|
Quảng
Ngãi
Đất Quảng Ngãi,
xưa thuộc bộ Việt Thượng, một trong 15 bộ của nước Văn Lang.
Đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc quận Nhật Nam. Cuối
đời Hán bị quân Lâm Ấp chiếm, đời Tuỳ bình định quân Lâm Ấp
thuộc về Hồng Châu, sau đổi thành quận Hải Ân. Đời Đường
thuộc Sơn Châu, đời Tống thuộc Cổ Lũy Động của Chiêm Thành.
Năm Nhâm Ngọ
1402, Hồ Quý Ly sai tướng Đỗ Mẫn mang quân chinh phạt Chiêm
Thành. Vua Chiêm là Ba Dịch Lai phải nhường Chiêm Động (Quảng
Nam) và Cổ Lũy Động (Quảng Ngãi). Hồ Quý Ly chia đất này
thành bốn châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt lộ Thăng Hoa cai
quản bốn châu. Thời Minh thuộc (1414-1427), bốn châu lại bị
mất về Chiêm Thành. Năm Tân Mão 1471, vua Lê Thánh Tôn xuống
chiếu thân chinh, quân Chiêm phải rút lui về cố thủ tại Trà
Bàn. Vua Lê ra lệnh vây hãm cửa Thị Nại, ngày 26 tháng 2 Âm
Lịch, vây Trà Bàn và bắt được vua Chiêm. Tháng 6, vua Lê
Thánh Tôn lấy đất vừa chiếm đặt là Thừa Tuyên Quảng Nam,
thống lĩnh ba phủ, chín huyện: Bình Sơn, Mộ Hóa(Mộ Đức ngày
nay). Năm 1558, chúa Nguyễn Hoàng đổi thành Quảng Nghĩa phủ
nhưng cũng thuộc Quảng Nam dinh.
Đời nhà Nguyễn
Tây Sơn (1788-1802) cải Quảng Nghĩa thành Hóa Nghĩa phủ.
Năm1802, Gia Long đặt Quảng Nghĩa dinh rồi đổi Quảng Nghĩa
trấn vào năm 1808. Đời Minh Mạng đặt là tỉnh Quảng Nghĩa vào
năm 1834.
Thời Pháp
thuộc, con dân Quảng Ngãi đứng lên kháng chiến. Anh Hùng
Trương Công Định (người làng Tư Cung, xã Sơn Mỹ, quận Sơn
Tịnh) dựng cờ khởi nghĩa, đánh quân Pháp khắp các tỉnh miền
Nam, từ Biên Hòa, Cần Giuộc đến Tân An, Mỹ Tho. Con ông là
Trương quangngaiä cũng nối chí cha. Ngày 1 tháng 6 Ất Dậu
(1885), 2 vị anh hùng lãnh đạo phong trào Cần Vương tại
Quảng Ngãi là Lê Trung Đình (người xã Sơn Long, quận Sơn
Tịnh) và Nguyễn Tự Tân (người xã Trung Sơn, quận Bình Sơn)
từ chiến khu Truyền Trung (Bình Sơn) chia quân làm 3 đội,
vượt sông Trà Khúc kéo quân về chiếm tỉnh lỵ ngay đêm
hôm ấy, khi thế quân dân rất hăng. Ngày 5 tháng 6 Âm lịch,
quân Pháp phản công mạnh, anh hùng Nguyễn Tự Tân hy sinh,
còn anh hùng Lê Trung Đình bị bắt rồi bị chém trong thành
phía Bắc Quảng Ngãi.
Tháng 6/1886,
Nghĩa Hội Quảng Nam thống hợp với các tổ chức Cần Vương ở
Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định, mang quân chia hai ngã
thủy bộ đánh chiếm quận Bình Sơn, thắng một trận vẻ vang. Từ
năm 1903 đến 1907, đồng bào thượng Hré nổi dậy, phối hợp với
quân Cần Vương, đánh nhiều trận kịch liệt với quân Pháp ở
Mang Gia, Nước Vo, thung lũng sông nước Dinh. Đến tháng
9/1911, Tổng Ren chỉ huy nghĩa quân Hré làm giặc khốn đốn ở
vùng Đồng Mít và
đồn
Đức Phổ. Đầu năm 1908, các anh hùng Nguyễn Thụy (người xã Tư
Nguyên, quận Tư Nghĩa), Nguyễn Bá Loan (người quận Mộ Đức)
và Lê Khiết (người quận Tư Nghĩa) đứng lên vận động phong
trào kháng Pháp dưới chiêu bài chống sưu tquangngaiá và bắt
đi phu. Hàng ngàn người biểu tình vây các công sở giặc. Thực
dân dùng vũ khí đàn
áp thẳng tay, bắt và giết nhiều người. Hai anh hùng Lê Khiết,
Lê Bá Loan bị thực dân xử tử. Anh Hùng Nguyễn Thụy bị đày
đi Côn Đảo, được thả vào năm 1916, ông lại cùng các anh hùng
Lê Ngung (người quận Tư Nghĩa), Lê Triết, Trần Cao Vân, Thái
Phiên thuộc Việt Nam Quang Phục Hội tổ chức khởi nghĩa ở các
tỉnh miền Trung với sự tham dự của vua Duy Tân. Nhưng đại sự
không thành, hầu hết các yếu nhân ở Quảng Ngãi bị bắt. Anh
Hùng Lê Ngung uống thuốc độc tự tử, chết trong tù, nhưng
giặc Pháp vẫn không tha, đem xác ông chém cùng với các anh
hùng Nguyễn Thụy và 12 chiến hữu khác, rồi đem bêu đầu ông
ở làng Cam Lộ.
Đất Quảng Ngãi,
xưa thuộc bộ Việt Thượng, một trong 15 bộ của nước Văn Lang.
Đời Tần thuộc Tượng Quận, đời Hán thuộc quận Nhật Nam. Cuối
đời Hán bị quân Lâm Ấp chiếm, đời Tuỳ bình định quân Lâm Ấp
thuộc về Hồng Châu, sau đổi thành quận Hải Ân. Đời Đường
thuộc Sơn Châu, đời Tống thuộc Cổ Lũy Động của Chiêm Thành.
Xe Nước
Chuyện xe nước ở làng Bồ Đề
Ngày nay những xe nước nổi tiếng một thời ở tỉnh Quảng Ngãi đã hoàn toàn vắng
bóng, nhưng trong ký ức của những người đứng tuổi, xe nước vẫn là một hoài niệm
đẹp. Xe nước đã đi vào thi ca, nhạc hoạ. Xe nước càng đẹp khi ta hiểu rằng nó đã
gắn với sự sống của người dân Quảng Ngãi hàng trăm năm, thậm chí vài ba trăm năm.
Cứ thử hỏi, trong suốt mấy trăm năm đó, không có những xe nước, thì các cánh
đồng, làng mạc ở Quảng Ngãi sẽ ra sao ?
Những bờ xe nước đặt trên sông Vệ và sông Trà Khúc không chỉ gắn liền với cuộc
sinh tồn của người dân địa phương mà nó còn làm cho những khách phương xa có ấn
tượng rất mạnh. Và cũng như người Việt ta, câu hỏi đầu tiên đối với du khách
luôn là: Xe nước do người địa phương tự sáng chế hay được du nhập từ đâu tới ?
Đó cũng là câu hỏi của chủ sự hành chính Pháp ở Quảng Ngãi La Borte, và ông đã
tìm câu trả lời từ dân gian: Đó là “lão Thêm” đã sáng chế. Lão Thêm ở làng Bồ Đề,
nay thuộc xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, với những sáng chế bờ xe nước lão được Tây
Sơn vương Nguyễn Nhạc châu phê vào “chính chấp bằng” năm 1790. Hiển nhiên điều
này chưa thật chắc chắn.
Người ta nói nhiều về các bờ xe nước trên sông Trà Khúc là có lí, vì chính ở
sông Trà Khúc các bờ xe nước có quy mô rất lớn rất ấn tượng. Nhưng có lẽ cũng
không nên quên rằng những bờ xe nước trên sông Vệ, nhất là chuyện về xe nước ở
làng Bồ Đề cũng hết sức thú vị.
Từ sách “Đại Nam thực lục “ do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, ta được biết
vào năm 1874, vua Tự Đức đã quyết định đã quyết định cho làng Bồ Đề được vay 500
quan kẽm để dựng đặt xe nước. Có lẽ đó cũng là kết quả của 4 năm trước đó, năm
1870, quan Bố Chánh Quảng Ngãi là Nguyễn Thông từng có sớ tâu xin vua cho Bồ Đề,
Năng An và các làng lân cận được miễn thuế “biệt nạp” 80 quan đánh vào bờ xe
nước. Lý lẽ của Nguyễn Thông như sau :
“Lại xét rằng hạt của thần, thuế biệt nạp chỉ có thôn Đông Dương xã Văn Lâm – xã
Long Phụng, thôn Phước Lộc – xã Bồ Đề, xã Năng An phải nộp thuế guồng nước đằng
viên hơn 80 quan. Song nghề nông không gì cần bằng nước, việc đắp đập khơi ngòi
là làm lợi cho dân, dù cho tiêu tốn công quỹ triều đình cũng không tiếc, huống
chi kẻ tiểu nhân tự lo lấy mà lại theo bắt nộp thuế sao ?” .
Vua Tự Đức đã cho miễn thuế .
Xe nước làng Bồ Đề đã tồn tại một thời gian dài cùng với hàng trăm bờ xe nước ở
Quảng Ngãi.Theo Nguyễn Bá Trác trong “Quảng Ngãi tỉnh chí" thì năm 1932, toàn
tỉnh Quảng Ngãi có 96 xe nước, riêng ở Mộ Đức, các làng Long Phụng, Nghĩa Lập,
Bồ Đề có 25 guồng xe trên sông Vệ .
Trong kháng chiến chống Pháp, mặc dù bị giặc Pháp đánh phá, oanh tạc nhưng Bồ Đề
và Năng An (xã Đức Nhuận ngày nay) vẫn được dựng 7 guồng xe nước. Từ Bình Sơn,
do khó khăn về nước tưới, người dân cũng được cử vào đây để học cách dựng guồng
xe nước về dựng trên sông Trà Bồng.
Thật là những chuyện đáng tự hào về sự sáng tạo của cha ông ta thưở trước.
Minh Tuệ
|