Tranh dân gian
19/2/2009
11:18:38 AM
Tranh dân gian gồm hai loại,
tranh Tết và tranh thờ. Tranh
dân gian có nguồn gốc từ rất xa
xưa được giữ ǵn, bảo tồn và
phát triển qua các giai đoạn
lịch sử của đất nước. Tranh dân
gian không những là tài sản
riêng của các làng tranh mà c̣n
là tài sản chung của cả dân tộc.
Việt Nam với tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên và nhân hoá các hiện
tượng thiên nhiên thành các vị
thần nên cùng với tranh Tết,
tranh thờ cũng có rất sớm. Cả
hai đă trở thành nhu cầu của nếp
sống văn hoá, là thành tố của mỹ
thuật cổ truyền và hợp thành văn
hoá truyền thống của dân tộc.
Do nhu cầu của tục chơi tranh
Tết và thờ cúng, tranh dân gian
phải có số lượng lớn nên người
Việt Nam từ lâu đă biết đến kỹ
thuật khắc ván để in. Vào thời
Lư (thế kỷ 12) đă có những gia
đ́nh chuyên làm nghề khắc ván.
Cuối thời Trần đă in được tiền
giấy. Đến thời Lê Sơ lại tiếp
thu thêm kỹ thuật khắc ván in
của Trung Quốc và cải tiến thêm
một bước nữa. Cũng từ đây, trong
ḍng chảy của mỹ thuật truyền
thống - dân gian bắt đầu có sự
phân hóa để ngày càng phát triển
đậm nét.
Trong bối cảnh đó, đến thời Mạc
(thế kỷ 16) tranh dân gian phát
triển khá mạnh, được cả các tầng
lớp quư tộc ở kinh thành Thăng
Long sử dụng vào dịp Tết mà bài
thơ Tứ thời khuê vịnh của nhà
thơ đương thời Hoàng Sơ Khải đă
xác nhận sự hiện diện của các
loại tranh thờ, tranh gà và
tranh Tố nữ:
"Chung Quỳ khéo vẽ nên h́nh
Bùa đào cấm quỷ, pḥng linh ngăn
tà
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương"
Đến thế kỷ 18 -
19 tranh dân gian Việt Nam đă ổn
định và phát triển cao. Bảo tàng
Lịch Sử (Hà Nội) c̣n giữ được những
ván khắc từ thời Minh Mạng thứ 4 (tức
1823). Địa bàn làm tranh dàn trải
trong cả nước. Dựa theo phong cách
nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên
vật liệu làm tranh, có thể quy về
một số ḍng tranh gọi theo tên những
địa danh sản xuất.
Mỗi ḍng tranh có một phong cách
riêng, song tất cả đều được dựng
h́nh theo kiểu "đơn tuyến b́nh đồ"
dùng nét khoanh lấy các mảng màu và
bao lại toàn h́nh. Với lối dựng h́nh
"thuận tay hay mắt", tranh dân gian
không phụ thuộc vào viễn cận một
điểm nh́n mà được diễn tả theo lối
quan sát di động với nhiều góc độ
khác nhau. Thần thánh luôn được vẽ
to ở giữa, phía trên, c̣n người b́nh
thường th́ sàn sàn nhau, con vật và
cảnh sắc th́ tuỳ tương quan mà vẽ to
hay nhỏ để bức tranh gây ấn tượng
sâu sắc.
Trong giao lưu văn hoá, tranh dân
gian Việt Nam vừa phát triển những
vốn quư của các thời trước tích tụ
lại, vừa tiếp nhận những tinh hoa
của các ḍng tranh khác để rồi khẳng
định những ǵ thích hợp với dân tộc,
làm phong phú hơn bản sắc của ḿnh.
Ngày nay, tranh dân gian đă bị tranh
hiện đại lấn át, hầu hết đă thất
truyền. Tuy nhiên, có một ḍng tranh
vẫn c̣n tồn tại trước những thử
thách của thời gian, như tranh Đồng
Hồ. Ḍng tranh này không những có
chỗ đứng ở trong nước mà nó đă và
đang có mặt ở nhiều nước trên thế
giới như Nhật, Pháp, Mỹ...
Tranh Đông Hồ
"Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh th́ về
Làng Mái có lịch, có lề
Có sông tắm mát, có nghề làm
tranh"
Đó là câu ca xa
xưa của một làng nhỏ nằm ven bờ nam
sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh, thuộc
Kinh Bắc xưa.
Người dân làng Hồ
khi nhớ đến câu ca dao ấy, ḷng thấy
tự hào về nghề tranh của ḿnh đă một
thời hưng thịnh, kéo dài từ cuối thế
kỷ 17 đến nửa thế kỷ 19. Trải qua
bao thời loạn ly, tranh vẫn được duy
tŕ, tồn tại đến ngày nay. Tranh
Đông Hồ, từ tranh vẽ đến tranh in
thủ công, đều mang một phong cách
riêng. Từ các khâu như vẽ mẫu, khắc
bản in, sản xuất và chế biến màu rồi
đến in vẽ tranh, đều có những khác
biệt hợp thành cái độc đáo về kỹ
thuật, mỹ thuật của một ḍng tranh.
Màu in tranh ở đây được chế biến từ
nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên:
màu trắng từ ṣ, điệp; đen từ than
rơm hay lá tre; hồng từ gỗ vang; đỏ
từ son; xanh từ gỉ đồng; lam từ lá
chàm; vàng từ hoa hoè, quả dành dành...
Kỹ thuật pha màu và in của tranh
làng Hồ tạo cho sắc tranh trong sáng,
óng xốp.
Về đề tài của tranh khá phong phú,
nó phản ánh những sinh hoạt, quan hệ
xă hội ở nơi thôn dă và luôn được
thay đổi hay bổ sung. Thời phong
kiến có tranh cóc, chuột, hái dừa,
đánh ghen, khiêng trống, đánh vật...
Thời Pháp thuộc có cóc Tây múa kỳ
lân, văn minh tiến bộ, phong tục cải
lương, nhảy đầm... Đến thời kỳ kháng
chiến có Việt Nam độc lập, sản xuất
tự túc, b́nh dân học vụ, rồng lửa
Thăng Long, bắt sống giặc lái máy
bay, được mùa lúa xuân, lúa ngô
khoai sắn, Bác Hồ về thăm làng...
Ngày trước, cứ đến Tết dường như nhà
nào ở nông thôn vùng Bắc Bộ cũng có
một vài tờ tranh Đông Hồ, nó làm
bừng sáng những căn nhà đơn sơ, thấp
bé nhưng là tổ ấm của gia đ́nh. Bức
tranh ngày tết cùng góp vui và reo
lên những tiếng cười trong trẻo
trong cuộc sống khốn khó của người
dân thôn quê Việt Nam. Tranh Đông Hồ
phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng và
những ước mơ b́nh dị, gần gũi với
cuộc sống đời thường của người dân.
Những nghệ nhân vẽ tranh cùng cảnh
nghèo khó như bao người dân lao động
nghèo khó khác. Do vậy tranh ở đây
thật sự đă gây được ấn tượng sâu sắc
và sự hâm mộ của họ. Có lẽ v́ thế mà
tranh được sản xuất, bán ra khá
nhiều và rộng khắp từ các chợ làng
quê đến thành thị ở mọi miền đất
nước. Năm này qua năm khác, sau mỗi
mùa gặt hái, người ta lại nhắc nhở
nhau:
"Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng sáu tháng chạp nhớ về
buôn tranh"
Tranh Hàng Trống
Ḍng tranh Hàng Trống phát triển ở
các phố Hàng Trống, Hàng Nón (Hà Nội).
Cách diễn h́nh tinh vi, phong phú
trong khuôn khổ bức tranh và trong
nhiều loại tranh. Khuynh hướng tranh
trục cuốn phương Đông được sử dụng
mạnh mẽ nhằm tạo không gian có nhiều
mảng trống, gợi cảm và thanh cảnh
theo thị hiếu của dân thành thị.
Tranh Hàng Trống nét mảnh, tinh, yểu
điệu. Do sử dụng được mầu phẩm nên
hoà sắc của tranh Hàng Trống rất
phong phú, gợi được khối của không
gian. Mầu thường là lam - hồng, có
thêm lục - đỏ, da cam - vàng. Mầu
phẩm tô bằng tay sau khi đă in các
nét đen, pha ít hay nhiều nước mà có
màu đậm nhạt. Tranh chỉ tạo khối ở
nhân vật, không có khái niệm về
không gian xa, gần.
Các tác phẩm tranh dân gian nổi
tiếng như: Lư ngư vọng nguyệt, Thất
đồng, Ngũ hổ, Tố nữ; bộ tranh truyện:
Hoa Tiêu, Kiều... bộ tranh về cảnh
dạy học, cảnh nhà nông hay các kiểu
khác: canh, tiều, ngư, mục (nhà nông,
tiều phu, đánh cá, chăn trâu); các
tranh thờ: Tam toà Thánh Mẫu, Phật,
Tứ phủ, Ngọc hoàng... làm cho ḍng
tranh có thể sánh ngang với bất cứ
ḍng tranh đồ hoạ danh tiếng nào.
Ước vọng hạnh phúc và dùng nhiều mô
típ tượng trưng, màu sắc tươi sáng,
nội dung vui vẻ, ngộ nghĩnh, đơn
giản hoá các khái niệm triết học là
tinh thần chính của ḍng đồ hoạ trên,
tranh thường được bán vào các dịp
tết âm lịch. Hành nghề có tính
phường thợ, cha truyền con nối.
Tranh Kim Hoàng (xă Vân canh,
Hoài Đức - Hà Tây)
Bên cạnh hai ḍng tranh Đông Hồ và
Hàng Trống, ḍng tranh Kim Hoàng
phát triển từ thế kỉ 18 đến thế kỉ
19. Sự hợp nhất hai làng Kim Bảng và
Hoàng Bảng thành Kim Hoàng tiến tới
xây dựng đ́nh chung "Trưởng bảng hội
đ́nh" vào ngày 3-2 năm Chính Hoà thứ
22 (1701), cũng có lẽ chuẩn bị cho
bắt đầu của nghề in tranh trong làng.
Hàng năm, người Kim Hoàng làm tranh
từ rằm tháng một (tháng 11 âm lịch)
đến giáp tết, thoạt đầu th́ cúng tổ
nghề. Các ván in do một chủ phường
có tài năng vẽ và khắc. Sau ngày giỗ
tổ mới phát cho các gia đ́nh. Trong
quá tŕnh in họ trao đổi ván cho
nhau. Hết mùa tranh họ lại giao ván
cho các chủ phường khác cất giữ.
Tranh Kim Hoàng cũng đủ loại tranh
thờ cúng, chúc tụng như một số ḍng
tranh khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng
Trống). Nhưng tranh Kim Hoàng lại
kết hợp được nhiều ưu điểm của hai
ḍng tranh đó. Tranh Kim Hoàng có
nét khắc thanh mảnh, tỷ mỉ hơn tranh
Đông Hồ; màu sắc tươi như tranh Hàng
Trống. Về màu, tranh Kim Hoàng dùng
mực tàu, trắng là thạch cao, phấn;
chàm, xanh chàm từ mực tàu hoà với
nước chàm và các màu hoá học. Giấy
in không quét điệp như tranh Đông Hồ,
cũng không dùng giấy xuyến như tranh
Hàng Trống mà in trên giấy màu đỏ,
giấy hồng điều, giấy tàu vàng. Tranh
lợn bột in h́nh con lợn ḿnh đen,
viền trắng cách điệu rất ngộ nghĩnh
giống như những con lợn đất bán ở
chợ, trên nền giấy đỏ tạo một vẻ đẹp
riêng gây ấn tượng mạnh mẽ của tranh
Kim Hoàng.
Tương truyền, ḍng họ Nguyễn Sĩ là
ḍng họ làm tranh sơ khởi người
Thanh Hoá theo mẹ ra Thăng Long rồi
lập nghiệp ở đây. Trận lụt năm 1915
làng mạc ngập trắng từ Phùng đến Cầu
Giấy, cuốn trôi nhiều ván in tranh
của làng. Tranh Kim Hoàng dần bị
thất truyền, đến năm 1945 th́ hoàn
toàn không c̣n sản xuất nữa. Ngày
nay, một vài ván in của ḍng tranh
này c̣n được lưu giữ ở bảo tàng Mỹ
Thuật Việt Nam.
Tranh làng Śnh
Làng Śnh có tên
chữ là Lại Ân thuộc tổng Hoài Tài,
huyện Tư Vang, phủ Triệu Phong, xứ
Thuận Hoá, Phú Vang. Làng nằm ở ven
bờ Nam hạ lưu sông Hương, cách Huế
không xa (bên kia sông Bảo Vĩnh).
Làng Śnh nổi tiếng về hội vật mùng
mười tháng giêng. Nhưng làng Śnh
c̣n nổi tiếng về một nghề làm tranh
thờ in ván khắc. Trước kia hầu hết
tranh thờ in ván bày bán ở chợ vùng
này là do dân làng Śnh làm, nên gọi
là "tranh Śnh".
Thời hưng thịnh của tranh Śnh,
những người trong các gia đ́nh ở đây
đều biết in và tô màu cho tranh.
Tranh làm ra bán buôn ngay tại nhà
hoặc bán cho hàng mă ở chợ, có khi
được đặt từ trước. Giấy in tranh là
giấy mộc, màu trước kia lấy màu từ
tự nhiên (thực vật, kim loại, ṣ
điệp), sau là phẩm hoá học gồm các
màu cơ bản đỏ, vàng, xanh và đen.
Bản khắc từ gỗ mít. Tranh ở đây in
lối ngửa ván rồi dùng tay vuốt giấy
cho phẳng, in lấy một nét và mảng
đen, sau dựa vào đấy mà tô màu. Một
số tranh in đen xong là hoàn chỉnh.
Tranh Śnh chủ yếu là tranh thờ,
tranh cúng lễ phục vụ tín ngưỡng dân
gian. Tranh làng Śnh có khoảng 50
đề tài khác nhau, phản ánh tín
ngưỡng cổ sơ, tư tưởng của người
Việt cổ trước một thiên nhiên hoang
sơ, thần bí. Cuộc sống của con người
bị chi phối bởi nhiều tai hoạ nên họ
cần đến sự che chở của thần linh.
Người ta cúng tranh để cầu mong
người yên, vật thịnh, phụ nữ sinh nở
được "mẹ tṛn con vuông", trẻ nhỏ
mau lớn, người ốm chóng khỏi...
Bên cạnh ư nghĩa thờ cúng, tranh
Śnh c̣n khắc hoạ bằng h́nh ảnh sinh
động những sinh hoạt văn hoá, xă hội,
lao động. Nhóm tranh muông thú rất
gần gũi với mọi nhà (lợn, ngựa, voi...),
các đồ vật quen thuộc (chậu, hoa,
thuyền bè...). Tranh Śnh đơn giản
nhưng đẹp một cách b́nh dị, tự nhiên.
Một trong những đề tài khá phổ biến
và đẹp là bộ tranh tố nữ, mỗi bức vẽ
một cô đứng biểu diễn một loại nhạc
cụ. Trang phục của các cô đều giống
nhau là áo "mă tiên", áo trắng dài
mặc trong, áo cánh màu bận ngoài,
mầu áo có thể thay đổi khi tô màu
sao cho vui.
Tranh làng Śnh nặng về tính chất
thờ cúng, chưa đáp ứng được yêu cầu
thưởng ngoạn của dân gian, chưa phản
ánh được niềm lạc quan, yêu đời như
tranh tết, tranh sinh hoạt Đông Hồ.
Tranh làng Śnh đă bị thất truyền từ
lâu, nhưng dẫu sao th́ nó đă có một
thời gần gũi với bao gia đ́nh ở miền
Trung.
(Nguồn:
unesco-cep.org.vn)
|