Từ
Thuận Hóa Đến HuếNhă Nam
(November 3, 2013)
Phải chăng sự h́nh thành của Huế là do
tiền định và chính duyên t́nh này đă
khiến Huế phải chứng kiến cảnh can qua
của vận nước nổi trôi của dân tộc và để
rồi trở thành Đế đô của nhà Nguyễn cũng
là triều đại cuối cùng chấm dứt chế độ
quân chủ phong kiến kéo đă kéo dài hơn
ngàn năm của Việt Nam.
Khởi đi từ năm Tân Sửu (1301), Thái
Thượng Hoàng Trần Nhân Tông sang du lịch
Chiêm Thành gặp vua Chiêm là Chế Mân, và
dịp này ngài đă hứa gả Huyền Trân công
chúa cho Chế Mân. Không lâu sau đó, Chế
Mân cho sứ mang vàng bạc và các quư vật
sang cống cùng xin cưới nhưng đa số
người trong triều không ai đồng ư cho
cuộc hôn nhân Việt-Chiêm này. V́ thế Chế
Mân phải xin dâng hai châu Ô và châu Lư
(hay Rư) để làm lễ cưới do đó vua Trần
Anh Tông mới chấp thuận gả em gái ḿnh
là Huyền Trân cho vua chiêm.
Năm Bính Ngọ (1306) Huyền Trân công chúa
theo chồng về Chiêm th́ năm Đinh Mùi
(1037), vua Trần Anh Tông sáp nhập hai
châu Ô và châu Lư vào đất Đại Việt dưới
hai tên mới là Thuận Châu và Hóa Châu để
rồi sau này trở thành Thuận Hóa.
Thuận Hóa dưới triều Trần thường bị quân
Chiêm sang quấy nhiễu nên chỉ là vùng
đất rộng, người thưa và Thuận Hóa chỉ
trở nên quan trọng khi có sự thiên di
của chúa Nguyễn Hoàng.
Thái úy Đoan Quốc Công Nguyễn Ḥang là
con thứ của tướng Nguyễn Kim. Tướng
Nguyễn Kim là người đă chiêu binh măi mă
khởi nghĩa để phù Lê diệt Mạc, chiếm
được Thanh Hóa, Nghệ An rồi đem quân ra
đánh Sơn Nam bị hàng tướng Mạc là Dương
Chấp Nhất đầu độc chết nhưng lúc đó hai
con ông Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng c̣n
nhỏ v́ vậy quyền bính rơi vào tay con rễ
Trịnh Kiểm.
Để tránh bị mưu hại như anh ḿnh, Lang
Quận Công Nguyễn Uông Nguyễn Hoàng sau
khi vấn kế và được cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm
chỉ ḥn giả sơn với đàn kiến đang ḅ lên
ngọn núi và nói: Hoành Sơn nhất đái, Vạn
đại dung thân.
Do nhân việc quân Chiêm thường hay quấy
rối Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đă nhờ chị
là bà Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm xin vào
trấn thủ đất Thuận Hóa. Trịnh Kiểm chấp
thuận nên cuối năm Mậu Ngọ (1558),
Nguyễn Hoàng mang theo một số bà con, họ
hàng và binh sĩ vốn quê ở Thanh-Nghệ vào
lập nghiệp tại đất Thuận Hóa.
V́ luôn nuôi mộng nắm lại quyền bính lư
ra thuộc ḍng họ ḿnh nhưng đang trong
tay họ Trịnh nên khi vừa đến Thuận Hóa,
Nguyễn Hoàng khởi công khai hoang, lập
ấp. Chẳng bao lâu Thuận Hóa trở thành
vùng đất trù phú, dân cư đông đúc và
thường được nhiều người nhắc nhở và biết
đến. Chính cự nhắc nhở này đă biến từ
“Thuận Hóa” qua thời gian đă trở thành
từ “Thành Hóa” và rồi từ “Thành Hóa” lại
mất đi chữ “Thành” để chỉ c̣n lại chữ
“Hóa” và cuối cùng từ “Hóa” theo năm
tháng do sự phát âm trại đi đă biến
thành từ Huế như hôm nay.
Vào giữa thế kỷ thứ 18, v́ mộng tranh bá
đồ vương, sông Gianh trở thành đường
biên giới thiên nhiên giữa họ Trịnh (Bắc
Hà) và họ Nguyễn (Nam Hà). Năm Giáp Tư
(1744), dưới thời Vũ Vương Nguyễn Phúc
Khoát, Nam Hà cải tổ lại hệ thống hành
chánh nên Huế thuộc về chính dinh (Thủ
phủ) với tên là Phú Xuân. Phú Xuân chẳng
những là khu đông dân cư, kinh tế dồi
dào mà c̣n là cứ điểm chiến lược quan
trọng của thời bây giờ như, các Chúa
Nguyễn, từ thời Nguyễn Hoàng trở đi, đă
xử dụng Phú Xuân như là căn cứ địa để mở
rộng bờ cơi về phương Nam và đương đầu
với họ Trịnh ở phương Bắc trong thời kỳ
Trịnh-Nguyễn phân tranh và cũng như
Nguyễn Huệ sau khi được Nguyễn Nhạc sắc
phong Bắc b́nh Vương đă từ Phú xuân xuất
quân ra Bắc Hà để phù Lê diệt Trịnh và
đồng thời cũng để dẹp các loạn tướng
Nguyễn Hữu chỉnh và Vũ Văn Nhậm.
Chính tại Phú Xuân, thể theo lời yêu cầu
của các tướng sĩ, Bắc B́nh Vương Nguyễn
Huệ đă cho đắp đàn Giao, phía Nam núi
Ngự B́nh để tế trời, đất và làm lễ đăng
quang lên ngôi Hoàng Đế. Mùa xuân năm Kỷ
Dậu (1789) Quang Trung mang quân ra Bắc
đă tạo nên một chiến thắng lẫy lừng
trong cuộc chiến thần tốc 7 ngày đánh
tan hai mươi vạn quân xâm lược Thanh
dưới sự thống lănh của Tôn Sĩ Nghị. Và
cuối cùng, sau khi thống nhất san hà vua
Gia Long lên ngôi th́ Phú Xuân, Huế, đă
trở thành kinh đô của cả nước.
Nếu Huế đă từng nỗi danh là căn cứ địa
của thời quá khứ, th́ nay Huế lại càng
nỗi tiếng hơn về những danh lam thắng
cảnh với vẻ nên thơ, buồn nhưng hữu t́nh
của sông Hương, núi Ngự, của chùa Thiên
Mụ, của thôn Vỹ dạ, của dốc Nam Giao……
Do đó ca dao cũng như các văn, thi sĩ đă
không ngớt lời ca ngợi khi nhắc nhở về
xứ Huế đă làm chạnh ḷng không ít cho
những người con Huế khi đang phải xa xứ.
Xứ Thừa Thiên trai hiền, gái lịch
Non xanh, nước biếc điện ngọc đầu rồng
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Ṭa…..
Cầu Trường Tiền sáu nhịp bắc qua
Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ đợi khách âu
ca thái b́nh
(ca dao)
Núi Ngự B́nh trước tṛn sao méo,
Sông An Cựu nắng đục mưa trong.
(ca dao)
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nh́n nắng hàng cau nắng mới lên
……………………………………
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết t́nh ai có đậm đà
(Thơ Hàn Mặc Tử)
Huế ơi mộng tới đường trường
Kim Luông Vỹ Dạ ḍng Hương có c̣n
…………………………………………
Huế chừ cách mấy triệu O
Mưa qua cửa Thượng chiều co bến thừa
(Thơ Hoàng Xuân Sơn)
Ở đây có nước sông Hương
Có cây núi Ngự, có đường Nam Giao
B́nh bồng sáu nhịp cầu cao
Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xinh
(Thơ Nguyễn Bính)
Nhă Nam