|
-
Núi Phú
Thọ và Cổ Lũy Cô thôn
-
(QNĐT)- Núi Phú
Thọ (c̣n có tên núi Đá, núi Thạch Sơn) tọa lạc tại xă Nghĩa Phú,
huyện Tư Nghĩa, cao chừng 60m so với mực nước biển. Nằm cạnh cửa
Đại, Cổ Lũy, núi Phú Thọ như một đồn lũy thiên nhiên án ngữ cửa
biển quan trọng bậc nhất tỉnh Quảng Ngăi.
-
-
Sở dĩ gọi là núi Đá
v́ trên núi có nhiều khối đá granit xám có kích cỡ và h́nh dạng
khác nhau. “Nhất bộ dị trạng” (mỗi bước một đổi thay h́nh dạng)
là cách nói diễn tả vẻ đẹp độc đáo của núi đá Phú Thọ ở mỗi góc
nh́n, mỗi khoảnh khắc thời gian.
Đây là cấm Bầm Buông, với những khối đá chồng hoặc xếp dọc bên
nhau như có bàn tay sắp đặt của tạo hóa để thành đá Trống, đá
Chuông, khi gơ vào phát ra chuỗi âm thanh trầm bổng diệu kỳ.
-
-
|
- Đá Ḥn Chồng
|
-
C̣n kia là g̣ Đá Trận, lô nhô đá nhỏ, đá to bên sườn đồi, ẩn
hiện bóng cây, bóng lá. Kỳ thú là chùa Hang thiên tạo với hai
khối đá dựng lên làm trụ, đỡ một tảng đá lớn nhô ra phía trước
trông tựa mái hiên. Rêu phong phủ đầy vách đá tạo nên vẻ u tịch
hoang sơ.
Giữa ngày hè nóng bức, hang đá mát rượi. Rễ cây đa cổ thụ lách
qua kẽ đá dẫn từng giọt nước trong veo rơi tí tách xuống ḷng
hang. Tương truyền, ngày trước ở hang đá nầy, cứ đến rằm
tháng 7 âm lịch có một con hổ to, lông đủ màu sắc, lặng
lẽ xuất hiện trước sân chùa, chẳng mảy may làm kinh động đến
người và muôn thú, dân làng mến mộ gọi là “ông hổ đi tu”.
Sách Quảng Ngăi nhất thống chí của tiến sỹ nho học Lê Ngăi viết
về ngọn núi này như sau:
“Núi Phú Thọ, ở phía đông, cách huyện trị [Tư Nghĩa] 11 dặm,
đông giáp cửa bể Cổ Lũy, tây liền với núi Bàn Cờ, nam giáp Vũng
Tàu, bắc giáp sông Trà, Núi có những đá to mọc vút lên và nhọn
trông như ngón tay chỏ lên. Đời Tự Đức đặt pháo đài ở đỉnh núi
nầy để pḥng giặc bể. Thiệt là một ṭa núi đứng trấn cửa bể to.” (Quảng
Ngăi nhất thống chí – bản Quốc ngữ, chép tay).
Năm 1914, trong cuốn sách có tựa đề Guide de L’Annam, Ph.
Eberhardt đă giới thiệu về núi Phú Thọ như là một thắng cảnh đặc
sắc và có vị trí quan trọng ở mạn biển tỉnh Quảng Ngăi:
“..., vị trí này ngày xưa về phương diện chiến lược xem rất
là vững chắc, cho ta một tầm nh́n rất thoáng ra ngoài biển và
vùng thôn dă xung quanh rải rác với những cụm đá nằm giữa những
g̣ đất màu đỏ, chắc phải là vùng đất chiếm giữ của người Chàm
ngày trước.” (Bản
dịch Nguyễn Đức Cung)
Quả thật, đứng trên đỉnh núi Phú Thọ, du khách có thể phóng tầm
mắt bao quát một vùng thiên nhiên rộng lớn. Vào những buổi b́nh
minh, khi mặt trời ửng hồng từ từ nhô lên trên mặt biển bao la
cũng là lúc những con thuyền nan cửa Đại sau một đêm ngủ mơ
trong giấc sóng bỗng khe khẽ cựa ḿnh, chầm chậm nối nhau ra
biển đón đoàn thuyền đánh cá trở về trong d́u dịu sương mai. Xa
xa, hơi chếch về phía bắc là mũi Ba Làng An. Xa hơn nữa, ghé về
đông, nhấp nhô trên sóng là cù lao Ré. Sông Trà Khúc bên kia,
sông Vệ bên này ùa nước vào nhau để thênh thang cửa Đại.
Chiều rơi khe khẽ, mặt trời đậu trên những rặng núi xa tít trời
tây, ánh hồi quang cuối ngày chấp chới trên những ḥn Chuông,
ḥn Trống, ḥn Chồng. Bức tranh sơn thủy hữu t́nh “Cổ Lũy cô
thôn” từng làm say ḷng ông quan - thi sỹ Nguyễn Cư Trinh và bao
lớp tao nhân mặc khách miền sông Trà núi Ấn chầm chậm hiện dần
trong băng lăng nước mây. Làng Cổ Lũy u tịch với những ngôi nhà
lẫn khuất dưới bóng dừa xanh như mơ, như thực trong khói sóng
chơi vơi. Dăi cát ven bờ chầm chậm chuyển từ màu vàng nhạt sang
màu xám sẫm như muốn lẫn vào bóng chiều, gió biển.
Cửa Đại và thôn côi Cổ Lũy được Quốc sử quán triều Nguyễn ghi
chép khá cụ thể trong sách Đại nam nhất thống chí:
“Tấn Đại Cổ Lũy: ở cách huyện Chương Nghĩa 17 dặm về phía
đông bắc, cửa biển rộng 230 trượng thủy triều lên sâu 14 thước,
thủy triều xuống sâu 10 thước, phái nam là của biển lớn, nước
sâu, cạn, tàu thuyền ra vào đều do đấy; phía bắc là cửa biển nhỏ,
tàu thuyền không thông. Có đặt thủ ngự và hiệp thủ lại lấy dân
phụ lũy sung việc trú pḥng. Lại thôn Cổ Lũy, phía đông bắc dựa
ven bờ biển, phía tây nam giáp là chỗ là chỗ giao lưu của sông
Vệ và sông trà, cách xa làng xóm, trông như trong khói nước lờ
mờ, là một trong “mười cảnh Quảng Ngăi” đề là “Cổ Lũy cô thôn”.
Dân địa phương làm nghề dệt chiếu và đánh cá.” (Quốc
sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí; Quyển VII: tỉnh
Quảng Ngăi – mục: Cửa quan và Tấn sở).
Vị trí “Trấn Hải khẩu” của núi Phú Thọ đă được lưu ư từ thời
vương quốc Chăm. Bằng chứng là hiện nay trên núi vẫn c̣n dấu vết
thành quách do người Chăm xây dựng vào khoảng thế kỷ IX –X , mà
rơ nhất là phế tích thành Bàn Cờ. Theo hồ sơ của Bảo tàng Tổng
hợp Quảng Ngăi, thành nầy có h́nh thang cân, cạnh trên 52m, đáy
60m, cao 25m, diện tích mặt thành khoảng 500m2. Bờ thành Bàn Cờ
vốn được xây bằng gạch. Trên mặt thành có tháp Chăm, nhưng nay
đă bị phá, chỉ c̣n ngổn ngang gạch vỡ. Thành Bàn Cờ hợp với
thành ḥn Yàng và lũy Cổ Lũy thành hệ thống pḥng thành, bảo vệ
thành Châu Sa (phía tả ngạn sông Trà Khúc), nên thường được các
nhà chuyên môn gọi chung là hệ thống pḥng thành Cổ Lũy.
Cũng tại khu vực Cổ Lũy – Phú Thọ, các nhà khảo cổ học đă phát
hiện nhiều di tích thời tiền Champa, có niên đại từ thế kỷ III
đến thế kỷ VII. Năm 2004, một cuộc khai quật đă được tiến hành.
Trong hố khai quật hiện rơ các chân móng cột nhà lớn, có gia hạ
bằng gạch vỡ và đá cuội. Hiện vật t́m thấy gồm các vật liệu kiến
trúc (ngói ḷng máng, gạch, chóp nóc...) và đồ gia dụng (nồi, hũ
kendi, chân đèn, bát...) . Các nhà nghiên cứu cho rằng, vật liệu
kiến trúc ở đây (ngói ḷng máng, đầu ngói ống trang trí mặt hề,
chóp búp sen..) khá giống với các vật liệu tương tự ở Trà Kiệu,
Thành Hồ...
Núi Phú Thọ, thành Bàn Cờ, thành Ḥn Yàng c̣n gắn với nhiều giai
thoại kỳ thú. Chuyện rằng, vào những đêm trăng thanh vắng, các
nàng tiên trên thượng giới thường bay xuống thành Bàn Cờ mà ngắm
cảnh, đùa trăng. C̣n ở thành ḥn Yàng thi thoảng lại thấy “vàng
Hời” chấp chới trong đêm như thể ma trơi.
Năm 1903, sau chuyến đi chầu hầu sang Pháp, Nguyễn Thân (1853 –
1914) xin về trí sỹ, bỏ quê cũ ở Thạch Trụ (Mộ Đức), chiếm cứ cả
núi Phú Thọ và nhiều đất đai quanh vùng, xây dựng dinh cơ, đ́nh
tạ, đưa cả gia đ́nh đến đây sinh sống, thỏa ḷng dạ ham muốn
công danh của một kẻ bán nước cầu vinh. Năm 1908, phong trào
kháng thuế cự sưu của những người dân cùng khổ bùng lên dữ dội ở
Quảng Nam, Quảng Ngăi.
-
- Ngày
31 tháng 3 năm đó, hàng ngàn nông dân từ khắp 6 phủ, huyện kéo
về tỉnh thành, rồi tràn xuống Phú Thọ mạt sát và phá nhà Nguyễn
Thân. Trần Gia Phụng trong cuốn Trung kỳ dân biến 1908 (Toronto,
Canada, 1996) thuật lại: “Dân chúng làm đơn kể tội Nguyễn Thân
tức là Quận công Thạch Tŕ” và rồi “Ngày 14/7, cuộc biểu t́nh
đẫm máu ác liệt diễn ra do việc phá nhà Nguyễn Thân. Lúc ấy, tuy
đă hưu trí nhưng uy danh Thân vẫn c̣n, thế mà cử nhân Lê Đ́nh
Cẩn không kiêng nể ǵ, công khai đả kích ông ta. Đoàn biểu t́nh
bắt trói một toán lính khố xanh, hai viên đội lính dơng, một
viên lư trưởng khi nhóm nầy định đến bảo vệ gia đ́nh Nguyễn Thân”.
Trần Gia Phụng cũng cho biết, chính tại dinh cơ Phú Thọ, Nguyễn
Thân đă siểm tấu với viên công sứ Pháp bắt giam và sau đó giết
hại các nhà yêu nước Nguyễn Bá Loan, Lê Tựu Khiết.
Năm 1908, Nguyễn Thân và quan thầy với súng ống, gông cùm đă
giành phần thắng trước những người nghèo khổ không một tấc sắt
trong tay. Nhưng sự thể của gần 40 năm sau th́ khác. Cuộc vùng
dậy dữ dội và quyết liệt tháng 8 năm 1945 đă quật nhào bộ máy
thống trị thực dân - phong kiến ở Quảng Ngăi và khắp cả nước.
Trong cơn phẫn uất, người dân quanh vùng đă đập phá toàn bộ dinh
cơ của Nguyễn Thân trên núi Phú Thọ. Kể cũng đáng tiếc cho một
lâu đài, mà theo nhiều tài liệu c̣n để lại, là khá đẹp. Nhưng
cuộc cách mạng nào mà chẳng có những cơn giận giữ bộc phát của
người dân. Hơn thế nữa, khi cái lâu đài kia lại gắn với một kẻ
gian hùng tột bật, bàn tay đẫm bao nhiêu là máu của các nhà yêu
nước và nghĩa sỹ cần vương.
Năm tháng đi qua, mặc cho những đổi thay nhân thế, núi Phú Thọ
vẫn sừng sững trấn giữ một vùng hải khẩu; thôn Cổ Lũy vẫn c̣n đó
dáng vẻ tịch mịch, u trầm của một làng quê trước biển sau sông
đă đi vào tâm khảm bao thế hệ người Quảng Ngăi.
Núi Phú Thọ và Cổ Lũy cô thôn đă được Bộ Văn hóa, Thông tin và
Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là
Di tích lịch sử văn hóa quốc gia, tại Quyết định số 43- QĐ/VH
ngày 7/1/1993.
Mỹ Yên Đông, 30/7/2012
Lê
Hồng Khánh
Nguồn: quangngai.com.vn |