỗ bắc trong một ô cửa và di
động được. Nghe nói lúc trước tầng nầy được bảo vệ chặt chẽ,
có ổ khóa do bộ Lễ quản lư ! Vậy mà tượng Phật bằng vàng
(nếu có) đặt ở đây vẫn bị mất ! Trên cửa ṭ ṿ có bức hoàng
phi đề Tự Tại Thiên xác định đây là cơi Trời. Qua cửa
ṭ ṿ khách được chiêm ngưỡng vừa một quang cảnh sông núi
hùng vĩ chốn đế đô, vừa một bức tranh hữu t́nh của đất nước
Hương B́nh, nơi gặp gỡ sông nước và non cao. |
Ở mỗi tầng, một bức hoành phi đặt giữa hai vế
đối. Hoành phi tầng dưới cùng đề tên của tháp : Phước
Duyên Bảo Tháp. Lần lượt sáu bức hoành phi khác cũng có
ba hay bốn chữ : Phúc bị quần sinh, Hóa thông vạn loại,
Thiện căn hữu khế, Phước quả thường viên, Cực lạc cảnh,
Tự Tại Thiên. Mỗi tầng thờ một Kim thân Thế tôn, theo
bia đá Ngự chế Thiên Mụ Tự, từ trên xuống dưới : đệ
nhất QuáKhứ Tỳ Bà Thi Phật (Vispasin) ; đệ nhị Thi
Khí Phật (Sikhin) ; đệ tam Ty Xá PhúPhật
(Vessabhu); đệ tứ Câu Lưu Tôn Phật (Krakuchanda) ; đệ
ngũ Câư Na Xá Mâu NiPhật (Kanakamuni) ; đệ lục Ca
Diếp Phật (Kashyapa) ; đệ thất Trung Thiên Điền Ngự
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật (Sakyamuni),
Tây Phương Cực Lạc Pháp Vương (Amitabha), bồi chi hữu
A Nan (Ananda), Ca Diếp (Kashyapa) tôn
giả. Vậy th́ có tất cả 9 hay 10 pho tượng. Dù sao, những
tượng nầy bằng vàng (theo tiếng đồn ít nhất cũng có một pho
và bị mất) hay bằng đồng sợ bị trộm cắp nên một dạo được
thỉnh vào thờ ở điện Đại Hùng và thế vào tháp những tượng
bằng thạch cao sơn màu đồng. H́nh dạng và y phục các vị
Phật quá khứ nầy không mấy khác nhau, tất cả tóc đen trừ
một vị tóc vàng, chỉ phân biệt ở ấn quyết nơi hai tay. Năm
1999 tôi chỉ chụp được ảnh 8 pho tượng nầy. Từ năm 2007,
những tượng bằng đồng đă được thỉnh về lại tháp. |
Ngang hàng với tháp, hai bên có hai nhà
lục giác xây sớm hơn và cũng lớn hơn bia đ́nh tứ giác
Thiệu Trị. Vách tường bằng gạch, kết dính với mạch vôi hồ
như ngôi tháp, sáu măt nhà có sáu cửa ṭ ṿ. Nhà phía đông
chứa đựng tấm bia chúa Nguyễn Phúc Chu kể chuyện xây
cất chùa, chạm trổ điêu khắc có mỹ thuật, được dựng trên
lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch trắng đẽo gọt sinh động.
Viền bia có chạm ngọn lữa vươn lên và bốn con rồng năm móng
chạm trổ tỉ mỉ, toàn thân uyển chuyển. Đầu bia cũng có chạm
mây rồng có đuôi uốn lượn trên làn sóng. Nhà phía tây là gác
treo chiếc chuông lớn gọi Đại Hồng Chung, một kiệt
tác về tŕnh bày mỹ thuật cũng như kỹ thuật đúc đồng thời
chúa Nguyễn Phúc Chu. Cao 2,50m, chu vi trung b́nh 4m,
chuông có quai mang h́nh măng xà, chim phụng hoàng, rồng năm
móng. Thân chuông có vành rồng, những ô mang chữ thọ, khắc
những chữ Hoàng đồ cũng cố, Đế dạo hà xương, Phật nhật
tăng huy, tên người dựng chuông, mục đích dựng chuông.
Phía dưới có h́nh mặt trời tṛn là nơi vồ gỗ đánh vào khi
thỉnh chuông, hai bên có ngọn lửa tóe ra, xa lưỡi gần vầng.
Dưới cùng trang trí tám quẻ bát quái trước miệng chuông chạm
trổ hoa văn thủy ba sóng nước tŕnh bày tinh hoa nên rất
linh động. So về cả hai mặt mỹ nghệ và kỹ thuật, Đại Hồng
Chung hơn xa chuông Gia Long trong lầu Chuông cạnh Nghi Môn.
Tiếng chuông lại ngân nga, thanh thoát dễ gợi buồn nơi người
nghe. Nghe chuông Thiên Mụ lại
buồn, Ngó về Thành Nội khói tuôn lại sầu... |
Sau lưng bảo tháp Phưóc Duyên, vua Khải Định
(1885-1925) có cho dựng năm 1919 một tấm bia nhỏ lộ thiên kể
sơ lược sự tích chùa. Ngay sau bia là một tam quan gọi là
Nghi Môn, phía đông có lầu Chuông, phía tây có
lầu Trống. Rộng gần 5m, dài gần 15m, cao gần 4m, trần
bằng gỗ, cửa chính vào chùa nầy gồm có ba gian, có vách phân
cách, trong mỗi gian có tượng hai vị Hộ pháp
Dharmapala rất sinh động, dáng điệu, bộ mặt , xiêm áo,
giáp trụ khác nhau. Phía trên bên kia cửa là ba ṭ ṿ, ở
chính giữa có biển gỗ đề Linh Mụ Tự, chạm hoa văn
rồng, nét sơn son thấp vàng nay đă phai màu, hai biển phía
đông đề Đại Từ Bi, biển phía tây đề Đại Trí Tuệ,
đều đắp vôi nổi. Một cái thang dẫn lên lầu, mặt trước đóng
đố gỗ, phiá sau xây vào chùa để trống, nh́n từ dưới chẳng
thấy rơ, lên trên lầu khách ngạc nhiên phát hiện được một
tượng Ngọc Hoàng, mặc dầu nghe nói chùa chỉ giữ lai những
h́nh tượng Phật giáo, bảo vệ đằng sau là một vị Hộ Pháp to
lớn, chống kiếm, uy nghi nghiêm nghị. |
Qua khỏi Nghi Môn, khách đạt đến một khoảng
trống với ba lối đi và hai bên hai nhà Lôi Gia, loại
miếu thờ đối diện xây năm 1815 dưới đời Gia Long. Mỗi Lôi
Gia chứa ba pho tượng Kim Cương có nhiệm vụ bảo vệ
Đạo pháp, đuổi dẹp ác quỷ. Được đắp bằng đất sét trộn với
trấu và rơm, mỗi tượng lớn bằng người thật, có một thế ngồi,
một cách để chân, một ấn quyết hay dụng cụ ở hai tay khác
nhau. Tuy là những vị thần lúc trước mang chùy kim cương
Vajrapanis, áo, măo, hia, giáp trụ, vũ khí, ṿng quanh
thiên thần, màu sắc tô vẽ sặc sỡ biệu lộ một sắc thái Trung
Quốc. Như để khuyến khích khách gạt bỏ mọi ưu phiền, ác tính
trước khi vào chùa, mỗi vị được tŕnh bày đạp chân lên một
con thú nhỏ : cóc, rắn, khỉ, hổ, rùa, lân tượng trưng cho
thú tính. Như vậy, trước lúc bước vào điện Đại Hùng tất là
cơi Phật, đi ngang trước nhà Lôi Gia, khách mang một đầu óc
thư thái, thanh thảng rũ sạch mọi bụi trần. |
Lối giữa từ Nghi Môn dẫn thẳng vào Bảo
điện Đại Hùng (người hùng là đức Phật, có quyền lực chế
ngự mọi quỷ sứ), một ṭa nhà lớn gồm có hai phần : tiền
đường năm gian hai chái và chính đường, ba gian hai chái họp
lại thành bốn mái, hai mái chồng nhau, nóc chính điện cao
hơn nóc tiền đường. Trên nóc tiền đường có hai con rồng chầu
một Pháp Luân trong có chữ Phật. Trên nóc chính điện cũng có
hai con rồng chầu một mặt trời giữa bảy ngọn lửa sắp dọn
thành búp hoa sen trong có chữ Vạn. Hai đầu chái chính điện
và tiền đường có h́nh con dơi gắn sành mảnh sứ. Trong
thiền đường trang trí giản dị, có hai vế đối 12 chữ của
vua Thiệu Trị và hai vế đối 21 chữ của triều đ́nh vua Bảo
Đại (1913-1997). Ở chính giữa, một tượng đồng rất lớn đức
Phật Di Lặc Maitreya, tai lớn dài, cao 0m80, đặt trên
một bệ lớn bằng gạch cao hơn 1m. Ngài ngồi vui thích, chân
mặt co lên, chân trái xếp bằng, áo trạc ra cho ḷi cặp vú và
cái bụng phệ, miệng cười thoải mái. Treo trên pho tượng là
bức hoành phi sơn son chữ lớn Linh Thứu Cao Phong
(đỉnh núi nơi đức Phật chuyển pháp lần thứ hai, giảng bộ
Kinh Diệu pháp liên hoa), thủ bút của chính chúa Nguyễn
Phúc Chu, lúc trước treo trong chính điện. Một bảo vật c̣n
xưa hơn trong tiền đường là cái khánh đồng dài 1m60, rộng
0m55, treo trên một cái giá gỗ, đúc ở Phường Đúc, trang trí
hai mặt : một mặt đề tên B́nh Trung Quán Khánh và
niên hiệu Vĩnh Trị nhị niên tuế Đinh Tỵ (tức là 1677)
trọng thu tạo ; mặt kia đề tên người phụng
cúng Hội chủ Trần Đ́nh Ân đạo hiệu Minh Hồng, pháp danh
Tịnh Tín, Thập phương công đức và h́nh sao Bắc
Đẩu nằm giữa nhị thập bát tú, trên một mặt trời với bốn ngọn
lửa. Đông Triều Hầu Trần Đ́nh Ân (1626-1707) là nhạc gia của
Nguyễn Khoa Chiêm, cả hai đều làm quan to trong triệu Minh
Vương. Có thể tin là khánh đă được đúc cho chùa B́nh Trung
và sau đưa qua chùa Thiên Mụ. |
Chính đường hay thượng điện chiếm toàn
chiều dài ba gian của điện, dài 30m, rộng 12m, lúc trước
cột, kèo, xuyên, trếnh đều làm bằng gỗ lim, gỗ sao, nền lát
gạch Bát Tràng, từ ngày trùng tu năm 1958, được thay bằng xi
măng cốt sắt. Ở tiền đường khách thấy ngay một bức hoành phi
mang ba chữ Đại Hùng Điện. Trên bàn thờ Phật đặt
trong cùng có ba tượng Tam Thế thể hiện Tam Thân, bằng đồng,
giữa là đức Thích Ca Mâu Ni Sakyamuni, bên trái có
đức A Di Đà Amitabha, bên mặt có đức Di Lặc
Maitreya, tất cả đều ngồi thiền trên hộp sơn đỏ, hai
chân chéo nhau, mỗi vị một ấn quyết khác nhau. Cơ thể dỏng
cao, dáng đầu thanh trên một cổ dài, những nếp áo che lấp
vai chỉ để lộ những nút giây giữ vạt áo dưới,... nhiều chi
tiết kê sắp các tượng nầy trong số h́nh tượng Phật giáo đẹp
nhất ở Việt Nam. Năm 1999, trước bàn thờ nầy có bảy vị Phật
nhỏ cũng bằng đồng, khó thấy, lúc trước đặt trong tháp Phước
Duyên, nay đă được thỉnh về lại tháp. Trước các vị nầy năm
1999 c̣n có một tượng đồng Di Lặc tương đối nhỏ hơn và trong
tủ kính tượng đức Thế Tôn Sakyamuni. Hai bên bàn thờ,
hai vị bồ tát nắm hoa sen Phổ Hiền Samantabhadra cỡi
con thanh sư bên mặt, vị Đại Thế Chí Manjushri cỡi
con sư tử bên trái, đều được đặt trong tủ kính. Hậu điện chỉ
có một bàn thờ Thạch ḥa thượng. Theo các sách xưa, thượng
điện c̣n chứa nhiều h́nh tượng khác, không thuộc về Phật
giáo như các thần Nam Tào, Bắc Đẩu đă được loại ra. Tượng
Ngọc Hoàng ở Nghi Môn là một tàn tích c̣n sót. |
Sau bảo điện Đại Hùng là điện Địa Tạng
Kshitigarbha dài hơn 28m, rộng gần 20m, xây năm 1815 trên
nền điện Di Lặc, với bộ sườn đ́nh Hương Nguyện dời vào. Dấu
tích xưa, gồm có mười sáu cột, bốn cột mệ ỡ giữa, bốn mái,
bốn kèo mái, trần h́nh bát quái, điện là một lầu vuông, chạm
trổ hoa lá hay h́nh bát bửu (cây đàn, bầu rượu,...). Khoảng
đố giữa các cột được chia thành hộc h́nh chữ nhật và ô vuông
khắc dưới 96, trên 32 câu thơ bằng chữ Hán của vua Thiệu
Trị, chạm hoa lá mai, lan, cúc, trúc, bút lông, ống sáo,
gươm, khánh, đàn,... Điện nầy lúc trước được thiết kế để thờ
đức Quan Công tức Quan Vơ, Quan Vân Trường hay Quan Thánh
(thường kèm theo Trương Phi và Quan B́nh), không hẳn phải
thần Phật giáo, v́ vậy vào khoảng thập niên 50 đức Quan Công
được dọn đi và điện được đổi thờ Địa Tạng là vị bồ tát tự
nguyện xuống Âm phủ để cứu khổ cứu nạn những âm hồn đang bị
quỷ sứ đày đọa. Năm 1999, khi chúng tôi viếng chùa, điện để
trống không, chỉ thấy hai chú tiểu ngồi học trên hai cái bàn
nhỏ. |
Nhà thờ sau cuối khu Thiên Mụ là điện Quán
Âm Avalokitesvara, xây trong lùm cây, từ đời Gia Long.
Sân, tầng cấp lọt gạch Bát Tràng, điện dài gần 20m, rộng 13m
rưởi, ba gian, hai chái với ba cửa ra vào, hai cửa nách,
trang trí giản dị không có hoa văn. Tượng đức Quán Thế Âm Bồ
Tát lớn, bằng đồng, ngồi trên ṭa sen, nét mặt dịu dàng, đặt
trước bức hoành phi Quán Âm Điện. C̣n có một tượng
Quan Âm bằng đá, thế đứng, đặt trước tượng kia, trong tủ
kính, cũng không kém phần nghệ thuật nữ phái, ngón tay thon
dài, tay mặt để thỏng xuống, tay trái đưa lên ngang ngực,
đều có ấn quyết. Hai bên có hai bàn thờ Thập Điện
Vương, mỗi bên 10 vị, 5 vị ngồi trước bằng đất nung sơn
vàng, nhỏ, cũ hơn, 5 vị ngồi sau bằng đất sét nhiều màu, có
râu cằm và trêu mép. Áo, mũ giống nhau, mỗi vị có một bộ măt
khác nhau nhưng đều nghiêm nghị như những ông quan ra ṭa.
Những tượng nầy có thể thỉnh từ hai dăy Thập Vương ở cạnh và
bị phá đổ cùng lúc với điện Di Lặc. Phía sau điện thờ Địa
Tạng, một tượng lớn bằng đồng vàng chói, ngồi trên ghế, tay
trái đặt trên thành ghế, tay mặt một ấn quyết. Rất có thể
tượng nầy lúc trước được đặt thờ trong điện Địa Tạng xây lại
trên nền điện Di Lặc . |
Vị trù tŕ sau cùng của chùa lănh đạo Phật
giáo Huế có tiếng tăm là Ḥa thượng Thích Đôn Hậu có phần mộ
và ngôi tháp sau cuối khu chùa, núp bóng dưới nhiều cây yên
tĩnh. Một vị tu hành có tiếng khác là Ḥa thượng Thích Quảng
Đức, tự thiêu ở Sài G̣n ngày 11 tháng sáu năm 1963, hiện có
mặt qua bảng giải thích bằng hai thứ tiếng Việt và Anh đặt
trước một chiếc xe hơi đă chở Ngài. Trong khuôn viên chùa
c̣n có nhà bếp, vườn rau. Con Rùa Mốc thường được nhắc đến,
ngày nay chỉ c̣n những đám gạch sụp đổ ngoài tường chùa. Sau
cuối chùa c̣n có hai ngôi nhà xưa thấp thoáng trong lùm cây
gợi lên ư nghĩ quang cảnh của ngọn đồi khi chùa mới được xây
dựng thành. Với một kiến trúc tuyệt diệu, những báu vật mỹ
thuật, chùa Thiên Mụ thật là một kiệt tác nghệ thuật tinh vi
vùng Phú Xuân hài ḥa giữa môi trường êm dịu đất Thần Kinh.
Tôi rất mừng khi nhà tôi chọn ngôi chùa quê tôi làm đề tài
luận văn v́ là một dịp để cô ta t́m hiểu sâu xa hơn tâm hồn
Phật giáo nói chung, phong cách xứ Huế nói riêng, từ đấy tôi
cũng hưởng lây được kiến thức mà cô ta đă gom góp. Khi luận
văn được in thành sách (*) bà Hội trưởng Hội Những Người Bạn
Viễn Đông AFAO không ngần ngại cho in dấu của Hội lên b́a
sách với lời giới thiệu cho khách chỉ biết tiếng Pháp cần có
cuốn sách nầy trong tay khi đến viếng Huế ! |
Mừng Phật Đản
2555
Xô thành tiềt Thanh minh 2011 |
Tham khảo
- (*) Vo Quang Liliane, Le temple de la
Dame Céleste (Chùa Thiên Mụ) à Hué
� sanctuaire bouddhique et
miroir de l'ancienne capitale du Vietnam,
Université de Paris VII 1998, Cahiers de Péninsule
6 2004
- Nguyễn Đắc Xuân, Bốn trăm năm chùa Thiên
Mụ, nxb Thuận Hóa Huế 1998
- Hà Xuân Liêm, Chùa Thiên Mụ, nxb
Thuận Hóa Huế 1998
- Hà Xuân Dương, Kiến trúc chùa Thiên Mụ,
nxbĐà Nẵng 1998
- Phanxipăng, Leo tháp Phước Duyên,
Tc Nghiên cứu và Phát triển 3(80) 2010 ; Chim
Việt Cành Nam 42 2011 |
Nguồn:
Post ngày:
12/08/18
|