|   | 
      
                        Ranh Giới 
                              Nước Chiêm Thành Qua Sử Liệu 
                               Mường Giang  - Chiêm 
                              Thành xưa là đất Việt Thường, cho nên vua Gia Long 
                              trong lúc cầu phong với nhà Thanh, đă viết: "Ngay 
                              từ thời lập quốc, lănh thổ của Tổ tiên ta bao gồm 
                              cả vùng đất Việt Thường". Căn cứ vào sử Trung Hoa, 
                              vùng này đời Tần gọi là Lâm Ap, thuộc Tượng Quận. 
                              Đời Hán đổi thành huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật 
                              Nam của Van Lang, lúc đó đă bị người Tàu cưởng 
                              chiếm và đô hộ, sau khi tiêu diệt nhà Triệu của 
                              người Việt. Năm thứ 2 Vĩnh Ḥa Hậu Hán, vua Thuận 
                              Đế, có viên công tào trong huyện tên Au Lân, nổi 
                              lên giết quan huyện, chiếm xứ này, tự xưng làm vua 
                              Lâm Ap. Đến đời nhà Tuỳ chiếm lại đất này, cải 
                              thành Sung Châu rồi lại đổi thành Lâm Ap như cũ, 
                              thống hạt 4 huyện: Tượng Phố, Kim Sơn, Giao Giang 
                              và Nam Cực. Cuối đời Trinh Nguyên nhà Đường (785) 
                              bỏ hẳn.
  
	 Cũng theo Trung Hoa sử, đời Đại 
                              Đường có xứ Việt Thường ở Nam di, qua triều cống 
                              một con rùa thần đă được 1000 tuổi, lưng rộng trên 
                              3 thước, trên có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc 
                              khai thiên lập địa đến nay. Vua sai chép lấy và 
                              gọi là lịch rùa. Bùi Dương Lịch (1757-1828) có 
                              viết cuốn Nghệ An kư, đề cập tới đất Việt Thường 
                              nhưng biên giới th́ từ phía bắc Thanh Hóa tới đèo 
                              Hải Vân. Tác phẩm trên cũng cho chúng ta nhiều ư 
                              niệm lịch sử có trước các thời vua Hùng dựng nước 
                              Văn Lang, sống theo chế độ du mục, th́ ở Việt 
                              Thường Thị đă có chữ viết. 
  Vào khoảng thế 
                              kỷ thứ 7 trước tây lịch, các vua Hùng đă sáp nhập 
                              miền Bắc Việt và một phần Việt Thường Thị vào Văn 
                              Lang. Riêng phần đất c̣n lại từ đèo Ngang ở phía 
                              nam Hà Tỉnh về sau thuộc nước Chiêm Thành. Vào thế 
                              kỷ thứ 11 sau TL, vua Chiêm Thành là Chế Củ thua 
                              trận, đă dâng ba châu Địa Lư, Ma Linh và Bố Chính 
                              (Quảng Bỉnh-Quảng Trị) cho vua Lư Thánh Tông để 
                              chuộc mạng. Đến thế kỷ thứ 14, vua Chế Mân dâng 2 
                              châu Ô và Lư (Quảng Trị-Thừa Thiên) cho vua Trần 
                              Anh Tôn để cưới Huyền Trân công chúa. Như vậy sau 
                              bao thế kỷ chia phân, toàn bộ Việt Thường Thị lại 
                              trở về với Đại Việt. 
  Tóm lại xưa nay ai 
                              cũng đồng chung quan điểm là nước Chiêm Thành ra 
                              đời từ đầu thế kỷ thứ 2 sau TL và tồn tại tới năm 
                              1693 th́ bị diệt vong. Về lănh thổ, th́ hầu hết 
                              các nguồn tài liệu đều nói nước Chiêm Thành nằm 
                              trên duyên hải miền Trung Việt Nam, phiá bắc từ 
                              Đèo Ngang vào tới B́nh Tuy ngày nay. Tuy nhiên 
                              cũng có tác giả cho rằng vương quốc Chiêm Thành, 
                              bao trùm cả vùng duyên hải lẫn cao nguyên Trung 
                              Phần, vậy đâu là sự thật?
  1-RANH GIỚI NƯỚC CHIÊM 
                              THÀNH:
  Trong suốt chiều dài lịch 
                              sử, hầu như biên giới giữa Việt-Chiêm không bao 
                              giờ cố định v́ chiến tranh triền miên giữa hai 
                              nước. Và cứ mỗi lần như thế, th́ biên giới lại 
                              thay đổi cho tới năm 1471, lần đầu tiên vua Lê 
                              Thánh Tôn mới cho dựng bia đá trên núi Thạch Bị 
                              (đèo Cả, giữa Phú Yên -Khánh Ḥa), từ đó ít ra 
                              trên giấy tờ mới thấy có sự minh định. Với người 
                              Chàm, thực tế chưa bao giờ có một ư niệm ranh giới 
                              đối với các lân bang. Theo quan niệm của đạo Bà La 
                              Môn, rồi sau này là Hồi Giáo th́ nước Chiêm Thành, 
                              được coi như là một tập hợp giữa các làng và biên 
                              giới nước, được tính từ khoảng không gian giữa 
                              kinh đô tới tận các làng mạc xa nhất của người 
                              Chàm. Quan niệm cổ này, măi tới những năm 
                              1955-1975, vẫn được Chính Phủ VNCH cho áp dụng khi 
                              tổ chức hành chánh quận Phan Lư Chàm của tỉnh B́nh 
                              Thuận.
  Chúng ta biết người Chiêm suốt dọc 
                              dài lịch sử, phần lớn làng mạc chỉ tụ tập ở châu 
                              thổ các sông ng̣i và các hải cảng, nên đa số đất 
                              bị bỏ hoang thành rừng. Điểm này, vua chúa Chiêm 
                              Thành lại đem yếu tố tín ngưỡng ra áp dụng để thay 
                              thế cho các minh định theo điều kiện kinh tế hay 
                              quân sự. Cho nên nói lănh thổ Chiêm Thành chạy dài 
                              tới tận B́nh Tuy, v́ ở cực nam này vẫn có một số 
                              làng Chàm sinh sống tại Phố Châm, Phố Hải, trong 
                              khi gần cả trăm cây số từ Đồ Bàn vào Khánh Ḥa hay 
                              từ Phan Rang vào Phan Thiết, đều là rừng núi hoang 
                              vu không có bước chân người, nên mới phát sinh câu 
                              tục ngữ truyền khẩu "cọp Phú Yên-Khánh Ḥa, ma 
                              B́nh Thuận " là vậy.
  Tóm lại chỉ có dân bản 
                              địa và triều đ́nh mới hiểu đâu là ranh giới của 
                              làng ḿnh, v́ nó chỉ có tên gọi nhưng không có 
                              trong bản đồ và văn kiện. Theo truyền khẩu, th́ 
                              vua Chàm là chúa tể sơn hà hay Po-tana-raya, chủ 
                              nhân ông tất cả mọi thứ trong nước, dù thực tế chỉ 
                              có quyền hạn, tại các làng mạc cùng chung tín 
                              ngưởng. Đó là sự bất di bất dịch không ai có quyền 
                              xâm phạm v́ đă được thần linh xác nhận qua trung 
                              gian của đồng cốt. Do trên khi gây chiến tranh, 
                              người Chiêm biện lư rằng đó là quyết định của thần 
                              linh, chứ không phải là xâm lược. Cũng do cái ư 
                              niệm thiêng liêng như vậy, mà mỗi cá nhân phải có 
                              bổn phận gán liền đời ḿnh với mảnh đất quê hương, 
                              để không bị làm con ma trơi bất hạnh khi phải chết 
                              ngoài làng ḿnh. Sự ràng buộc khiến người Chiêm 
                              không muốn xuất ngoại, nên dù đă vong quốc, sống 
                              trong một tổ quốc khác, nhiều người Chiêm Thành cứ 
                              tiếp tục cho là ḿnh vẫn lệ thuộc vào chính trị và 
                              hành chánh của quốc gia . Quan niệm này tới khi VN 
                              hoàn toàn bị Cọng sản đệ tam quốc tế đô hộ, có một 
                              số ít người Chàm bị nguy hại tới tính mạng, v́ 
                              liên hệ với Chính phủ Quốc Gia VN, nên mơi chịu bỏ 
                              xóm làng của ḿnh mà vượt biển hay tới nước ngoài, 
                              t́m tự do.
  Dựa theo tài liệu từ lịch sử 
                              Đông Nam Á của D.G.E.Hall, ta biết bán đảo Đông 
                              Dương từ thời huyền sử mịt mù, đă có nhiều giống 
                              người từ mọi nơi di dân tới. Cho nên ngay cả người 
                              Việt, ngày nay khi đi t́m nguồn gốc của chính 
                              ḿnh, cũng chỉ là những ước đoán, th́ nói chi tới 
                              các sắc tộc đă và đang sống tại đó. Tuy nhiên qua 
                              thời gian dài, nhờ các phuơng pháp khảo cổ, đă 
                              giúp cho các nhà nhân chủng học, t́m được ít nhiều 
                              khoen nối trong sự liên hệ của các dân tộc đang 
                              sinh sống trên bán đảo AnĐộ-China. 
  Cũng 
                              theo các nguồn tài liệu từ nhân chủng học và sử 
                              liệu, th́ nguồn gốc các sắc tộc tại Đông Dương, kể 
                              cả Việt Nam, bắt đầu từ cuộc thiên di của hai 
                              giống thổ dân Mélanésien tại các hải đảo nam Thái 
                              B́nh Dương. Sau đó là cuộc thiên di thứ hai của 
                              sắc dân Indonésien, từ phía đông Địa Trung Hải và 
                              Thổ Nhĩ Kỳ, tới An Độ nhưng bị dân bản xứ Aryens 
                              đánh đuổi, nên lại di cư về phía đông, tới Nam 
                              Dương, Mă Lai và một nhóm khác vào Đông Dương. 
                              Nhiều cuộc đụng độ liên tục xảy ra hằng chục thế 
                              kỷ, giữa hai nhóm thiên di trên. Cuối cùng người 
                              Mélanésien yếu hơn nên số lớn bỏ duyên hải và miền 
                              đồng bằng chạy lên cao nguyên, số c̣n lại, bị đồng 
                              hóa với người Indonésien, thành những người cổ 
                              Việt ở phương Bắc và người Chiêm Thành tại nam 
                              phương. 
  Riêng thổ ngữ th́ có hai nguồn 
                              chính là Malayo-Polynésien, được người Chàm, 
                              Rhadé, Djarai, Roglai, Churu, Haroi,M'dhur xử 
                              dụng, ngôn ngữ Môn-Khmer, tại VN được sử dụng từ 
                              người Mường, Sédang, M'Nông, Koho. 
  Theo 
                              các tài liệu trưng dẫn từ Essai d'histoire des 
                              populations montagnardes Sud Indochinois của 
                              B.Bourotte và quyển Sơ lược chính sách Thượng vụ 
                              trong lịch sử VN của P.Nur, đều có nói tới hai 
                              nước Phù Nam và Lâm Ap. Phù Nam khởi sự chiếm đồng 
                              bằng sông Cửu Long từ đệ nhất thế kỷ sau TL., do 
                              một người An Độ theo Bà La Môn tên Hun Chen, đời 
                              vua Kaun Dinya. Sau đó Phù Nam được mở rộng tới 
                              Chân Lạp, Xiêm La, Mă Lai và một phần Lào cùng hai 
                              châu Kauthara (Khánh Ḥa) và Panduranga (B́nh 
                              Thuận).Từ đó nền văn minh An Độ được các nhà vua 
                              Phù Nam mang vào các phần đất trên. Phù Nam bị 
                              Chân Lạp thôn tính vào thế kỷ thứ VII. Riêng hai 
                              châu cực đông bắc là Kauthara và Panduranga, 
                              (Khánh Ḥa - Ninh B́nh Thuận), bị người Chiêm sáp 
                              nhập vào lănh thổ của họ.
  Đồng thời với sự 
                              thành lập của Phù Nam, một số thương buôn An Độ 
                              khác ở Nam Dương-Mă Lai cũng đổ bộ lên chiếm miền 
                              duyên hải Trung Phần. Trong tài liệu cổ của nhà 
                              thiên văn học Hy Lạp là Ptolémé có dùng chữ Phạn 
                              Lin-Yi để nhắc tới miền duyên hải VN trong cuốn 
                              địa lư của ông ta. C̣n Nguyễn Khắc Ngữ trong tác 
                              phẩm Mẫu Hệ Chàm cũng căn cứ vào tài liệu của 
                              Ptolémé, khẳng định nước Lâm Ap hay Chiêm Thành đă 
                              có mặt vào những thế kỷ đầu tiên sau tây lịch, từ 
                              quận Nhật Nam vào tới biên giới Phù Nam. Người 
                              Chiêm Thành cùng sắc tộc với người Mă Lai, theo 
                              tôn giáo và chính trị An Độ, là một quốc gia cường 
                              thịnh và hùng mạnh thời ấy. Tóm lại lịch sử của 
                              Chiêm Thành hầu hết là những trang chiến sử, chẳng 
                              những liên tục đánh nhau với Tàu, Đại Việt, Lào, 
                              Phù Nam và Chân Lạp, mà họ c̣n ỷ mạnh đàn áp các 
                              bộ tộc cao nguyên, khởi sự từ đời vua Phạm Văn. 
                              Nhiều trận đại chiến đă xảy ra giữa Chiêm, Phù 
                              Nam, Chân Lạp, Mạ và hai vua Nước - Lửa, lúc đó 
                              đang là chúa tể cai trị cả vùng Cao nguyên Trung 
                              Phần ngày nay.
  Diện tích VN từ thời nhà 
                              Nguyễn đến nay vẫn không thay đổi bao nhiêu, rộng 
                              331.000 km2, chia ra Bắc phần 115.700km2, Trung 
                              phần bao gồn vùng duyên hải, dăy Trường Sơn và cao 
                              nguyên phía nam, từ Thanh Hóa vào tới giáp ranh 
                              tỉnh Biên Ḥa là 147.600 km2 và Nam phần 
                              67.700km2. Như vậy nước Chiêm Thành buổi đó, từ 
                              nam đèo Ngang vào tới B́nh Tuy, đất đai xét cho 
                              cùng chẳng có bao nhiêu. Riêng cao nguyên Nam 
                              Trung phần, nằm giữa vĩ tuyến 11 độ - 15 độ 30 bắc 
                              và kinh tuyến 105 độ 30, chạy dài từ bắc xuống nam 
                              trên 450 km và đông sang tây 150km, diện tích 
                              chừng 65.000 km2, nằm trong tứ giác giới hạn bởi 
                              sông Bùng (Quảng Nam), biên giới Việt-Lào-Miên và 
                              các con sông Đồng Nai-Sài G̣n. Dăy Trường Sơn chạy 
                              từ sông Mă tới sông Búng, phần c̣n lại tức cao 
                              nguyên Nam Trung Phần.
  Từ năm 939 sau tây 
                              lịch, Đại đế Ngô Vương Quyền chém đầu thái tử 
                              Hoàng Thao trên Bạch Đằng Giang, đuổi quân Nam Hán 
                              chạy về Tàu, chấm dứt vĩnh viễn 1000 năm Bắc 
                              thuộc, mở đầu nền độc lập cho dân tộc Hồng Lạc và 
                              nước Đại Việt. Cũng từ đó, công cuộc nam tiến mới 
                              được các nhà Hậu Lư, Trần, Hậu Lê và các chúa 
                              Nguyễn ở Đàng Trong liên tục trên 600 năm, mới 
                              thành tựu.
  Năm 1069, vua Lư Thánh Tôn lấy 
                              ba châu Địa Lư, Ma Linh, Bố Chánh (nay thuộc tỉnh 
                              Quảng B́nh và một phần Quảng Trị). Năm 1306 vua 
                              Chiêm Chế Mân dâng Ô và Lư cưới Huyền Trân. Hai 
                              châu này được đổi thành châu Thuận và Hóa, gồm một 
                              phần Quảng Trị và Thừa Thiên). Năm 1402 Hồ Quư Ly 
                              chiếm Ba Động và Cổ Lũy (Quảng Nam-Quảng Ngăi). 
                              Năm 1470 Vua Lê Thánh Tôn chiếm kinh đô Chà Bàn và 
                              đem sáp nhập vào Cổ Lũy. Năm 1611 Chúa Nguyễn 
                              Hoàng chiếm Phú Yên. Năm 1653 Hiền Vương Nguyễn 
                              Phúc Tần chiếm Khánh Ḥa. Năm 1693 chúa Nguyễn 
                              Phúc Chu chiếm Phan Rang và Phan Rí, từ đó nước 
                              Chiêm Thành mất hẳn.
  Tóm lại phải mất sáu 
                              thế kỷ máu xương, Đại Việt mới thu hồi được miền 
                              duyên hải Trung phần của Văn Lang, mà những người 
                              An từ Mă Lai, Nam Dương tới đánh chiếm của dân bản 
                              địa Mélano-Polynésiên. Trong suốt thời gian chiến 
                              tranh dai dẳng giữa Việt-Chiêm-Phù Nam-Chân Lạp, 
                              các bộ tộc ở cao nguyên Trung Phần cũng bị hoạ lây 
                              v́ chiến nạn từ người Chàm. Năm 1149 vua Chiêm 
                              Harivarman đệ I, sau khi đánh đuổi được Chân Lạp 
                              dành lại nước, thừa thắng tấn công các Kirata tại 
                              cao nguyên, lúc đó do Vamcaraja làm thủ lănh, phải 
                              sang cầu cứu vua Lư Anh Tôn vào năm 1150 nhưng 
                              cuối cùng liên quân Đại Việt và các bộ tộc vẫn 
                              không chống nổi với quân Chiêm, nên một phần miền 
                              cao nguyên phải thần phục Chiêm Thành cho tới năm 
                              1471 vua Lê Thánh Tôn mới giải phóng hoàn toàn ách 
                              đô hộ của Chiêm Thành cho các bộ tộc. 
                              
  Trong gần 300 làm chủ cao nguyên, người 
                              Chàm c̣n để lại nhiều di tích như các tháp Yan 
                              Mun, Dranglai ở gần Cheo Reo (Phú Bổn), tháp và 
                              tường thành Eahleo ở Bản Đôn (Darlac) và nhiều 
                              Rasung Batau (thùng dùng tắm rửa theo nghi thức 
                              tôn giáo) ở Ban Mê Thuột, Keudeu, Meteung, Kontum. 
                              Theo Henri Maitre trong Jungles Moi, th́ sau khi 
                              chiến thắng Chiêm Thành, những quan chức và quân 
                              sĩ Chàm từ cao nguyên đă rút về Khánh Ḥa, c̣n 
                              triều đ́nh nhà Lê chỉ ấn định một đường ranh giới, 
                              phân chia Kinh-Thượng mà thôi.
  Cũng dựa 
                              theo sử liệu, hiện nay có hai giả thuyết nói về 
                              biên giới của Chiêm Thành. Thuyết thứ 1 của 
                              A.Bergaigne, E.Aymonier, L.Pelliot là những nhà 
                              nghiên cứu Pháp thế kỷ XIX và XX, cho rằng lănh 
                              thổ Chiêm Thành gồm duyên hải và cao nguyên Trung 
                              Phần, từ Quảng B́nh vào tới B́nh Thuân. Giả thuyết 
                              trên đă bị các nhà nhân chủng học đánh đổ vào hậu 
                              bán thế kỷ XX. Thuyết thứ 2 của một nhóm giáo sư 
                              Pháp, thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học Ba Lê, 
                              thực hiện vào năm 1975. Nhóm này căn cứ vào các 
                              văn bía viết bằng chữ Phạn cũng như những di tích 
                              của người Chàm c̣n lưu lại trên các vùng đất mà họ 
                              có mặt. 
  Tóm lại thuyết này chẳng những 
                              đồng ư lănh thổ Chiêm Thành bao trùm cả duyên hải 
                              lẫn cao nguyên Trung phần, mà c̣n chứng minh người 
                              Chiêm Thành không phải chỉ có người Chàm, mà c̣n 
                              bao gồm nhiều sắc tộc khác tại cao nguyên. Để biện 
                              minh lập luận trên, nhà nghiên cứu đưa vua Po Ramo 
                              người Churu, đă làm vua Chiêm Thành từ 1627-1651 
                              và c̣n đi xa hơn khi nói ḍng họ này tiếp tục làm 
                              vua qua 14 đời, tới năm 1786 mới chấm dứt, trong 
                              khi nước Chiêm Thành thật sự đă bị xóa tên trên 
                              bản đồ thế giới năm 1693. 
  Tất cả những giả 
                              thuyết trên ngày nay cũng chẳng có ǵ mới lạ, khi 
                              chúng ta được đọc những sử liệu của Trung Hoa, 
                              Chân Lạp và Đại Việt, viết về lịch sử Chiêm Thành, 
                              trong khi những nhà nghiên cứu không nói rơ về 
                              xuất xứ của những di tích Chàm c̣n để lại ở Phù 
                              Nam, Chân Lạp hay Lào qua các cuộc chiến dành qua 
                              kéo lại và trên hết là một phần cao nguyên bị đô 
                              hộ bởi người Chàm trên 300 năm. Đại uư người Pháp 
                              là Doudart de Lagrée, trong phái đoàn thám hiểm 
                              sông Cửu Long, từ đất Miên vào năm 1866, đă nói 
                              thật chí lư "không ai có thể biết được biên giới 
                              nước Chiêm Thành như thế nào, nhưng chúng ta có 
                              thể định vị bằng niên lịch, v́ chúng thay đổi theo 
                              từng giai đoạn.
  Tuy người Chàm không lưu 
                              lại các tác phẩm lịch sử, nhưng ngày nay nhờ có 
                              viện bảo tàng cổ vật Chiêm Thành, được xây dựng từ 
                              năm 1915 ở thành phố Đà Nẵng, với nhiều tác phẩm 
                              nghệ thuật và điêu khắc của người Chiêm, có thể 
                              gần như liên tục từ thế kỷ thứ VII tới thế kỷ thứ 
                              XV, cho chúng ta những ấn tượng về một ḍng lịch 
                              sử của một dân tộc hùng cường trong quá khứ. Bảo 
                              tàng này được thành lập dưới sự bảo trợ của Trường 
                              Viễn Đông bác cổ, qua thu thập được nhiều tác phẩm 
                              của người Chàm c̣n lại, từ Quảng B́nh vào tới B́nh 
                              Định, cho tới cuối thế kỷ thứ XIX. Viện nằm trên 
                              bờ sông Hàn, được thiết kế bởi hai kiến trúc sư 
                              người Pháp là Delaval và Auclair, theo những mô 
                              h́nh đền tháp của người Chàm. 
  Từ năm 1935, 
                              bảo tàng phát triển mạnh, nhờ những khai quật của 
                              nhà khảo cổ J.Y.Clacys tại Trà Kiệu, Quảng Nam 
                              năm1927-1928 và tại Tháp Mẫm, Chà Bàn, B́nh Định 
                              năm 1932.
  Đến thăm viện bảo tàng, để t́m 
                              lại những dấu ấn của lịch sử một dân tộc, qua quá 
                              tŕnh tám thế kỷ của nền điêu khắc. Trong sự tĩnh 
                              mịch u trầm của cổ vật nhưng là tất cả lộ tŕnh từ 
                              buổi vàng son dựng nước, cho tới hồi chiến bại 
                              điêu tàn. Tất cả những tài năng của người nghệ sĩ, 
                              cho ta cảm nhận khát vọng đạp đổ sự hiện hữu tầm 
                              thường về vận mệnh của một dân tộc, để tiến tới 
                              cái vô ngă vô h́nh trong cơi trời đất u minh, 
                              không không có có. Ở đây, đá đă sống hết đời của 
                              đá qua những trăm năm xa tít mịt mờ, như sự bộc lộ 
                              lạnh lùng, ray rứt của pho tượng Siva tạc theo 
                              phong cách Yang Mum, t́m thấy tại Kontum. Đây là 
                              tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của nền điêu khắc 
                              Chàm, đánh dấu niên lịch thế kỷ XVII-XVIII, là 
                              giai đoạn tan ră của giai cấp quí tộc Chàm, kéo 
                              theo sự mất nước.
  2-CHIÊM THÀNH TỰ LÀM VONG 
                              QUỐC:
  Dù viết ǵ chăng nữa, th́ 
                              nước Chiêm Thành suốt ḍng lịch sử, đă chắc chắn 
                              có một lănh thổ gồm các châu Bố Chính, Địa Lư, Ma 
                              Linh, Châu Ô và Châu Lư (nay thuộc các tỉnh Quảng 
                              B́nh, Quảng Trị và Thừa Thiên). Vùng Amaravati với 
                              kinh đô Indrapura (Đồng Dương) cùng các thánh tích 
                              nổi tiếng tại Mỹ Sơn và Trà Kiệu (Simhapura). Miền 
                              này nay thuộc Quảng Nam và Quảng Ngăi. Vùng Vijaya 
                              với kinh đô Chà Bàn, nay là tỉnh B́nh Định. Vùng 
                              Kauthara có thánh tích Po Nagar (Tháp Bà), nay là 
                              Khánh Ḥa. Châu cuối là Panduranga, bao gồm hai 
                              tỉnh Ninh Thuận và B́nh Thuận
  Người Chiêm 
                              Thành lập quốc hơn 17 thế kỷ, có một nền văn minh 
                              khá cao, nghệ thuật điêu khắc coi như gần tiến tới 
                              tŕnh độ toàn hảo. Trong nước có nhiều thức giả 
                              thông thạo Phạn ngữ, lại có chữ viết riêng biệt. 
                              Vậy tại sao nước này không có một nền giáo dục phổ 
                              thông, không có tác phẩm sử học, không bao giờ mở 
                              các kỳ thi tuyển nhân tài và không cho sản xuất 
                              giấy. Bởi v́ tất cả quyền lực trong nước đều là 
                              độc quyền của một nhóm thiểu số, thuộc giai cấp 
                              quư tộc và tăng lữ Bà La Môn cùng Hồi giáo nắm 
                              giữ. Ở đây không nói tới nhóm sắc tộc bị trị tại 
                              cao nguyên Trung phần từ năm 1150-1471, mà chỉ đề 
                              cập tới người Chàm, là sắc dân chính thống của 
                              vương quốc sống dọc vùng duyên hải. Do tính chất 
                              đa sắc tộc và trở ngại địa lư, nên nước Chiêm 
                              Thành gần như không bao giờ thực hiện được trọn 
                              vẹn chính sách trung ương tập quyền, dù trên lư 
                              thuyết đă hợp nhất thành một nước nhưng thực tế 
                              những sắc tộc lại chia thành thị tộc, các làng đầy 
                              dị biệt và thường đem quân bản địa tàn sát lẫn 
                              nhau, không ai cản được. 
  T́m hiểu lịch sử 
                              Chiêm Thành thật nhiêu khê v́ tất cả một chuỗi dài 
                              lịch sử phải nối khoen bằng những tài liệu vụn vặt 
                              góp nhặt từ những ghi khắc trên bia kư c̣n trong 
                              đền tháp, qua những huyền thoại truyền khẩu dân 
                              gian và mớ sử liệu hỗn tạp loạn ngầu trong các 
                              sách sử của những quốc gia liên hệ như Đại Việt, 
                              Trung Hoa, Chân Lạp, Mă Lai. Người Pháp sau này 
                              cũng từ những nguồn gốc trên mà đặt ra giả thuyết 
                              để ước đoán một sự kiện bị ch́m đắm theo những kẻ 
                              nắm quyền đă ngủ yên trong mồ.
  Đây là một 
                              dân tộc rất giỏi nghề đi biển và cũng từng là 
                              những hải tặc khét tiếng suốt vũng biển Thái B́nh 
                              Dương cho tới vịnh Thái Lan. Trong nước ruộng đất 
                              bề bề, đă có kỹ thuật canh tác và biết lập hệ 
                              thống dẫn điền, có nền tiểu công nghệ tiến bộ và 
                              hữu ích trong đời sống hằng ngày như làm gốm, dệt 
                              chiếu vải, đan, điêu khắc và xây cất nhà cửa, dinh 
                              thự, đền đài. Vậy v́ sao nước Chiêm Thành phải suy 
                              thoái và diệt vong? Một câu hỏi cần phải làm sáng 
                              tỏ, để tránh những ngộ nhận cho các thế hệ hôm nay 
                              và mai sau trong một quốc gia hớp chủng 
                              VN.
  Như ta biết, cộng đồng dân tộc 
                              (communauté), theo định nghĩa pháp lư, th́ đó là 
                              một xă hội có nhiều người cùng nhau chia xẻ một 
                              thân phận trong mọi hoàn cảnh, dù là ư thức hay vô 
                              ư thức. Đất nước nào trên thế giới xưa nay, cũng 
                              bao gồm nhiều cộng đồng xă hội khác nhau, nhưng 
                              lại cùng sống trong một lănh thổ, tạo thành cấu 
                              trúc bất khả phân của một quốc gia và theo pháp 
                              lư, tất cả các cộng đồng này đều b́nh đẳng về 
                              quyền lợi cũng như trách nhiệm, bổn phận. 
                              
  Trên b́nh diện quốc gia lại duy nhất chỉ 
                              có một dân tộc mà thôi. Cho nên không thể gọi 
                              người Chàm, người Hoa, người Khmer hoặc các bộ tộc 
                              vùng cao là dân tộc thiểu số như chúng ta đă lạm 
                              dùng sai sót trong quá khứ và VC đang sử dụng để 
                              mị dân. Theo đúng nghĩa của phương tây, danh từ 
                              Dân Tộc (nascere), đă được Isodore de Séville, 
                              sống trong thế kỷ thứ VII (STL), định nghĩa là một 
                              cộng đồng sắc tộc, gồm những nhóm người có chung 
                              nguồn gốc, hay nhiều nhóm khác nhau qua thời gian 
                              pha trộn, đă cùng sinh hoạt chung trên một mảnh 
                              đất nhất định. Sau này danh từ Dân Tộc được đồng 
                              nghĩa với Tổ Quốc (Patria), để gọi tất cả mọi 
                              người đang sống chung trên một lănh thổ. Tóm lại 
                              Dân Tộc VN ngày nay có ba họ chủng tộc khác nhau 
                              cấu thành, đó là người Kinh, người Hoa và tập hợp 
                              những sắc tộc miền cao, kể cả người Chàm và Khmer 
                              ở Nam Phần.
  Hội nhập và đồng hóa là hai vấn 
                              đề hoàn toàn khác nhau. Ngoại trừ người Thượng Bắc 
                              phần hay Cao nguyên Trung phần, từng được chính 
                              quyền VN bao đời coi như dân bản địa. Các sắc dân 
                              Chàm, Khmer và Minh Hương đă hội nhập trong dân 
                              tộc VN nhưng không hề bị đồng hóa, như một vài 
                              người mang thù hận truyền kiếp, đă cố t́nh bóp méo 
                              vấn đề, bằng cách viết nói lẫn lộn để cho người 
                              khác phải hiểu sai, rồi kết luận người VN bao đời 
                              đều dùng chính sách đồng hóa để phát triển cộng 
                              đồng. Từ những dẫn chứng thực tại của quốc gia hợp 
                              chủng VN mà quyền hành bao đời vẫn theo trung ương 
                              tập quyền, dù triều đ́nh, chính phủ, nhà vua có 
                              đóng ở Thăng Long, Thuận Hoá hay Gia Định, tất cả 
                              cũng đều do lệnh vua ban truyền, tuy nói chơi "lệ 
                              làng hơn phép vua".
  Nhưng Chiêm Thành th́ 
                              sao? Vẫn có tập quyền nhưng chỉ thu gọn trong một 
                              thiểu số làng mạc cùng chung thị tộc hay gần gũi 
                              với chính quyền mà thôi. Điều này cũng đâu lạ, v́ 
                              Chiêm Thành ảnh hưởng sâu đậm An Độ giáo cũng như 
                              phỏng theo nền chính trị của nước này. Bởi vậy xă 
                              hội Chàm gồm bốn giai cấp: Brahman (tăng lữ Bà La 
                              Môn), Kshatriya (quư tộc), Vaishya (thường dân bao 
                              gồm thương gia, điền chủ, những người giàu có) và 
                              Shudra (tiện dân). Ngoài ra v́ là một dân tộc hợp 
                              chủng nhưng thay v́ chịu chấp nhận là một dân tộc 
                              duy nhất Chiêm Thành, để phục vụ cho tổ quốc, 
                              người Chiêm do tính chất cách biệt địa lư, nguồn 
                              gốc, ngôn ngữ, nên họ đă coi lệ làng hơn phép nước 
                              trong mỗi sắc tộc, thị tộc riêng lẽ. 
  Chỉ 
                              riêng người Chàm cũng đă chia rẽ gay gắt, nhất là 
                              giữa hai thị tộc mạnh nhất Cây Cau (Kramukavamca) 
                              thống trị miền nam tại 2 châu cũ chiếm của Phù Nam 
                              là Kauthara và Panduranga. C̣n thị tộc Cây Dừa 
                              (Narikelavamca) ở phiá bắc tại châu Indrapula. Do 
                              trên ta có thể khẳng định là các bộ tộc sinh sống 
                              trên cao nguyên, trong đó có người Churu, Roglai, 
                              Rhadé, Jara .tuy cùng sử dụng chung ngôn ngữ 
                              Malayo-Polynésien với người Chàm, nhưng luôn luôn 
                              tự trị, chống đối Chiêm Thành, kể cả ba thế kỷ bị 
                              đô hộ.
  Nói chung nội bộ nước Chiêm Thành 
                              luôn luôn ẩn chứa những mầm phản loạn, và v́ vậy 
                              khi vua chúa nào bị thua trận hay thất sủng, là bị 
                              quyền thẩn giết ngay để dành ngai vua và đất nước, 
                              kể cả vị vua anh hùng nhất của nước này là Chế 
                              Bồng Nga, cũng không được ngoại lệ. T́nh trạng 
                              mạnh được yếu thua này rất phổ quát trong thời 
                              phong kiến và quân chủ, ngay tại Trung Hoa và Đại 
                              Việt cũng từng có nhưng chỉ là họa hoằn, chứ không 
                              gần như là cơm bữa tại quốc gia này. Trong thượng 
                              tầng kiến trúc chính quyền, trung tâm đầu năo của 
                              quốc gia, thời nào cũng chỉ dành riêng cho thiểu 
                              số tăng lữ và quư tộc nhưng họ luôn chỉ nghĩ tới 
                              quyền lợi của ḍng họ và tộc đẳng ḿnh mà thôi. 
                              Chiếm tỷ lệ dân số đông đảo trong nước, vẫn là hai 
                              thành phần thường dân và tiện dân, nhưng họ chỉ là 
                              những công cụ của thiểu số cầm quyền, phải đi 
                              lính, sản xuất, xây cung điện, đền đài khắp nơi để 
                              thờ phụng đủ thứ thần linh trong nguồn tín ngưỡng 
                              mà vua chúa chấp nhận.
  Rồi thay v́, dùng 
                              nguồn lợi của quốc gia để lo cho đời sống dân 
                              chúng, cải tiến phong tục xă hội, đem nền văn minh 
                              văn hiến của dân tộc thu nhập, phổ biến, giáo dục 
                              cho mọi người, mọi thế hệ, để họ cùng mở mang kiên 
                              thức, thăng tiến trong ḍng văn minh lịch sử nhân 
                              loại để ai cũng có quyền lợi hưởng và nhận chịu 
                              trách nhiệm khi đất nước lâm nguy, cần tới. Nhưng 
                              Chiêm Thành th́ hoàn toàn đi ngược lại, tiền bạc 
                              chỉ dùng để xây kinh đô, thánh địa, mua sắm quân 
                              cụ vũ khí để đánh nhau. Bắt dân đi lính không phải 
                              để bảo vệ tổ quốc, mà là giúp vương triều mở rộng 
                              lănh thổ, thu chiến lợi phẩm cùng tù binh, tạo 
                              thêm ưu thế cho tộc đẳng đương quyền.Bởi vậy, dân 
                              chúng trong nước chỉ thấy ḿnh làm nô lệ cho vua 
                              quan mà thôi, chứ khồng hề nghĩ tới dân tộc, tổ 
                              quốc, nên khi có chuyện th́ bỏ chạy và ít lo tới 
                              chế độ ḿnh đang hiện hữu. Đây chính là nguyên 
                              nhân nội tại, khiến Chiêm Thành bị suy thoái v́ 
                              chia rẽ sắc tộc, thế cấp và rắn mất đầu mỗi khi có 
                              biến loạn, mà lần cuối cùng vào thế kỷ XV, vua Lê 
                              Thánh Tôn chiếm kinh đô Chà Bàn, chia ba Chiêm 
                              quốc, khiến cho giới tri thức, khoa bảng lănh đạo 
                              bị tan ră v́ chết, trốn ra ngoại quốc, trong nước 
                              thiếu nhân tài để tiếp tục lèo lái con thuyền quốc 
                              gia đang trong cơn băo tố, sóng dữ sắp 
                              ch́m.
  Cũng phải nói tới thể diện con người, 
                              ta biết người Chàm theo chế độ mẫu hệ, quyền hạn 
                              trong gia đ́nh đều do phụ nữ chi phối và nắm giữ, 
                              người đàn ông luôn cảm thấy ḿnh mất tự do. Ngoài 
                              xă hội, tuyệt đại dân chúng thuộc giai cấp tiện 
                              dân, bị áp bức bóc lột. Nên gặp lúc được tự do, ho 
                              đă dễ dàng hướng ngoại, làm cho đất nước càng lúc 
                              càng thiếu nhân lực. Trong nước lúc nào cũng có 
                              chiến tranh, đất ruộng vườn tược giao phó cho đàn 
                              bà và những người lớn tuổi, nên họ làm sao kham 
                              nổi, bởi vậy lănh thổ hầu hết như bị bỏ hoang. 
                              Ngân sách, tài nguyên đều dùng để xây cất cung 
                              điện, thánh tích và quân sự. 
  Những lần 
                              thắng trận th́ lấy chiến lợi phẩm đă cướp, để bù 
                              đắp hoặc tổ chức những đám cướp biển. Nhu cầu này 
                              cũng cạn kiện dần ṃn khi đế quốc Hồi giáo hùng 
                              mạnh, khống chế toàn bộ con đường tơ lụa trên An 
                              Độ Dương và biển Đông, đă bị các nước phương tây 
                              làm sụp đổ. Từ đó quyền lợi kiếm được từ nguồn hải 
                              khấu của Chiêm Thành cũng chấm dứt, v́ thuyền nước 
                              này nhỏ bé, vũ khí lại thô sơ, làm sao chọi nổi 
                              với thương thuyền to chắc của Bồ, Y Pha Nho, Pháp, 
                              Anh Cát Lợi, Ḥa Lan...có trang bị hỏa lực hùng 
                              hậu. 
  Về những trách móc, thù hận hay dư 
                              luận cho rằng Đại Việt tiêu diệt Chiêm Thành để 
                              cướp nước, qua hiện tượng biểu kiến của cuộc Nam 
                              Tiến. Sự kiện này ngày nay đă được giải tỏa ẩn ức, 
                              không phải do người Việt Nam tự biện bạch để chạy 
                              tội, mà chính là những trang lịch sử c̣n lưu lại 
                              của các nước Đông Nam Á, có liên hệ tới Chiêm 
                              Thành. Nói theo kinh Phật, th́ tất cả đều là nhân 
                              quả, thiện ác nhăn tiền, người Chàm lúc nào cũng 
                              nuôi hận thù trong tâm, nên thường đem quân khi 
                              th́ đường bộ, lúc dùng thuyền bè, tấn công hết 
                              nước này tới xứ khác, và ngược lại họ cũng phải bị 
                              nạn nhân trả thù, chống chọi để giữ mạng, giữ 
                              nước. Với Phù Nam th́ cướp hai châu và tấn công 
                              luôn Chân Lạp, tàn phá Đế Thiên, Đế Thích (Angkor 
                              Wat, Angkor Thom) vào năm 1177 bởi vua Chàm là 
                              Jaya Indravarman IV. Sau đó Chân Lạp phản công, đô 
                              hộ Chiêm Thành, cũng tàn phá hết các công tŕnh 
                              xây dựng từ kinh đô cho tới thánh tích. 
                              
  Tháp Bà Po Nagar tại Kauthara, bị Chân Lạp 
                              phá huỷ nhiều lần, cho tới khi châu này thành tỉnh 
                              Khánh Ḥa của Đại Việt vào thế kỷ thứ XVII, mới 
                              được người di dân VN, bảo quản và giữ ǵn cẩn 
                              trọng cho tới hôm nay. Ngoài ra, Chiêm Thành cũng 
                              bị người Tàu tàn phá hai lần vào năm 605 và 1282, 
                              người Nam Dương cướp phá vào các năm 774, 787 
                              nhưng tàn bạo nhất vẫn là những sự trả thù dă man 
                              của Chân Lạp trên đất Chiêm Thành vào những năm 
                              950, 1190 và thời gian chiếm đóng từ 1203-1220. 
                              Nói chung theo sử liệu, Đại Việt là nạn nhân nhiều 
                              lần v́ bản chất hiếu chiến của người Chàm nhưng 
                              trên hết, v́ Chiêm Thành là đồng minh của Trung 
                              Hoa, suốt ḍng lịch sử, luôn tấn công công tập hậu 
                              VN. V́ vậy Đại Việt không c̣n lựa chọn nào hơn, là 
                              phải chống lại để tự vệ và giữ nước
  Gây hấn 
                              rồi nhường đất chuộc mạng, bắt đầu từ thời vua Chế 
                              Củ dâng nhà Lư ba châu Địa Lư, Ma Linh, Bố Chính, 
                              được các sử gia coi đó là một sự kiện lịch sử quan 
                              trọng của Chiêm Thành, mở đường cho vua chúa Đại 
                              Việt sau này, coi đó như một yếu tố tất thắng đối 
                              với kẻ chiến bại. Trong 30 năm cầm quyền, Chế Bồng 
                              Nga năm nào cũng đánh phá chém giết người Việt tận 
                              tuyệt, luôn cả kinh thành Thăng Long cũng bị tàn 
                              phá trong ba lần lữa máu. Bởi vậy khi Chàm suy 
                              yếu, Đại Việt lại trả thù phục hận và cũng đă 
                              khiến cho các triều đại VN tỉnh ngộ, quyết ngăn 
                              chận Chiêm Thành, để không c̣n xảy ra tai họa 
                              khủng khiếp trong dĩ văng. Đó là chính sách nam 
                              tiến sau này, được thi hành ôn ḥa qua kế hoạch 
                              dinh điền, mở mang khai phá đất đai bị bỏ hoang ở 
                              biên trấn, sống ḥa lẫn cùng dân bản địa, vừa canh 
                              chừng giặc, vừa sản xuất lương mễ theo đường lối 
                              "ngụ binh ư nông " mà Đại Việt đă khôn ngoan áp 
                              dụng từ khi thu hồi được độc lập. 
  Nước 
                              Chiêm Thành suốt 17 thế kỷ trường tồn, nhờ nền 
                              ngoại thương, ít chú trọng tới nông nghiệp. Mặt 
                              khác chính quyền Chàm lại không có kế hoạch pḥng 
                              thủ khi bế tắc, nên lúc việc buôn bán với nước 
                              ngoài không c̣n thuận lợi, muốn quay lại nông 
                              nghiệp th́ đă muộn màng. 
  Ngoài ra cái thời 
                              người Chàm cứ bỏ đất hoang, để dân Việt tới khai 
                              phá gây dựng, rồi họ trở lại tấn công đoạt lại hay 
                              để kiếm lương thực và chiến lợi phẩm, cũng đă cáo 
                              chung, v́ từ thế kỷ thứ XVI, khi Nguyễn Hoàng vào 
                              tọa trấn Thuận Quảng, ngoài việc xây dựng một quân 
                              đội hùng mạnh, c̣n thành lập những xă thôn trù phú 
                              nơi biên thùy, vừa là tiền đồn cũng là tiền dinh 
                              ngăn chặn các cuộc tấn công. Rốt cục chiến tranh 
                              có xảy ra, cũng chỉ gây tang tóc cho cả hai bên mà 
                              thôi và càng tạo thêm cớ để Đại Việt nam tiến mà 
                              thôi.
  Qua ḍng lịch sử nước nhà, hoặc chính 
                              do người Việt ghi chép lại, hay từ các sử gia 
                              ngoại quốc, hoàn toàn không thấy nói tới sự tàn ác 
                              dă man của quân Việt đối với tù binh hay dân chiến 
                              nạn như người Chàm. Sự việc đă xảy ra suốt ḍng 
                              lịch sử, khi người Việt trên con đường nam tiến, 
                              tới đâu cũng tận t́nh bảo quản những di tích lịch 
                              sử của người Chiêm để lại, đồng thời ḥa đồng với 
                              họ khi đă sống lẫn lộn, tôn trọng tôn giáo riêng 
                              tư của kẻ khác, cho nên nói người Chiêm sau khi 
                              mất nước phải ḥa đồng vào dân tộc VN là đúng, 
                              nhưng bảo người Việt đă diệt chủng và đồng hóa 
                              Chiêm Thành như đă xảy ra dưới thời vua Minh Mạng, 
                              là một bịa đặt không ai tin được.
  Câu hỏi 
                              cuối cùng được đặt ra, là tại sao hơn ba thế kỷ 
                              tiến hóa, tính từ niên lịch 1693 tới ngày nay, 
                              nhân số trong cộng đồng sắc tộc Chàm, vẫn không 
                              thấy gia tăng quá con số 100.000 người, nếu so với 
                              người Minh Hương, Khmer hay cả với các sắc dân 
                              thiểu số cao nguyên? Khó có thể giải thích v́ 
                              người Chàm dù bị vong quốc, họ vẫn tiếp tục sống 
                              với lối khép kín bao đời, theo bản làng thị tộc. 
                              Ngoài ra các giới lănh đạo cộng đồng Chàm, vẫn c̣n 
                              đầu óc phân chia giai cấp, nại lư do bảo tồn văn 
                              hóa truyền thống thị tộc, nghiêm cấm đồng bào ḿnh 
                              hướng ngoại và kết hôn với các thị tộc Chàm khác, 
                              dù đều là người Chiêm Thành. 
  Nay có dịp 
                              nghe lại ca sĩ Chế Linh hát "Hận Đồ Bàn" của Xuân 
                              Tiên, mới biết rơ v́ sao, rừng hoang vu vùi lấp 
                              bao uất hận căm thù, núi trầm cô tịch, đèo cao 
                              thác sâu, ngàn muôn tiếng ngân, âm thầm hoà bài 
                              hận vong quốc ca. Từ đó mới thấy đến bây giờ, mà 
                              sự thù hận giữa hai dân tộc Chiêm-Việt, vẫn c̣n ẩn 
                              ức nơi hồn một thiểu số, v́ chính những người này, 
                              đă không biết tại sao ḿnh phải suy tàn. Tóm lại 
                              Chiêm Thành mất nước là do họ tự đạo diễn. Cuộc 
                              nam tiến của Đại Việt chẳng qua cũng chỉ là một 
                              ngẫu cảm trùng hợp. Sự đụng chạm nếu có trong quá 
                              khứ, chẳng qua v́ cá nhân trong lúc cùng sống lẫn 
                              lộn, hay trường hợp vua Minh Mạng đối xử gay gắt 
                              với cá nhân những người Chàm tại B́nh Thuận, có 
                              liên hệ tới cuộc phản loạn của Lê văn Khôi năm 
                              1851 tại thành Gia Định, đều là vấn đề ngoại lệ 
                              của lịch sử.
  Ngày nay Chiêm Việt ḥa đồng, 
                              đồng bào Chàm chỉ mất có triều đ́nh nhưng giữ lại 
                              gần như đầy đủ các công tŕnh sáng tạo tại các 
                              đền, chùa, thánh tích nổi tiếng của dân tộc ḿnh ở 
                              điện Ngọc Trản (Huế), thánh tích Mỹ Sơn, Đồng 
                              Dương, Tháp Bà, Ninh Thuận và B́nh Thuận. Sau rốt 
                              nền văn minh Chiêm Thành vẫn tồn tại qua mọi lănh 
                              vực văn hóa, nghệ thuật, kể cả tín ngưỡng của 
                              người Việt Trung Phần, đó không phải là một hănh 
                              diện hay sao? Thời VNCH (1955-1975), chính phủ có 
                              một bộ phát triển sắc tộc, dành riêng cho các sắc 
                              dân thiểu số trong đó có người Chàm. 
  Ngay 
                              từ thời Pháp thuộc, vua Bảo Đại có ban hành bộ 
                              luật Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật, nhưng vẫn cố 
                              tránh làm đảo lộn nếp sống cổ truyền của đồng bào 
                              thiểu số, trong đó có người Chàm, nên đả ban hành 
                              thêm đạo luật số 51 ngày 25-5-1943 với đặc ân cho 
                              người thiểu số, trong đó có Chàm khỏi thi hành. V́ 
                              vậy cho nên với pháp luật thời đó, chỉ áp dụng 
                              luật Chàm để xử họ và tôn trọng chế độ mẫu hệ bao 
                              đời. 
  Thời VNCH (1955-1975), tại các tỉnh 
                              Ninh Thuận và B́nh Thuận có đông người Chàm cư 
                              ngụ. Trong sự tế nhị và nâng đỡ, chính phủ đă bổ 
                              nhiệm các quận trưởng và phó quận, phần lớn là 
                              người Chàm, để dễ dàng hành sử với đồng bào của 
                              họ, v́ các Quận Trưởng Chàm đều kiêm nhiệm chánh 
                              án ṭa sơ thẳm trong vùng. Ngày nay đọc lại danh 
                              sách các viên chức hành chánh cao cấp của tỉnh 
                              B́nh Thuận, tính đến ngày 30-4-1975, ta mới thấy 
                              t́nh người giữa Việt-Chiêm, thật ấm áp và đầy ư 
                              nghĩa.
  - Quận Trưởng Phan Lư Chàm: Thiếu Tá 
                              Đặng Chánh Anh. Phó QT là đốc sự Ya Pha (c̣n sống 
                              tại VN).
  - Quận Trưởng Hàm Thuận: Trung Tá 
                              Dụng văn Đối. 
  - Quận Thiện Giáo: Phó QT, 
                              đốc sự Nguyễn Trọng Chống (c̣n ở VN).
  - 
                              Quận Hải Ninh: Phó QT, đốc sự Đắc Hữu Thiên (ở 
                              Mỹ).
  - Quận Tuy Phong: Phó QT, đốc sự Lâm 
                              Quang Chân (đă chết trong tù cải tạo VC).
  - 
                              Quận Hải Long: Phó QT, đốc sự Mai Tường (ở 
                              Mỹ).
  - Đác văn Kiết, Tham sự hành chánh, 
                              Trưởng Ty Phát triển sắc tộc B́nh Tuy.
  - 
                              Nhiều Sĩ Quan giữ các chức vụ quan trọng tại 
                              TK.B́nh Thuận, Ninh Thuận. Nổi tiêng nhát tại địa 
                              phương, có ai sánh nổi Thiếu Tá Thô Thêm, Tiểu 
                              Doàn Trưởng TD 230 DPQ/BT hay Đại Uư Đặng Phiên, 
                              DDT/DPQ đă cùng với một số sĩ quan DPQ. B́nh 
                              Thuận, trong đó có Đại Uư Nguyễn Văn Ba, Cựu học 
                              sinh Trung Học PBC, xuất thân sĩ quan Lực Lượng 
                              Đặc Biệt, đă mất tích, trong khi vượt traị tù VC ở 
                              Lương Son, quận Ḥa Đa, B́nh Thuận.
  - Nhiều 
                              công chức, cán bộ và giáo chức..
  Tất cả 
                              những viên chức trên đều là người 
                              Chàm.
  Những cái nh́n tiêu cực đầy thiên vị 
                              và không phân biệt được trắng đen của một ít người 
                              khi viết những trang sử cận đại, xét cho cùng một 
                              phần do sự mâu thuẩn địa phương, mà thời nào cũng 
                              có trong xă hội người Việt. Ngoài ra, đây cũng là 
                              hậu quả tất yếu của 100 năm Pháp thuộc và trên hết 
                              là chính sách mị dân đầy chất cải lương của Việt 
                              Cộng, mà mặt thật là để khuếch đại, phô trương cái 
                              đỉnh cao vượn khỉ của đảng, hầu bôi bác, đạp đổ 
                              công lao mở nước của tiên nhân nước Việt bao 
                              đời.
  Giờ th́ Kinh Thượng đều là một nhà VN, 
                              đang nai lưng gánh chịu tất cả oan khiên trời đau 
                              biển hận, trong thiên đàng xă nghĩa suốt mấy chục 
                              năm qua. Đó mới chính là niềm đau nhân thế của 
                              kiếp người, khi nghĩ tới tương lai của con cháu 
                              của bất cứ ai, đang sống trong căn nhà VN không 
                              biết sẽ về đâu. Nên phải đoàn kết mới mong quang 
                              phục lại đất nước đang đắm ch́m trong nô lệ chủ 
                              nghĩa , có như vậy mới mong t́m lại những ngày xưa 
                              thân ái tại B́nh Thuận, mới chỉ nhớ tới, cũng đă 
                              ngậm ngùi /-
  Xóm Cồn
  Tháng hai 
                              2006
  MƯỜNG 
                        GIANG  |