|
- RẠCH GIÁ - HÀ TIÊN
-
-
Nguyễn Thanh Liêm
-
- Tổng Quát:
-
Tỉnh Kiên Giang (Rạch Giá) là tỉnh ở về phía cuối Miền Tây Nam nước
Việt, cách Sài G̣n 250 km (156 miles). Về phía Đông và Đông Nam,
Kiên Giang giáp với các tỉnh An Giang và Cần Thơ, về phía Nam giáp
với Cà Mau, và về phía Bắc giáp với Kampuchia, với đường biên giới
chung dài 54 km. Phía Tây của Kiên Giang là Vịnh Thái Lan.
-
Với diện tích 6, 253 km vuông, và với dân số hơn 1 triệu 600 ngàn
người (2004), Kiên Giang hiện có 11 huyện là Hà Tiên, Ḥn Đất, Tân
Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng, G̣ Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh
Thuận, và hai huyện đảo là Phú Quốc và Kiên Hải. Kiên Giang có hai
thị xă là Rạch Giá và Hà Tiên.
-
Ba dân tộc sống ở đây là người Việt (người Kinh), người Miên (Khmer)
và người Hoa.
-
Kiên Giang, trong đất liền, có nhiều núi thấp như núi Đại Tô Châu
(cao 178 m, hay 234 ft), núi Ḥn Sóc (cao 187 m), núi Ḥn Đất (cao
260 m), núi Vân Sơn, núi Địa Tạng v v ... Trong Vịnh Thái Lan, Kiên
Giang có hơn 100 ḥn đảo lớn nhỏ như Ḥn Tre, ḥn Thổ Châu, ḥn
Chông, ḥn Rai, ḥn Mấu, ḥn Nam Du... Đảo Phú Quốc là đảo lớn nhất
với 566 km vuông, dài 50 km, ngang rộng nhất 29 km, trên đảo có dăy
núi Tà Lơn với những ngọn cao như Hàm Rồng (cao 365 m), núi Chúa
(cao 603 m), núi Mắt Quỷ (cao 360 m).
-
Kiên Giang có khu rừng ngập nước ở phía Nam là khu U Minh Thượng, có
nhiều sông và kinh rạch chằn chịt như sông Trèm Trẹm, sông Cái Lớn,
sông Cái Bé, kinh Hà Tiên, kinh Cái Sắn, kinh Tân Hiệp, kinh Ba Thê,
kinh Thốt Nốt, kinh Cán Gáo, rạch Giang Thành, rạch Sỏi, v. v... .
-
Những liên tỉnh lộ số 8 và số 12 là những trục giao thông quan trọng
nối liền Kiên Giang với các tỉnh khác. Có ba phi trường chính đặt ở
Hà Tiên, Rạch Giá, và Dương Đông (Phú Quốc).
-
Rạch Giá - Hà Tiên có nhiều danh lam thắng cảnh, có những di tích
lịch sử quan trọng, nhiều đền chùa nói lên sinh hoạt tôn giáo, tín
ngưởng đặc biệt của người dân ở đây, và nhất là „Chiêu Anh Các“,
thường được xem là trung tâm văn học ở Miền cực Nam nước Việt hồi
hơn thế kỷ trước. Trước khi đi vào chi tiết của những điều vừa nói,
chúng ta hăy đi ngược thời gian, trỡ về thuở xa xưa xem có những
giống người nào đă từng sinh sống trên vùng đất này.
-
Hà Tiên thời tiền sử
-
Các nhà khảo cổ học không hay chưa t́m được những di chỉ nào cho
thấy có sự hiện diện của con người sinh sống ở vùng này trong thời
gian trước văn hóa Óc Eo. Con người thời hái lượm , săn bắn không
sinh sống hoặc không có để lại dấu vết ở vùng này. Nhưng nếu nói
chung cho cả vùng Hậu Giang th́ theo Sơn Nam thổ dân thời tiền sử ở
đây có lẽ thuộc giống Indonesien (có bộ sọ người t́m thấy ở Vĩnh
Hưng, Bạc Liêu). Người Mon- Khmer tràn tới, xua các thổ dân này qua
miền Trung hoặc ra Nam Dương vào khoảng đầu thiên niên kỷ thứ nhất.
Riêng ở vùng Hà Tiên con người sớm nhất mà ngày nay các nhà khảo cổ
có được dấu vết là người Phù Nam và văn hóa Óc Eo của họ.
-
Những di chỉ khảo cổ t́m thấy ở Óc Eo do nhà khảo cổ Malleret của
Pháp khai quật hồi thập niên 1940 cho thấy nơi đây xưa kia là một
trung tâm, có thể là một đô thị vừa là một thương cảng quan trọng
của vương quốc Phù Nam. Óc Eo hiện nay nằm trong tỉnh An Giang, ở
chân núi Ba Thê, cách biển hơn 20 km. Địa bàn của vương quốc Phù Nam
trải rộng cả vùng Đồng Nai Cửu Long qua tận Kampuchia trong khoảng
thời gian từ thế kỷ I đến thế kỷ thứ VII của thiên niên kỷ thứ nhất.
Dấu tích của vương quốc Phù Nam không phải chỉ có ở Óc Eo mà c̣n
được t́m thấy ở nhiều nơi khác như Cạnh Đền (Kiên Giang), G̣ Tháp
(Đồng Tháp), G̣ Năm Tước, v v ... đến Đồng Nai, vùng Đông Nam Phần
theo các công cuộc khai quật gần đây. Theo Malleret th́ Óc Eo là một
đô thị rộng lớn, một thương cảng phồn vinh, một trung tâm kinh tế
sống động với mối giao thương Âu-Á khá rộng răi. Óc Eo cũng là một
đô thị tiêu biểu cho nền văn minh của một quốc gia cổ h́nh thành sớm
nhất ở Đông Nam Á.
-
Nhưng người Phù Nam là ai? Tên Phù Nam ở đâu mà có? Chữ Phù Nam là
chữ người ta t́m thấy trong thư tịch Trung Hoa. Tân Đường Thư ghi là
Trúc Chiên Đàn (vua Phù Nam) xưng vua, sai sứ sang cống voi đă thuần
dưỡng. Sách cũng ghi là họ (Phù Nam) có 5,000 voi chiến. Lương Thư
cũng có nói đến Phù Nam nhưng không sách nào nói rơ hơn về người Phù
Nam là người ǵ? George Coedès, trong quyển „The Indianized States
of Southeast Asia“ th́ chữ Phù Nam là chữ của người Trung Hoa phiên
âm từ tiếng b'iu-nâm, tức là tiếng Khmer cổ có nghĩa là „vua ở trên
núi“ (Khmer cổ là bnam, Khmer mới là phnom). Cũng theo Coedès th́
người Phù Nam có thể từ miềng Đông Nam Ấn Độ, hoặc từ bán đảo Mă Lai
hay từ các đảo trong châu đại dương. Trong quyển „The Making of
South East Asia“, Coedès có nói đến truyền thuyết Kaundinya (như một
tù trưởng) từ miền Nam Ấn Độ đến kết duyên cùng hoàng hậu Liễu Diệp
ở vùng hạ lưu sông Mêkông, lập nên nước Phù Nam. Kinh đô ở vùng Ba
Nam, thuộc tỉnh Preyveng ngày nay, cách biển 500 dặm.
-
Nhưng tại sao Phù Nam suy tàn và mất dấu vết từ thế kỷ thứ VII? th́
cho đến bây giờ không có tài liệu nào cho biết về việc này ngoài
những giả thuyết cho rằng là do một đại thiên tai nào như hồng thủy,
sóng thần, bệnh dịch đă tiêu diệt giống người này. Nhưng trên b́nh
diện trải rộng như các di chỉ khảo cổ cho thấy th́ không thể có
thiên tai nào có khả năng tiêu hủy cả vương quốc Phù Nam được. Có
giả thuyết cho là người Java đă tiêu diệt người Phù Nam, nhưng không
có dấu hiệu ǵ đáng tin cậy về sự việc này.
-
Đến cuối thế kỷ XIII, khoảng 1296 - 1297, sứ thần Trung Hoa là Châu
Đạt Quan đă đến vùng này nhưng lúc bấy giờ th́ vùng này đă thuộc về
Chân Lạp chớ không c̣n là Phù Nam nữa. Trên đường đi Chân Lạp, Châu
Đạt Quan có ghi nhận quang cảnh hoang vu vùng đồng bằng sông Cửu
Long như sau :
- „
... hầu hết các vùng đều là bụi rậm của khu rừng thấp, những cửa
rộng của con sông lớn chạy dài hằng trăm lư, bóng mát um tùm của
những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum xê.
Tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi. Vào nữa đường trong
cửa sông, người ta mới thấy lần đầu cánh đồng ruộng bỏ hoang, không
có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy. Hằng
trăm hằng ngàn trâu rừng tụ họp từng bầy trong vùng này. Tiếp đó,
nhiều con đường giốc đầy tre chạy dài hằng trăm lí.“ (Châu Đạt
Quan, Chân Lạp Phong Thổ Kư, Lê Hương. Sài G̣n: Kỷ Nguyên Mới, 1973,
tr. 80).
-
Thành ra trong thời gian từ thế kỷ VII cho đến thế kỷ XIII, nghĩa là
sau khi Phù Nam tan ră cho đến lúc Chân Lạp phồn thịnh lên, người ta
không t́m được những dấu vết ǵ có thể cho biết là dân tộc nào ngự
trị ở vùng này và dân tộc đó đă phát triển bành trướng hay suy tàn
như thế nào? Theo Charles Higham trong quyển „The Archaeology of
Mainland Southeast Asia“ (Cambridge University Press, 1989), tựa
trên những công tŕnh khai quật từ trước đến thập niên 1980 th́ từ
khoảng 10000 năm trước Chúa Giáng Sinh cho đến cuối thế kỷ XVI, cả
vùng Đông Nam Á (lục địa) đă trải qua nhiều thời kỳ lịch sử vơÙi
những h́nh trạng xă hội khác nhau: thời săn bắn hái lượm từ 10000 BC
đến 5000 BC; thời định cư ven biển từ 5000 BC đến 1500 BC.... thời
kỳ thành h́nh các mandalas ở Đông Nam Á từ 500 BC đến thế kỷ III; và
thời kỳ phát triển và chuyển biến của những mandalas từ thế kỷ III
đến thế kỷ XVI. Văn hóa Óc Eo và Angkor chỉ mới xuất hiện vào thời
kỳ cuối trong những thời kỳ ghi trên. Đây là thời kỳ tương ứng với
sự phát triển của các quốc gia cổ với chế độ xă hội gọi là „mandala“
(một loại chế độ vừa tôn giáo vừa phong kiến ở Đông Nam Á). Trước
khi có những mandalas th́ xă hội Đông Nam Á c̣n ở t́nh trạng bộ lạc
với các tù trưởng (chiefdoms). Phù Nam, Chân Lạp, Lâm Ấp là ba trong
5 hay 6 mandalas của vùng Đông Nam Á. Mỗi mandala bao gồm một khu
vực địa lư dưới sự thống trị, và làm chủ của một vị vương vừa như
nhà vua vừa là người được tôn sùng như một lănh tụ về tôn giáo.
Nhưng mandala không có biên giới nhất định; ranh giới của nó rất co
giản, nó thay đổi luôn (fluid) tùy theo sức ảnh hưởng của nhà vua
chủ nhân. Mandala chưa phải là một quốc gia, một nước có chủ quyền,
có quy luật truyền ngôi, có biên giới rơ rệt. Vương quốc Phù Nam chỉ
là một mandala và mandala này đă bị tan biến trong mandala Chân Lạp,
cũng như mandala Lâm Ấp sau này bị tan biến trong quốc gia Việt Nam
vậy.
-
Một giả thuyết gần đây lại cho rằng vùng Hà Tiên xưa kia là vùng đất
của người Việt cổ. Giả thuyết này tựa trên một số các địa danh mà
người Thái (Xiêm) và người Miên (Khmer) đă đặt ra cho những địa điểm
đó. Thí dụ núi Phù Dung có thể là do chữ Phù hay Phnom và Youn, có
nghĩa là Núi của người Việt. Ngay danh từ Hà Tiên, theo thuyết này,
cũng có thể là do chữ Tà Ten mà ra, Tà có nghĩa là núi và Ten là tên
con sông, theo tiếng Miên. Thuyết này bác bỏ truyền thuyết cho rằng
nơi đây xưa kia có tiên hiện xuống, đi lại trên sông nên gọi là Hà
Tiên (tiên hiện ra trên sông). Người chủ trương thuyết này là ông
Trương Minh Đạt. Trong quyển „Nhận Thức Mới về Đất Hà Tiên“, ông Đạt
viết:“ ...có thể nói được thời xa xưa, vùng đất Hà Tiên chính
thống là vùng đất Phù Dung (Phù Youn) của người Lạc Việt. Trong quá
tŕnh chung sống hội nhập, những người Việt đầu tiên đă trở thành
dân cư của Phù Nam, rồi họ tiếp nhận đợt sóng Khmer và Java sau
đó... . Vào các thế kỷ XVII, XVIII, người Việt Nam đă hoàn thành tốt
vai tṛ thống nhất lănh thổ xưa của tổ tiên. Cuộc thống nhất diễn ra
nhanh, chỉ do người Việt đă có mặt rải rác khắp nơi trên lănh thổ
phía Nam này.“ (tr. 28-29). Đây cũng chỉ là một giả thuyết c̣n
chờ đợi nhiều chứng liệu lịch sử nữa để có thể chứng giải được.
-
Giả thuyết khác nữa là giả thuyết của Hà Văn Thuỳ sau đây, tựa trên
những khám phá của nhà địa chất học H. Fontaine của Pháp. Từ cuối
Đại Trung Xinh (Pleistocene) đến đầu Đại Tân Xinh (Holocene), đại
khái từ khoảng 100000 đến 11000 năm trước, nước biển hạ thấp từ 100
đến 120 m, biển Đông khô cạn, chỉ c̣n là một vũng nhỏ, tạo điều kiện
cho động vật từ Châu Á tràn sang Châu Đại Dương, khiến cho hệ động
vật gần nhau giữa hai châu. Từ 10000 năm trước công nguyên trở lại
đây có nhiều lần (4 lần) biển tiến (dâng cao) và lùi (xuống thấp),
đặc biệt là trong hai lần tiến và lùi của biển lần thứ 3 và lần thứ
4 có mật thiết liên hệ tới sự thành h́nh và tan biến của vương quốc
Phù Nam. Trong lần nước biển lên cao lần thứ ba (200 năm BC đến 50
AD), nước biển ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đă ngăn chặn bước tiến
của các giống dân sống ở vùng Đồng Nai qua định cư ở vùng này. Rồi
khi nước lùi từ năm 50 đến thế kỷ thứ V, th́ người Mă Lai-Đa Đảo
(MalayoPolynésien) từ các đảo ngoài biển vào đây định cư làm thành
vương quốc Phù Nam với nền văn minh Óc Eo tiêu biểu của họ. Tiếp
theo đó trong lần dâng cao thứ tư kéo dài 800 năm từ năm 350 đến
1150, với điểm cao nhất vào khoảng năm 650, nước biển đă làm ngập cả
đồng bằng sông Cửu Long khiến không c̣n ai có thể sống được trong
vùng. Vương quốc Phù Nam tan rả, một phần của người Phù Nam lên miền
núi cao sinh sống, và phần khác trở về các đảo trong Châu Đại Dương.
Từ thế kỷ XII nước biển xuống thấp trở lại, ở mức b́nh thường như
ngày nay. Cũng từ đó nước Chân Lạp thành h́nh chiếm cả vùng đất Phù
Nam trước kia. Và ta có h́nh ảnh của vùng Đồng Bằng sông Cửu Long do
Châu Đạt Quan ghi lại hồi thế kỷ XIII như đă thấy trên.
-
Qua các giả thuyết cũng như các công tŕnh khai quật nói trên ta có
thể tạm kết luận là vùng Hà Tiên vào các thế kỷ đầu của thiên niên
kỷ thứ nhất thuộc vương quốc Phù Nam, và từ thế kỷ XIII cho đến thế
kỷ XVII thuộc Thủy Chân Lạp và từ thế kỷ XVIII trỡ đi thuộc Việt
Nam.
-
- Hà Tiên thành h́nh
-
Điều mà ngày nay chúng ta biết chắc nhất là Mạc Cửu đă đến khai phá
xây dựng đất Hà Tiên và dâng đất này cho Chúa Nguyễn. Việc dâng đất
xăy ra hồi nào th́ nhiều sách chép khác nhau. Có sách cho là năm
Giáp Ngọ (1714) nhưng nhiều sách ghi là năm Mậu Tư (1708). Theo ông
Trần Kinh Ḥa và một số các học giả khác th́ năm Mậu Tư (1708) có
thể đúng nhất. Nhưng Mạc Cửu là ai? và ông đă đến khai phá xây dựng
vùng Hà Tiên hồi nào trước khi dâng đất này cho Chúa Nguyễn? Và
trước khi Mạc Cửu đến khai phá th́ người Việt đă có ở đây chưa? Theo
nhiều học giả th́ vào thế kỷ XVI đă có người Việt đến sinh sống ở Hà
Tiên rồi. Những người này có thể là những tội nhân trốn chánh quyền
Đàng Trong hay là những người dân Miền Trung phiêu bạt từ bờ biển
Đông đến. Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức ghi là những
lưu dân người Việt đến ở những vị trí „sườn g̣ khởi phục, cây tốt,
suối trong“. Họ ở chung với người Miên (Khmer), trong những khu vực
sống trù mật. Sau đó người Hoa cũng đến đây làm ăn sinh sống. Như
vậy có thể người Việt đă có ở đây trước khi Mạc Cửu đến.
-
Mạc Cửu sinh ngày mùng 8 tháng 5 năm Ất Mùi (1665) tại xă Lê Quách,
huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa. Năm 1671
Mạc Cửu trốn tránh Nhà Thanh, đưa gia quyến và một số người di dân
xuống thuyền ra nước ngoài. Theo một số sử gia th́ ông đă qua các
nước Phi Luật Tân, Nam Dương rồi sau đó vào khoảng 1680 mới đến Chân
Lạp và được vua nước này dùng làm quản lư việc thương măi. Ít lâu
sau nhờ lo lót cho quyền thần và đám cung phi của vua, Mạc Cửu được
quốc vương Chân Lạp cho làm chức Ốc Nha. Trong chức vụ mới này, Mạc
Cửu chiêu dụ thương khách ngoại quốc cùng với nhiều người Việt,
người Hoa, người Khmer đến cư ngụ, làm ăn ở Mang Khảm, tức là Hà
Tiên sau này. Mang Khảm thuộc Thủy Chân lạp. [Nước Chân Lạp được
chia thành hai vùng: Thượng Chân Lạp hay Lục Chân Lạp là vùng đất
cao, chạy dài từ Biển Hồ đến Đồng Nai, và Thủy Chân Lạp là vùng đất
thấp hoang vu, ngập đầy nước ở miền Hậu Giang. Người Khmer thích ở
vùng cao, không thích ở vùng thấp]. Khi đến Mang Khảm Mạc Cửu cho mở
ṣng bạc, tiệm hút, và phát triển việc buôn bán, làm nên một thành
phố. Trước kia cũng đă có người ngoại quốc đến đây mua bán, nhưng
đến thời Mạc Cửu th́ việc giao thương buôn bán càng phát triển mạnh
hơn, tàu thuyền đi lại rộn rịp. Từ đó người Việt, người Đường, người
Liêu, người Man (Miên) kéo đến trú ngụ, làm ăn, hộ khẩu ngày càng
đông đúc.
-
Công cuộc phát triển ở Mang Khảm không tránh khỏi sự ḍm ngó của
Xiêm La. Trong những năm 1687-1688 quân Xiêm đánh chiếm Hà Tiên, Mạc
Cửu bị quân Xiêm bắt đem về Xiêm đến năm 1700 mới thả ra. Lúc này
t́nh h́nh Chân Lạp cũng rất rối ren v́ cuộc nội chiến và giặc giả
nổi lên cướp phá dữ dội ở nhiều nơi. Thấy thế lực của Chúa Nguyễn
đang lan ra mạnh mẽ về phương Nam, Mạc Cửu theo lời khuyên của mưu
sĩ họ Tô, cho thuộc hạ là Trương Cầu và Lư Xá mang ngọc lụa đến
Thuận Hóa vào mùa thu năm Mậu Tư (1708), dâng biểu xin dâng đất Hà
Tiên cho Chúa Nguyễn và xin làm Hà Tiên Trưởng. Chúa Nguyễn Phúc Chu
ban ấn tín, phong cho Mạc Cửu làm Tổng Trấn Hà Tiên, và Mang Khảm
trỡ thành Hà Tiên trấn. Hà Tiên Trấn gồm các ấp vừa thành lập từ
Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá đến Cà Mau.
-
-
- Hà Tiên phát triển và suy vi
-
Mạc Cửu mất năm 1735. Chúa Nguyễn Phúc Chu truy tặng Khai Trấn
Thượng Trụ Quốc, Đại Tướng Quân Vũ Nghị Công. Năm sau Chúa Nguyễn
sắc phong cho con trai của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tích làm Đô Đốc trấn
Hà Tiên. Dưới thời Mạc Thiên Tích, Hà Tiên càng phát triển mạnh hơn
nữa. Mạc Thiên Tích mở thêm các huyện Kiên Giang, Long Xuyên, Trấn
Di (Bạc Liêu), Trấn Giang (Cần Thơ), sáp nhập Kiên Giang và Long
Xuyên vào trấn Hà Tiên. Về phương diện thương mại Hà Tiên lúc này
hết sức phồn thịnh. „đường lối tiếp giáp, phố xá liền lạc, người
Việt, người Tàu, người Cao Miên, Đồ Bà đều theo chủng loại cư trú,
ghe thuyền ở sông biển qua lại nơi đây không dứt. Thật là một đại đô
hội ở nơi gốc biển vậy.“ (Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí).
Hầu hết các sản phẩm đưa đến Hà Tiên đều chịu thuế không đáng kể.
Nhờ vậy mà các sản phẩm như cá, khô, mật ong, sáp ong, gạo... trong
vùng đều đưa đến Hà Tiên ngày một nhiều. Các xứ như Vạn Tượng (Lào),
Chân Lạp cũng đưa ngà voi đến đây có đến hằng trăm tấn. Ngoài ra các
loại sản phẩm như lông chim ở rừng U Minh, trầm hương, hải sâm từ
Phú Quốc và các đảo khác cũng được đưa về đây.“ Nhưng đó chỉ là sự
phồn thịnh về thương măi mà thôi c̣n vềà nông nghiệp th́ rất thô sơ,
chưa có những phát triển ǵ đáng kể. Trong bài tựa Hà Tiên Thập Vịnh
Mạc Thiên Tích viết:“Từ khi tiên quân khai sáng đến nay đă hơn 30
năm mà dân mới được ở yên, hơi biết việc trồng trọt...“ Chung quanh
Hà Tiên vẫn c̣n là vùng hoang địa, bùn lầy nước đọng, cây cỏ um tùm,
nhiều muỗi và đỉa, trong sông có nhiều cá sấu, đất thường ẩm thấp,
phải xây gác cây để ở. Hà Tiên phải nhờ lúa gạo của hai đạo Long
Xuyên và Kiên Giang cung cấp. Cùng lúc với sự phồn thịnh về thương
mại, Hà Tiên cũng phát triển mạnh về văn hóa. Tao đàn Chiêu Anh Các
ra đời trong lúc này (1736). Chiêu Anh Các không những chỉ là tao
đàn để các nho sĩ xướng họa thi ca mà c̣n là trung tâm giáo dục miễn
phí, một nghĩa thục giúp các nhân tài và con nhà nghèo có nơi học
hỏi. Bên cạnh Chiêu Anh Các họ Mạc c̣n cho xây dựng văn miếu thờ
Khổng Tử, và xây cất nhiều chùa chiền.
-
Nhưng giặc Xiêm, giặc Miên và cướp biển cứ nối tiếp nhau đến đây tàn
phá, thêm vào đó c̣n có cuộc nội chiến giữa Chúa Nguyễn và Nhà Tây
Sơn làm cho t́nh thế của Hà Tiên càng chông chênh, bất ổn. Con cháu
Mạc Thiên Tích không giữ nổi sự nghiệp của cha ông, Hà Tiên bắt đầu
đi xuống từ giữa thập niên 1770. Dù sao th́ đối với nhà Nguyễn ba
người có công lớn trong ḍng họ Mạc ở Hà Tiên là Mạc Cửu, Mạc Thiên
Tích và Mạc Tử Sanh. Và trong ba người này, giỏi nhất là Mạc Thiên
Tích.
-
Đời Mạc Thiên Tích, Rạch Giá và Cà Mau được thiết lập thành đạo Kiên
Giang và Long Xuyên, đồn lủy được dựng lên. Hai nơi này dần dần trỡ
nên quan trọng về mặt kinh tế nhờ sản xuất nhiều cá, mật và sáp ong,
lông chim và lúa gạo. Kiên Giang là bàn đạp vững chắc cho người dân
Việt tiến sang bờ sông Ba Thắc. Các con sông Cái Lớn, Cái Bé nối qua
rạch Ba Láng, Ô Môn được thám hiểm. Sau cuộc chiếm đóng Hà Tiên của
quân Xiêm hồi đầu thập niên 1770, Mạc Thiên Tích phải ngụ tại Kiên
Giang để cho con trai về chỉnh đốn Hà Tiên. Trong các thập niên 1770
và 1780, Rạch Giá - Cà Mau đă cung ứng cho Nguyễn Ánh vùng địa thế
hiểm yếu để dung thân trước sự lùng bắt gắt gao của Tây Sơn. Với hệ
thống sông rạch như mạng nhện thông thương lẫn nhau, với rừng tràm
dày bịt, ăn sâu vào U Minh Thượng và U Minh Hạ, Nguyễn Ánh dễ đi về
liên tiếp trong những năm 1777, 1782, 1783, 1784, 1787 ... Nhiều nền
nhà hiện c̣n dấu vết ở Cạnh Đền, Cây Bàng là những nơi quân Nguyễn
Ánh đồn trú. Một số dân Rạch Giá - Cà Mau đă sung vào quân đội của
Nguyễn Ánh. Từ ngày Gia Long thống nhất đất nước, Rạch Giá - Cà Mau
càng trỡ nên trù phú. Chợ Rạch Giá phát triển không thua Hà Tiên, có
phần phồn thịnh hơn nhờ lúa gạo, và dần dần trỡ nên thương khẩu quốc
tế. Ghe buôn Hải Nam, Xiêm La ra vào tấp nập. Ṣng bạc mọc lên khá
nhiều. Người Phước Kiến lập vườn làm ăn, người Hải Nam chuyên về
xuất nhập cảng và thương măi nội địa. Người Việt từ An Giang, Sa
Đéc, Ba Xuyên đổ đến khai thác đất hoang ở ven sông, ven rạch rất
nhiều. Theo thống kê năm 1886 th́ bên cạnh 100 người Việt ở Rạch Giá
có 114 người Miên. Nhưng đến năm 1930 th́ bên cạnh 100 người Việt
chỉ c̣n có 38 người Miên dù là dân số Miên tăng gắp 3 lần từ 1886
đến 1930. Rạch Giá chia ra ba xă rộng lớn: (1) Vĩnh Ḥa (sau này mở
ra làng Vĩnh Lộc, Vĩnh Phước theo ven sông Cái Lớn), (2) Đông Yên
(từ chợ Rạch Giá đến vàm sông Ông Đốc), (3) Vân Tập (thị trấn Rạch
Giá, sông Cái Bé, rạch Tà Niên).
-
- Hà Tiên thời Pháp thuộc
-
Pháp chiếm ba tỉnh Miền Tây (Vĩnh Long, An Giang, và Hà Tiên) năm
1867. Dưới thời Pháp thuộc, Nam Kỳ có 21 tỉnh. Hà Tiên là một tỉnh,
và Rạch Giá là một tỉnh khác trong số 21 tỉnh đó. „Gia, Châu, Hà,
Rạch, Trà...“, câu đầu của bài thơ 21 tỉnh ở Nam Kỳ, có cả hai tỉnh
Hà Tiên và Rạch Giá ở trong. Vào thập niên 1930, dân số Hà Tiên có
khoảng 26000 người. Có 4 quận tất ca,û là Châu Thành, Ḥn Chông,
Giang Thành, và Phú Quốc. Ngoài tỉnh lỵ Hà Tiên nhiều điểm tập trung
dân cư mới được thành h́nh như Giang Thành, B́nh An, Thuận Yên, Núi
Trầu. Một số trường học được mở ra như trường Hà Tiên, Thuận Yên,
Ḥn Chông, Lộc Trĩ. Dân thành thị ở Hà Tiên và Phú Quốc chỉ buôn bán
tạp hóa, hoặc các nghề tiểu thủ công nghệ đơn giản chớ không có hăng
xưởng ǵ quan trọng. Ngoài thành thị, người dân ở nông thôn th́ sống
với nghề ruộng rẫy và vườn tiêu. Ở Hà Tiên không có hạng đại điền
chủ như ở Bạc Liêu.
-
- Hà Tiên thời Việt Nam Cộng Ḥa trở về sau
-
Tháng 3 năm 1957, Việt Nam Cộng Ḥa đổi Hà Tiên thành ra một quận
của tỉnh Kiên Giang. Năm 1960 các xă Dương Ḥa, An Ḥa, B́nh An, An
B́nh tách ra khỏi Hà Tiên để sáp nhập vào quận Kiên Lương mới được
thành lập. Nhà máy xi măng Hà Tiên ra đời từ năm 1957, nằm trong
quận Kiên Lương. Hiện giờ Hà Tiên vẫn là một trong 11 huyện của tỉnh
Kiên Giang, nhưng là 1 thị xă hấp dẫn nhiều du khách bởi những cảnh
đẹp và những di tích lịch sử ở đây. Đầu thập niên 1970 do biến động
chính trị ở Kampuchia, nhiều đồng bào Việt sống bên Miên di cư về Hà
Tiên, khiến dân số ở đây tăng gắp đôi. Người ta cho rằng cũng từ đó
phong vị Hà Tiên dần phai nhạt, người ta không c̣n t́m lại được
những món ăn Hà Tiên độc đáo thời nào như xôi, hủ tiếu hấp, cốm chùi
... Do quan hệ lịch sử người ta thấy Hà Tiên gần với Phú Quốc và
Châu Đốc hơn là gần với Rạch Giá, Cà Mau.
-
- Người Hà Tiên - Rạch Giá
-
Cộng đồng dân tộc sinh sống ở Hà Tiên - Rạch Giá bao gồm người Việt,
người Hoa, và người Miên. Người Việt chiếm đa số, có mặt ở khắp nơi
nhưng có tỷ lệ cao nhất ở các xă Vĩnh Điều, Tiên Hải, Ḥa Điền, Kiên
Lương, v v ... Người Hoa lai (Việt hoặc Khmer) cư trú khắp nơi nhưng
tập trung nhiều nhất ở thị trấn Hà Tiên, B́nh An, Thuận Yên, Dương
Ḥa. Người Hoa gồm có Quảng Đông, Triều Châu, một ít Phúc Kiến và
Hải Nam. Người Khmer sinh sống khá đông ở Mỹ Đức, Phú Mỹ (Trà Phô,
Tà Ten), B́nh An (Rạch Đùng), Dương Ḥa v v ...
-
Ta hăy theo Sơn Nam „h́nh dung cuộc sống phiêu lưu của người dân
vùng vịnh Xiêm La thời ấy“:
-
„Hôm nay th́ bơi xuồng theo sông rạch để vớt sáp
ong, ngày mai th́ theo vài người bạn đi t́m sân chim. Măn mùa giết
chim, họ ra biển đánh lưới. Lông chim, sáp ong, cá khô ... v́ quá
nhiều nên họ sẵn sàng bán lại với bất cứ giá nào cho các thương buôn
Hải Nam để xuất cảng ra ngoại quốc. Rồi th́ họ đi ghe biển đến Rạch
Giá để ăn uống, cờ bạc cho thỏa thích. Họ không cần lo đến ngày mai
v́ ngày mai c̣n dành cho họ nhiều thú vui mới ... Sau khi sạch túi,
họ ra khơi, t́m ḥn Nhạn để hốt trứng chim, nh́n mây nước xa vời,
thả hồn ao ước một cuộc viễn du đến tận bên kia Vịnh. Họ là người
cực khổ, dẻo dai, chịu đựng muỗi ṃng, rắn rít, cọp sấu giỏi nhất và
cũng là người hào hiệp, lăng phí nhất, đồng tánh chất với những
người cũng đồng thời đi ŕm vàng, mua bán da chồn tận bên kia biển
Thái B́nh Dương, ở Gia Nă Đại, ở Mỹ, ở Ba Tây.
-
Cuộc sống đă tạo cho họ nhiều đức tính và nhiều tật
xấu: máu „anh chị“, trọng nghĩa bạn bè, sẵn sàng kết thân và hy sinh
với người lạ miễn là người ấy tỏ ra rộng lượng, anh hùng như ḿnh;
không phân biệt giàu nghèo, chủng tộc; vô kỷ luật; thích biểu dương
vơ lực để giải quyết mọi xung đột; ưa hài hước, lăng phí, tự đắc.
-
Xứ đâu thị tứ bằng xứ Kinh Cùng,
-
Tràm xanh củi lục anh hùng thiếu chi.“
-
(Sơn Nam, T́m Hiểu Đất Hậu Giang & Lịch Sử Đất An Giang, Nhà Xuất
Bản Trẻ, 2003, tr. 48-49)
-
- Thắng Cảnh Hà Tiên
-
Nói đến Hà Tiên người ta thường nhớ ngay đến „thập cảnh“ trong thơ
Mạc Thiên Tích. Nhưng đó chỉ là 10 cảnh đẹp xưa theo Mạc Thiên Tích.
Ngày nay ngoài 10 cảnh đó Hà Tiên c̣n có nhiều cảnh đẹp khác. Hầu
hết các thắng cảnh đều trải dài theo con đường ven biển như Băi
Dương, Ḥn Trẹm, Ḥn Chông, Chùa Hang, Ḥn Phụ Tử, Hang Tiền, Núi Mo
So, Núi Tô Châu, Thạch Động, v v ...
-
Nhà thơ Đông Hồ, người Hà Tiên, đă có những nhận định đặc biệt về
cảnh đẹp Hà Tiên như sau:
- „Muốn
đem so sánh với những danh lam thắng tích, muốn đem so sánh với
những danh sơn đại xuyên, th́ phong cảnh Hà Tiên thực hăy c̣n thua
kém nhiều nơi lắm.
-
Nhưng mà Hà Tiên dễ yêu, dễ cảm nhiễm người, v́ ở đó
núi rừng không cao rậm lắm, đến cho người ngắm hăi hùng, biển hồ
không sâu rộng lắm, đến cho người nh́n kinh sợ. Ở đó như một cảnh
giả sơn thân mật, trong hoa viên, mỗi cảnh nhỏ nhỏ xinh xinh vừa đủ
để cho tầm ngoạn thưởng.
-
Ở đó kỳ thú thay, như hầu đủ hết.
-
Có một ít hang sâu, động hiểm của Lạng Sơn. Có một
ít ngọn đá chơi vơi giũa biển của Hạ Long. Có một ít núi vôi của
Ninh B́nh, một ít thạch thất, sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây
Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm
của Thuận Hóa. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng, có một ít Nha Trang, Long
Hải.
-
Ở đây không có một cảnh nào to lớn đầy đủ; Ở đây chỉ
nhỏ nhắn xinh xinh, mà cảnh nào cũng có.
-
Phân tích được điều đó, rồi mới biết v́ sao, ai đến
thăm Hà Tiên, thoạt nh́n, không thấy có cảnh nào đặc sắc, mà sao
ḷng cứ như lưu luyến để say ḷng.
-
Chính cũng nhờ những tính cách đặc thù đó của danh
thắng, mà Hà Tiên là một miếng đất màu mỡ cho hạt giống văn chương,
văn học dễ phát sinh.“ (Đông Hồ, Văn Học
Miền Nam - Văn Học Hà Tiên, Qúnh Lâm xuất bản, 1970, tr. 27).
-
Bên cạnh thắng cảnh, Hà Tiên c̣n có những di tích lịch sử đáng chú
ư. Lăng Mạc Cửu, chùa Phù Dung, đền thờ Nguyễn Trung Trực, chùa Tam
Bảo, chùa Ông Bổn, chùa Quan Đế, chùa Bà Cửu Thiên, v v ...
-
Phong tục xưa của người Hà Tiên được ghi trong Đại Nam Nhất Thống
Chí như sau:
-
„Kẻ sĩ biết chữ, dân siêng làm ăn, quá nửa là nghề
bán buôn, c̣n kỹ nghệ tầm thường. Ở gần biển th́ làm nghề lưới đáy,
cắm đăng để bắt cá; ở gần núi th́ hay bắt chim và tổ ong để bán.
Người quân tử hay thích điều nghĩa, siêng việc công; kẻ tiểu nhân
th́ an thường thủ phận, không gian tham trộm cướp. Nhiều người hào
hiệp và hay trau giồi hoa sức, đàn ông ra đường hay che dù, đàn bà
con gái trùm đầu bằng khăn vải dài, con trai bới tóc hay cài khúc
thoa (cái thoa cong một đầu) để cho tóc khỏi sổ; con gái trang sức
sơ đạm, bới tóc thả tḥng ra sau. Tính người mau lẹ, nữ công tinh
xảo, hay đi thuyền, giỏi nghề bơi nước, ưa nóng ghét lạnh; bệnh tật
ít hay t́m thầy uống thuốc, ưa dùng đồng bóng và thầy phù pháp Cao
Man. Gặp việc tang tế, lễ nghi theo nho mà cũng theo Phật. Có việc
hoàn nguyện ắt đốt đèn trời; cưới hỏi th́ dùng có ba lễ vấn danh,
thỉnh kỳ, và thân nghinh. Tính ưa thờ Phật, những ngày tam nguyên
(thượng nguyên, trung nguyên, và hạ nguyên) đều dùng hương đèn hoa
quả cầu phước trước bàn Phật. Đêm nguyên đán chiêm nghiệm khí trời
trong sáng th́ năm ấy được mùa màng lúa thóc, hoặc khí đất trong
sáng th́ năm ấy được mùa ở sông biển, ấy là di tục chiêm nghiệm
trong năm. Tiết đoan ngọ 5-5 âm lịch làm bánh ú có sừng để cúng tiên
tổ và đua ghe; tiết thanh minh con trai con gái đi tảo mộ ông bà gọi
là đạp thanh; tiết trung thu mời bạn hữu chung thưởng trăng thu, đêm
trừ tịch th́ thắp đèn suốt đêm gọi là „thủ tuế“. C̣n tục thổ dân th́
mỗi năm cứ đến tháng ba là sắm đèn hương hoa quả đến cầu phước ở
chùa Hồ Tự rồi ba ngày sau có cuộc hội ẩm gọi là „hạ tuế“. Tháng 8
có lễ rước nước, tháng 10 lễ đưa nước, giống như thổ tục ở An Giang.“
(tr. 85-86)
-
- Các lễ hội của dân Khmer.
-
Dân Khmer có hai điệu múa phổ biến: múa ăn ong và múa lên tổ. Múa ăn
ong rất phổ biến ở vùng B́nh An, Dương Ḥa, Phú My, nơi mà nghề lấy
mật ong và sáp ong rất thịnh hành trước kia. Múa lên tổ được tổ chức
trong những buổi cúng tế trị bệnh, rất phổ biến ở vùng Xà Ngách, Tà
Xăng, Tà Phô, Bà Lư.
-
Có hai lễ hội đặc biệt của đồng bào Khmer: lễ OK-OM-BÓC và hội ĐUA
GHE NGO. Lễ OK-OM-BÓC là lễ cúng trăng và đút cốm dẹt, diễn ra vào
ngày rằm tháng 12 theo Phật lịch (15 tháng 10 âm lịch). Hội đua ghe
NGO được tổ chức cùng lúc với lễ Ok-Om-Bóc. Thường được tổ chức tại
ngả ba sông Tắc Cậu, quận Châu Thành.
-
- Món ăn Hà Tiên
-
Hà Tiên có nhiều món ăn ngon rất độc đáo: Canh mấm tràm, vịt nấu
tiêu, món móc cá, món giả cầy, canh cà na nước, cơm cơi buôi, món cà
xỉu móng tay, nham cua, cá xào lăn. Hà Tiên có các thứ bánh dân gian
rất đặc biệt: Bánh óc, bánh lọt xiêm, bánh thốt nốt, bánh trứng sam,
bánh chài, cốm chùi, chè hột me.
-
Các nhóm đảo trong Vịnh Thái Lan thuộc tỉnh Kiên
Giang
-
Đặc điểm quan trọng trong vùng biển Tây Nam là sự hiện hữu của rất
nhiều ḥn đảo. Có trên một trăm đảo lớn nhỏ chia làm 6 nhóm quần đảo
và các đảo lẻ: nhóm Hải Tặc, nhóm Bà Lụa, nhóm Nam Du, nhóm Ḥn
Khoai, nhóm Phú Quốc và An Thới, nhóm Thổ Châu và những ḥn đảo khác
nằm rải rác đơn độc như Ḥn Nghệ, Ḥn Tre, Ḥn Rái, Ḥn Chuối, Ḥn
Đá Bạc.
-
Đảo lớn nhất là đảo Phú Quốc, diện tích 568 km2, rộng hơn quốc gia
Singapore, dài 52 km, chiều rộng từ 3 đến 29 km. Phú Quốc cách Mủi
Nai, Hà Tiên 46 km, cách Rạch Giá 114 km. Núi và rừng chiếm phần lớn
diện tích đảo (có đến 99 ngọn núi). Vùng biển Phú Quốc là một trong
những ngư trường phong phú nhất của Vịnh Thái Lan. Đánh cá và bắt
thủy sản là nghề truyền thống của người dân Việt ở đây. Một báo cáo
của phái đoàn quan sát về Phú Quốc gởi Thống Đốc Nam Kỳ hồi 1898 có
ghi:“Đảo Phú Quốc có khoảng 500 dân đinh. Người An Nam không trồng
trọt. Tất cả đều làm nghề chài lưới, rành rơi hơn mà lại sanh lợi
hơn.“ Từ nghề đánh cá, người dân Phú Quốc đă sản xuất loại nước mắm
nổi tiếng: nước mắm Ḥn Phú Quốc. Quyển Monography de la province de
Hà Tiên, 1901, có đoạn ghi :“Nước mắm Phú Quốc tập trung ở Dương
Đông, vừa là lỵ sở của Tổng Phú Quốc, vừa là trung tâm kỹ nghệ nước
mắm của toàn Nam Kỳ“. Mỗi năm trung b́nh ở đây sản xuất lối ba đến
bốn triệu lít nước mắm.
-
Rừng chiếm khoảng 85% diện tích với 929 loài thực vật, trong đó c̣n
những khu rừng nguyên sinh thuộc hệ rừng cao vùng nhiệt đới. Các
loài động vật cũng rất phong phú. Ở đây vẫn c̣n nhiều thú rừng như
trâu, ḅ, heo, nai chồn, khỉ, kỳ đà, trăn, rắn.
-
Dân Phú Quốc gần đây sản xuất rất nhiều hồ tiêu có giá trị.
-
Phú Quốc không nằm lẻ loi, mà nằm trong nhóm đảo An Thới. Nhóm đảo
này gôm 15 đảo lớn nhỏ ở phía Nam của Phú Quốc, khiến Phú Quốc ít bị
sóng gió, và trở thành cảng biển lư tưởng trong Vịnh Thái Lan. Phú
Quốc hiện có 60000 cư dân sanh sống.
-
Lớn thứ nh́ sau Phú Quốc là Ḥn Rái. Ḥn Rái c̣n có tên là Lại Sơn
hoặc Sơn Rái, diện tích hơn 12 km2.
-
Ḥn Tre, nhỏ hơn Ḥn Rái, diện tích chỉ hơn 4 km2, nhưng
có địa vị quan trọng, v́ đây là huyện lỵ của huyện Kiên Hải.
-
Ḥn Nghệ nằm giữa đường Rạch Giá đi Phú Quốc. Diện tích khoảng trên
4 km2 có 1350 người sinh sống. Ḥn Nghệ là một xă thuộc
huyện Kiên Hải.
-
Quần đảo Nam Du gồm 21 đảo lớn nhỏ, trong đó có 7 đảo có người sinh
sống và 8 đảo ch́m, có đảo chưa có tên.
-
Quần đảo Hải Tặc gồm 16 đảo lớn nhỏ. Sở dĩ có tên như vậy (cả quốc
tế đều biết Iles des Pirates) v́ người ta cho rằng bọn cướp biển
thường dùng đảo này làm sào huyệt.
-
- Văn Học Hà Tiên
-
Sau khi nhận định về phong cảnh Hà Tiên, Đông Hồ đă đi đến kết luận
rằng:“ Chính cũng nhờ những tính cách đặc thù đó của danh thắng, mà
Hà Tiên là một miếng đất màu mỡ cho hạt giống văn chương, văn học dễ
phát sinh.“ (Đông Hồ, Văn Học Miền Nam - Văn Học Hà Tiên, Qúnh Lâm
xuất bản, 1970, tr. 27). Văn chương phát sinh sớm nhất ở đây là các
tác phẩm và tác giả trong tao đàn Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tích
sáng lập hồi năm 1736. Văn đàn gồm từ 32 đến 37 người, phần lớn là
người Trung Hoa, sống ở Quảng Đông và có thể chưa hề đến Hà Tiên bao
giờ. Theo Trịnh Hoài Đức th́ tao đàn đă sản xuất 6 tác phẩm: (1) Hà
Tiên Thập Cảnh Toàn Tập, (2) Minh Bột Di Ngư Thi Thảo, (3) Hà Tiên
Vịnh Vật Thi Tuyển, (4) Châu Thị Trinh Liệt Tặng Ngôn, (5) Thi
Truyện Tặng Lưu Tiết Phụ, và (6) Thi Thảo Cách Ngôn Vịnh Tập. Ngoài
6 tác phẩm trên Lê Quư Đôn c̣n ghi thêm tập Thụ Đức Hiên Tứ Cảnh.
Thụ Đức Hiên là thư trai của Mạc Thiên Tích. Cả 7 tác phẩm trên là
kết quả xướng họa thi ca của hơn 40 năm hoạt đông của tao đàn Chiêu
Anh Các. Rất tiếc là thời gian và chiến tranh đă làm thất lạc gần
hết, nay chỉ c̣n Hà Tiên Thập Vịnh. Đây là nhan đề 10 bài thơ vịnh
10 cảnh đẹp của Hà Tiên:
-
- Kim Dữ lan đào
- B́nh San diệp
thúy
- Tiêu Tự hiểu
chung
- Giang Thành dạ cổ
- Thạch Động thôn
vân
- Châu Nham lạc lộ
- Đông Hồ ấn nguyệt
- Nam Phố trừng ba
- Lộc Trĩ thôn cư
- Lư Khê ngư bạc
-
- và một bài „Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh“ của Mạc
Thiên Tích:
-
- „Mười cảnh Hà
Tiên rất hữu t́nh
- Non non nước
nước gẫm nên xinh.
- Đông Hồ, Lộc Trĩ
luôn gịng chảy
- Nam Phố, Lư Khê
một mạch xanh.
- Tiêu Tự, Giang
Thành chuông trống ỏi
- Châu Nham, Kim
Dữ cá chim quanh.
- B́nh San, Thạch
Động là rường cột
- Sừng sửng muôn
năm cũng để dành.“
-
- Nói đến Mạc Thiên
Tích th́ không thể không nhắc đến câu chuyện t́nh của ông với cô
Nguyễn Thị Xuân và am tự Phù Cừ. Chuyện kể vào đêm Nguyên Tiêu năm
Bính Th́n (1736), Mạc Thiên Tích mở dạ tiệc, khai trương Chiêu Anh
Các. Giữa dạ tiệc có một chàng trai dáng người nho nhă thanh tú,
ngâm lên 8 câu thơ:
- „Đêm
xuân hội mở tuần trăng mới
- Đốt hỏa đèn dưa
sánh quả trăng
- Áo trắng thanh
vân tô điểm tích
- Ḷng
son đơn quế dải cung Hằng.
- Đây Chiêu Anh
Các lời châu ngọc
- Ḱa Quảng
Hằng Cung rạng tuyết băng.
- Non nước thần
tiên mừng có chủ
- Cỏ nhàn mừng
tỏ mặt hoa đăng.“
-
Mến tài người trai trẻ, Mạc Thiên Tứ kết làm bạn
văn chương. Nhưng người đó không phải là nam giới mà là một người
đẹp giả trai. Cô tên Nguyễn Thị Xuân, người Quảng Ngăi, theo cha vào
Hà Tiên buôn bán. Sợ bị cướp hại đời cô nên cô phải giả trai. Mạc
Thiên Tích đem cô về làm vợ lẻ. Vợ lớn ghen, nhân khi Mạc Thiên Tích
bận việc quan, bà đem cô vợ nhỏ bỏ vào trong một cái lu đậy kín lại.
Cô Xuân ngộp thở, suưt chết, th́ Mạc Thiên Tích vừa về tới. Trời sắp
mưa to, Mạc Thiên Tích cho mở hết mấy nấp lu ra để hứng nước. Nhờ đó
cứu được cô Xuân. Buồn t́nh cô Xuân xin được đi tu. Mạc Thiên Tích
cho cất cái am ở Phù Cù cho cô tu hành. Sau này khi cô mất rồi th́
có một thi sĩ (không biết tên) đă viết bài thơ:
-
„Ngó lên am tự Phù Cừ
- Thương cho người
ngọc giả từ lầu son.
- Về đây nương
chốn thiền môn
- Tay lần chuổi
hạt cho ṃn ngày xanh.
- Duyên xưa chẳng
bận chi t́nh
- Bụi kia chi để
vươn cành hoa sen.
- Nước trong không
rửa đánh phèn
- Cửa thiền thanh
tịnh năo phiền sạch không.“
-
Văn chương Chiêu Anh Các là văn chương chữ Hán và chữ Nôm. Sau Chiêu
Anh Các t́nh h́nh bất ổn đă không cho phép có những áng văn chương
tiếp nối. Măi đến đầu thế kỷ XX, sau khi Nam Kỳ Lục Tỉnh đă trở
thành thuộc địa của Pháp, nền tân học với văn chương, báo chí chữ
Quốc Ngữ thành h́nh và có cơ sở vững vàng, Đông Hồ Lâm Tấn Phác mới
mở đầu cho văn mới ở Hà Tiên. Tác phẩm Linh Phượng Lệ Kư của ông đă
một thời làm say mê người đọc. Ông có lập Trí Đức Học Xá. Năm 1964
ông được mời làm giảng sư trường Đại Học Văn Khoa Sài G̣n, phụ trách
chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm, chuyên về văn học Miền Nam, đặc biệt
là văn học Hà Tiên.
-
Một trong những người do Trí Đức học xá đào luyện, và trỡ thành vợ
và bạn thơ của Đông Hồ là Mộng Tuyết Thất tiểu muội Thái Lâm Úc. Bà
có tập thơ Phấn Hương Rừng được giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn. Những
truyện ngắn của bà, cùng với những tuyển tập Dưới Mái Trăng Non,
Nàng Ái Cơ trong chậu úp cũng rất được người đọc tán thưởng.
-
Đông Hồ và Mộng Tuyết là hai nhà thơ Miền Nam có mặt trong quyển Thi
Nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân.
-
Một nữ sĩ có tiếng khác là cô Nguyễn Thị Kiêm, bút hiệu Nguyễn Thị
Manh Manh. Cô từng là Tổng Thơ Kư của hội Ái Hữu Nữ Sinh Gia Long
thời xưa, từng đi diễn thuyết ở nhiều nơi về quyền của người phụ nữ,
từng vẽ ra cuộc đời lư tưởng của phụ nữ Việt Nam vào giữa thế kỷ XX.
Có lần cô diễn thuyết ở nhà hát lớn Hà Nội với mấy ngàn người tham
dự.
-
Những áng văn chương, những công tŕnh biên soạn ghi dấu sinh hoạt
trí thức của người Hà Tiên không làm mất đi những bài thơ b́nh dân,
mộc mạc của người dân Rạch Giá:
-
- „Ở Hà Tiên mần ăn
không khá
- Anh về Rạch Giá
anh bán cá ṃi
- Thương nhau
không được ngỏ lời
- Nước trôi thăm
thẳm biết đời nào nên.“
-
- „Chiều trông về
núi Tô Châu
- Thấy em gánh
nước trên đầu giắt trâm.
- Trâm đồi mồi tóc
em em giắt
- Mắt anh nh́n
thương thiệt là thương.
- Dăi dầu một nắng
hai sương
- Tóc em vẫn mượt
mùi hương vẫn c̣n.“
-
- „Tóc quăn chải
lược đồi mồi
- Chải đứng chải
ngồi quăn vẫn c̣n quăn.“
-
- „Gió đẩy gió đưa
cho vừa ḷng bạn
- Con sông Giang
Thành chổ cạn chổ sâu.
- Thăm em anh phải
bắc cầu
- Lội sông sợ ướt
cái đầu hết duyên.“
-
- „Ông Trúc chỉ con
trai c̣n chuộng:
- Bậu lỡ thời như
ruộng bỏ hoang.
- Ruộng bỏ hoang
người ta c̣n cấy.
- Bậu lỡ thời như
giấy trôi sông,
- Giấy trôi sông
người ta c̣n vớt.
- Bậu lỡ thời như
ớt chín cây,
- Ớt chín cây người
ta c̣n hái.
- Bậu lỡ thời như
nhái lột da,
- Nhái lột da người
ta c̣n bắt.
- Bậu lỡ thời như
giặc Hà Tiên,
- Giặc Hà Tiên
người ta c̣n đánh.
- Bậu lỡ thời như
cánh chim bay,
- Cánh chim bay
người ta c̣n bắn.
- Bậu lỡ thời như
rắn cụt đuôi,
- Rắn cụt đuôi
người ta c̣n sợ.
- Bậu lỡ thời như
nợ kéo lưng,
- Nợ kéo lưng người
ta c̣n trả.
- Bậu lỡ thời như
lửa cháy lan,
- Lửa cháy lan
người ta c̣n tưới.
- Bậu lỡ thời như
lưới giăng ngang,
- Lưới giăng ngang
người ta c̣n cuốn.
- Bậu lỡ thời ai
muốn bậu đâu !“
|