http://www.ugvf.org/TaiLieu/VHNT/NguyenCongTru.htm
								
 
									Nguyễn Công Trứ
									
								
								
								Nguyễn Công Trứ (1778 - 1859), tự Tồn Chất biệt 
								hiệu Hy Văn, nguyên quán ở làng Uy Viễn, huyện 
								Nghi Xuân, trấn Nghệ An (nay thuộc tỉnh Nghệ 
								An), song ông được sinh tại xă Địa Linh, huyện 
								Quỳnh Côi, Thái B́nh. Ông xuất thân trong gia 
								đ́nh quan lại, có truyền thống văn thơ. Cha ông 
								là Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn. Mẹ là ái nữ của 
								quan Quản nội thị Cảnh Bá Nhạc ở Sơn Nam. Chị là 
								Năng văn nữ sĩ rất giỏi văn thơ, từng được vua 
								Minh Mạng ban 4 chữ "tiết hạnh khả phong".
								
								Tuy xuất thân từ ḍng dơi thế phiệt nhưng Nguyễn 
								Công Trứ phải sống trong cảnh hàn vi v́ gia sản 
								bị chiến tranh tàn phá. Từ nhỏ, ông đă có chí 
								học hành mong giúp dân, giúp nước.
								
								Tương truyền rằng, một lần có việc đi xa, trời 
								rét. Nguyễn Công Trứ vào quán nước bên đường 
								nghỉ chân. Gặp lúc đại binh của Tả quân Lê Văn 
								Duyệt đi tập về, mọi người sợ hăi nép vào một 
								góc, riêng ông vẫn đắp chiếu nằm trên ổ rơm ngủ. 
								Quân lính đánh thức ông dậy, Lê Văn Duyệt thấy 
								ông là học tṛ nho nhă, liền bảo Nguyễn Công Trứ 
								thử vịnh cảnh "nằm ổ rơm đắp chiếu", nếu hay sẽ 
								được tha. Ông ứng khẩu đọc.
								
								"Ba vạn anh hùng đè xuống dưới
								Chín lần thiên tử dội lên trên"
								
								(ư chỉ rơm là "anh hùng rơm", chiếu ví với chiếu 
								chỉ của vua). Lê Văn Duyệt khen hay, thưởng tiền 
								và thả cho.
								
								Năm Gia Long ra Bắc thành (1804) có trú lại Nghệ 
								An ít ngày. Nguyễn Công Trứ đến bái yết và dâng 
								lên vua tập Thái B́nh thập sách (Mười kế sách 
								giữ nước nhà thái b́nh) của ḿnh soạn, đề cập 
								đến vấn đề phát triển nông nghiệp để phục hưng 
								kinh tế. Theo ông "muốn an định xă hội và đưa 
								đời sống dân lên một hoàn cảnh tốt đẹp và cao cả 
								hơn th́ phải phát triển nghề nông, lấy nông 
								nghiệp và kinh tế làm căn bản (canh nông vi bản).
								
								Măi đến năm 41 tuổi (1819), Nguyễn Công Trứ mới 
								đậu Giải nguyên kỳ thi Hương và làm quan liên 
								tiếp ba đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. 
								Năm 1827, Nguyễn Công Trứ nhận lệnh cùng Thống 
								quản Phạm Văn Ly cầm quân trấn áp cuộc nổi dậy 
								của Phan Bá Vành. Từ dó Nguyễn Công Trứ mới thấy 
								miền duyên hải Ninh B́nh, Nam Định, Hải Dương có 
								nhiều đất ph́ nhiêu bỏ hoang bèn nghĩ ra kế 
								hoạch khẩn hoang vùng đất này. Năm 1828 Nguyễn 
								Công Trứ được thăng H́nh bộ thị lang (trông coi 
								việc h́nh án ở dinh Tổng trấn Bắc thành) kiêm 
								doanh Điện sứ. Nguyễn Công Trứ đi kinh lư khắp 
								băi bồi duyên hải, từ vẽ bản đồ, phát trâu ḅ, 
								nông cụ cho dân để khẩn hoang. Chỉ trong 2 năm, 
								Nguyễn Công Trứ lập ra hai huyện Tiền Hải (Thái 
								B́nh) và Kim Sơn (Ninh B́nh) cùng hai tổng Hoàng 
								Thu và Minh Nhất (ven bờ biển Thái B́nh, Ninh 
								B́nh), khai khẩn được 33.570 ha đất. Năm 1852 
								đời Tự Đức thứ 5, nhân dân ở hai huyện Kim Sơn 
								và Tiền Hải cùng nhau xây dựng sinh từ, thờ 
								Nguyễn Công Trứ ngay lúc ông c̣n sống (75 tuổi).
								
								Năm 1832, lúc Nguyễn Công Trứ làm Bố chánh rồi 
								Tổng đốc Hải Yên (Hải Dương, Quảng Yên), ông 
								tiếp tục khẩn hoang được 3.500 ha ven biển ở đây. 
								Sau đó, năm 1838 - 1839, Nguyễn Công Trứ c̣n 
								chiêu dụ được người Hoa để khai khẩn trên 700 
								ha, lập thành làng Hưng Hóa. Năm 1833, Nguyễn 
								Công Trứ làm Tham tán quân vụ đi trấn áp cuộc 
								nổi dậy của Nông Văn Vận suốt 2 năm mới xong và 
								được phong Binh bộ thượng thư và vẫn ở Hải Yên 
								làm Tổng đốc. Sau v́ để xổng một trọng tù, 
								Nguyễn Công Trứ bị giáng bốn cấp, đổi về kinh. 
								Năm 1840 ông làm Đô ngự sử, chủ khảo trường thi 
								Hà Nội. Sau đó lại cùng Nguyễn Tri Phương, Phạm 
								Văn Điễn dẹp tan cuộc xâm nhập lănh thổ Việt Nam 
								của quân Xiêm, kế đó Nguyễn Công Trứ cùng Doăn 
								Uẩn đánh tan liên quân Xiêm - Chân Lạp. 
Năm 
								1843 vừa được thăng Binh bộ Tham tri ông bị vu 
								cáo, triều đ́nh cách hết chức tước, phát đi làm 
								lính biên thùy ở Quảng Ngăi. Đến năm 1845, 
								Nguyễn Công Trứ mới được bổ làm Chủ sự Bộ H́nh ở 
								kinh đô, rồi quyền án sát Quảng Ngăi, dần 
								dần đổi về làm Phủ thừa Thừa Thiên và 1847 làm 
								Phủ Doăn Thừa Thiên. Trong 28 năm làm quan, 
								Nguyễn Công Trứ bị giáng chức và cách chức đến 5 
								lần, nặng nhất là lần bị tước hết chức làm lính 
								thú, nhưng lúc nào cũng giữ được chí khí.
								
								Năm Tự Đức nguyên niên (1848), Nguyễn Công Trứ 
								tṛn 70 tuổi, xin về hưu, sống ở quê nhà đến khi 
								mất (1859).
								
								Nguyễn Công Trứ sáng tác rất nhiều, hầu hết bằng 
								chữ Nôm, nhưng phần lớn đă bị thất lạc, hiện chỉ 
								c̣n khoảng 150 bài gồm đủ các thể loại, nhưng 
								nhiều nhất và thành công nhất là những bài thuộc 
								thể hát nói. Thơ văn của ông ca tụng chí làm 
								trai và công danh, vai tṛ nhà nho và đặc biệt 
								ca ngợi con người hành động, nhập thế, con người 
								trung hiếu:
								
								"Đă mang tiếng ở trong trời đất
								Phải có danh ǵ với núi sông..."
								(Đi thi tự Vịnh)
								
								Năm 1858 thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, lúc đó 
								dù đă 80 tuổi ông vẫn xin vua Tự Đức đi ṭng 
								quân: "Thân già này c̣n thở ngày nào xin hiến 
								dâng cho nước ngày ấy". Nhưng sau đó không lâu, 
								vào ngày 14-11 năm Mậu Ngọ (1859) ông từ trần.