Di Chỉ Khảo cổ học Giồng Nối (Bến Tre)
Trần Anh Dũng
Thật khá
hiếm hoi khi có một di chỉ khảo cổ học làm thay đổi nhận
thức về lịch sử của một vùng đất, nhận thức của các nhà khoa
học ở nhiều lĩnh vực khác nhau, đă đặt ra nhiều vấn đề cần
nghiên cứu sâu hơn về địa chất, môi sinh cổ, văn hoá thời
tiền ÓC EO, về chủ nhân của vùng đất ấy. Di chỉ khảo cổ học
Giồng Nổi là một trong số đó. Giồng Nổi là di chỉ Khảo cổ
học có niên đại sớm nhất cho tới thời điểm này được phát
hiện ở Bến Tre. Những kết quả khai quật ở Giồng Nổi có ư
nghĩa hết sức to lớn không chỉ đối với tỉnh Bến Tre mà c̣n
đối với cả nước.
Việc phát
hiện và khai quật di chỉ Giồng Nổi có thể được xem là một
trong những thành tựu khảo cổ học quan trọng nhất của ngành
khảo cổ học Việt Nam trong mấy năm trở lại đây, bởi phát
hiện này khiến cho nhiều nhà khoa học phải xem xét lại những
vấn đề về lịch sử h́nh thành, kiến tạo của tỉnh Bến Tre. Di
chỉ này cũng gây nên sự ngạc nhiên, hứng thú, hấp dẫn
đối với giới nghiên cứu Khảo cổ học nói riêng và các nhà
nghiên cứu văn hoá, dân tộc học, xă hội học nói chung. Từ
ḷng đất của Giồng Nổi, đă phát hiện được một khối lượng di
vật, nhưng quan trọng hơn là những yếu tố, đặc trưng văn hoá
mới, lạ, phong phú, đa dạng lần đầu tiên được biết đến, làm
cơ sở cho việc xây dựng nên khái niệm về một văn hoá khảo cổ
mới.
Di chỉ
Giồng Nổi – Nơi có một làng cổ cách ngày nay 2500 – 2000 năm
– Vốn là một giồng đất cao được thành tạo từ khá sớm, cách
thành phố Bến tre 500m về phía Tây, nơi có di tích cổ được
phát hiện, chủ yếu nằm trong phần đất nhà ông Đoàn Quang Trứ,
thuộc ấp B́nh Thành, xă B́nh Phú, Thành phố Bến Tre. Giồng
Nổi được Bảo tàng tỉnh Bến Tre và Viện khảo cổ học Việt Nam
phát hiện vào cuối năm 2003, tính đến năm 2006, đă có 3 cuộc
khai quật di chỉ này, với diện tích khai quật là 437m2.
Về địa
tầng,
Giồng Nổi và các di tích cùng thời ở Long An và một số nơi ở
đồng bằng sông Cửu Long, tầng văn hoá đều nằm trên nền sinh
thổ là lớp sét chớm latơrit hoá và lớp cát màu trắng xám bạc.
Tài liệu về địa chất của Bến Tre và đồng bằng
Nam bộ cho hay “ cách ngày nay khoảng
3000 năm, trên phạm vi đồng bằng
Nam bộ nói chung và Bến Tre
vẫn c̣n ngập trong nước biển sâu ở độ sâu +3000m so với mực
nước biển hiện tại. Đến cách ngày nay khoảng 2500 năm, biển
lần nữa lùi xuống mức +2m so với ngày nay. Dấu ấn đường bờ
biển của giai đoạn này được xác định ở Sóc Trăng, Trà Vinh,
Mỏ Cày và Bến Tre dưới dạng các giồng cát “ (Nguyễn Ngọc
Hoa, Lê Ngọc Lệ - Bài tham luận tại hội thảo về kết
quả khai quật di chỉ Giồng Nổi). Như vậy, trước thời
điểm 2500 năm - 2700 ± 70 - 80 năm cách ngày nay, hệ thống
giồng sớm nhất ở Bến Tre chưa được h́nh thành. Toàn bộ Bến
Tre c̣n ch́m dưới nước biển. Các mẫu C14 của các
mẫu trầm tích lấy trong các giồng nằm trong cùng hệ thống
các giồng sớm nhất ở Bến Tre - không hẹn mà trùng hợp với
các mẫu C14 lấy ở ở Giồng Nổi. Niên đại C14
lấy mẫu ở Giồng Nổi là từ 2.220 ± 50 năm đến 2.310 ±
70 năm cách ngày nay. Kết quả C14 ở vùng lân cận
như giồng Trà Vinh là 2500 năm cách ngày nay, với mẫu lấy ở
độ sâu 0,80m. Giồng Nổi có tầng văn hoá nằm dưới lớp đất
latơrít là đất pha nhiều cát, màu trắng bạc. Lớp cát này
cũng xuất lộ ở độ sâu khác nhau: từ 0,63m đến 0,73m, trung
b́nh lớp cát xuất lộ ở độ sâu 0,68m. Điều này có nghĩa là
vào thời điểm đó nhiều khả năng Giồng Nổi có thể đă nổi cao
hơn chút ít so với các giồng khác.
Qua 3 lần
khai quật các nhà khảo cổ học đă phát hiện được các di tích
bếp đắp bằng đất có kết cấu h́nh tṛn, băi nung gốm ngoài
trời, hàng chục vết tích xương cốt động vật mà chủ yếu là
xương heo, xương rùa, một số lượng lớn công cụ sản xuất bằng
đá như ŕu, bôn, đục, một số công cụ bằng sắt, 5 dấu tích
“hố chôn chân cột nhà, hơn 18 dấu tích các đoạn luồng lạch
nước cổ và hố, ô trũng tự nhiên của bề mặt nguyên thuỷ của
giồng.
Tại di
chỉ Giồng Nổi đă thu được gần 50.000 hiện vật, gồm: Đồ gốm,
đồ đá, đồ kim loại (cuộc khai quật lần thứ hai phát hiện
được 4 hiện vật bằng sắt, lần thứ 3 có 1 hiện vật) và đồ
xương (cuộc khai quật lần thứ nhất phát hiện được 3867 mảnh
xương răng động vật và 5 công cụ xương, lần thứ hai: t́m
được 120 kg xương răng động vật, lần thứ ba 119,650 kg xương
răng động vật).
Loại h́nh
đồ gốm rất lạ, rất phong phú nhiều tiêu bản lần đầu tiên
được phát hiện ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mang tính
đặc thù của Giồng Nổi như: đèn gốm, lin ga, lọ h́nh quả doi,
gáo, môi gốm, cốc đáy nhọn có trang trí hoa văn, cốc miệng
loe, núm vung, ṿi gốm, bàn dập hoa văn bằng gốm, tượng rùa
gốm, hạt chuỗi, ṿng gốm, chân đế gốm có trang trí hoa văn
h́nh học…. Hoa văn trang trí trên gốm cũng rất đa dạng với
trên 30 loại hoa văn trang trí và hàng chục biến thể linh
hoạt, biến hoá…
Kết quả
khai quật của cả 3 đợt đă xác định chắc chắn Giồng Nổi là
một làng cổ của một bộ phận dân cư trước thời ḱ h́nh thành
nhà nước Phù
Nam ở vùng đồng bằng sông
cử Long. Làng cổ này có niên đại cách ngày nay khoảng từ
2000 năm đến 2.500 năm. Về mặt văn hoá, đây là giai đoạn
tiệm tiến gần đến sự xác lập nền văn hoá, văn minh đặc
sắc Óc Eo ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Về tổ chức và
thiết chế xă hội, là giai đoạn ngay trước khi nhà
nước Phù
Nam được thành lập.
Trong
khoảng thời gian này, người Giồng Nổi - Những cư dân đầu
tiên của Bến Tre mà hiện chúng ta biết được - Đă có tŕnh độ
phát triển tương đối cao. Họ đă biết sử dụng công cụ kim
loại, đặc biệt là đồ sắt. Trong điều kiện môi sinh không có
đá, quặng kim loại để sản xuất và chế tác công cụ, người ta
đă phải trao đổi để có được đá làm công cụ sản xuất từ vùng
Tây Nam
bộ, Đồng Nai và thậm chí xa hơn là vùng Quảng
Nam. Năm mẫu phân tích
thành phần và nguồn gốc xuất xứ của đá ở Giồng Nổi bằng
phương pháp của khoa học tự nhiên đă cho kết quả như vậy.
Những đồ đá t́m được ở Giồng Nổi, một mặt phản ánh tính tàn
dư, nhưng mặt khác cũng phản ánh t́nh trạng khan hiếm nguyên
liệu trong không gian sinh tồn. Hiện tượng công cụ, đồ trang
sức bằng đá tồn tại dai dẳng không là chuyện lạ. Ngay trong
khu vực này, ở di chỉ G̣ Hàng( Long An) – Một di chỉ cùng
thời với Giồng Nổi; Hoặc muộn hơn là trong các di tích
thuộc giai đoạn Óc Eo, các nhà Khảo cổ học vẫn t́m thấy công
cụ bằng đá được sử dụng trong phạm trù của thời đại đồ sắt.
Môi sinh
của cư dân Giồng Nổi là một giồng đất cứng nổi cao đang diễn
ra quá tŕnh phong hoá. Bề mặt giồng c̣n nhiều hố trũng và
lạch nước nhỏ. Trong phạm vi 150m2 của hố đào năm
2006 đă phát hiện được 18 hố trũng và lạch nước cổ. Xung
quanh giồng là sông lớn, đầm lầy và biển th́ gần hơn bây giờ.
Điều này chúng ta biết được là do đă khai quật được xương
cốt của cua đinh, rùa, cá sấu, cá biển, cá mập. Xung quanh
giồng cũng c̣n có rừng ngập mặn với các loài trăn, rắn lớn,
hổ, heo và một số loại thú rừng khác mà dấu vết của chúng
c̣n lưu lại trong các đống xương sau khi người xưa đă ăn
thịt vứt bỏ như ḱ đà, rái cá, khỉ…
Phương
thức sinh hoạt của họ, ngoài việc săn, bắt thú, đánh bắt cá
và câu cá, trao đổi sản phẩm, chăn nuôi heo…th́ đấu vết của
sản xuất nông nghiệp cũng c̣n phải t́m thêm bằng chứng.
Phong tục
tập quán và các tín ngưỡngcủa thời ḱ này chủ yếu sẽ được
biết đến khi chúng ta t́m thấy các khu mộ táng. Tuy nhiên
việc này c̣n có hạn chế khi chưa tiếp tục khai quật được
phần diện tích c̣n lại của di chỉ Giồng Nổi.
Chế tạo
đồ gốm tại chỗ là một trong công việc thường xuyên của họ.
Đó là những đồ dùng thiết yếu dùng trong sinh hoạt. Các nhà
Khảo cổ học đă phát hiện được hàng loạt nồi gốm dùng trong
đun nấu, trong sinh hoạt đời thường, trong nghi lễ, trong
luyện kim loại; các loại tô, chén, lọ, b́nh, ṿ, ch́ lưới
dùng để đánh cá; Người Giồng Nổi biết làm đẹp bằng những đồ
trang sức bằng gốm như: hạt chuỗi, ṿng đeo tay. Họ đeo bùa
hộ mệnh bằng gốm để cầu may; Nhiều đồ dùng sinh hoạt vẫn
được làm từ chất liệu gốm như đèn, muổng, gáo, quả dọi xe
chỉ, cốc; Trong đời sống văn hoá tinh thần, những con vật
trong môi sinh đương thời là nguồn cảm hứng của họ như rùa,
vật h́nh đầu chim. Đặc biệt là loại hiện vật sinh thực khí
bằng gốm dùng để thờ cúng mong muốn sự b́nh an, sức mạnh và
sự trường tồn mà người ta vẫn gọi là Linga - Yony phát hiện
ở Giồng Nổi, mà cho đến nay chưa nơi đâu có được tiêu bản
nào giống nó.
Đồ gốm
Giồng Nổi đẹp, dưyên dáng, tinh xảo với những đồ án h́nh học,
hoa 4 cánh, lá cây, lá dừa nước, sóng nước, cụm mây nhỏ, mưa
rào …được thể hiện chỉ bằng dụng cụ đơn giản là que, với bố
cục biến hoá, sắp xếp các mô típ hợp lí, được cách điệu hoá
cao, thể hiện một tư duy trừu tượng. Cuộc đào năm 2005 đă
phát hiện được một băi nung đồ gốm ngoài trời và gần đó là 2
bếp h́nh tṛn. Loại h́nh gốm có những món đồ khác lạ đă
khẳng định nét riêng độc đáo của cư dân nơi đây. Cũng từ
những đồ gốm này mà các nhà khoa học đă nhận ra chủ nhân của
chúng là một nhóm cư dân cổ trước thời lập quốc Phù
Nam. Thời ḱ này được các
nhà nghiên cứu Khảo cổ học lịch sử, văn hoá… gọi là thời ḱ
tiền Óc Eo. Khi ấy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có nhiều
nhóm dân cư khác nhau sinh sống độc lập với các tập quán
riêng. Các nhóm cư dân này đă được khảo cổ học phát hiện ra
qua các di chỉ khảo cổ học ở vùng Kiên Giang, An Giang, Đồng
Tháp, vùng Tây Long An, vùng Cần Giờ ( Thành Phố Hồ Chí Minh
)… khi các nhóm này c̣n ở trong các cộng đồng dân cư độc
lập, có bản sắc văn hoá riêng đang tiến dần đến sự hợp
nhất trong một nền văn hóa Óc Eo phát triển cao hơn và cùng
tiến tới thành lập nhà nước Phù Nam ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long và Nam bộ.
Bến Tre
trong khoảng thời gian từ 2.500 năm đến 2.000 năm cách ngày
nay không phải là vùng đóng kín. Những vùng đất đang trong
quá tŕnh nổi lên, bao bọc xung quanh là sông và một mặt là
biển với môi sinh thuận lợi dâng là điểm đến của các nhóm cư
dân ven biển miền Trung. Giao thông thuỷ cùng quan hệ trao
đổi mua bán càng đẩy nhanh quá tŕnh di cư và xích lại gần
nhau hơn của các nhóm cư dân cổ. Càng lùi về xa xưa, giao
thông thuỷ càng giữ vai tṛ chính, sông nước không bao giờ
là trở ngại cho các cuộc thông thương và di dân. Chính vào
thời điểm này, đă có những bằng chứng cho thấy sự giao lưu
trao đổi giữa các nhóm cư dân trong vùng và xa hơn nữa. Tại
di chỉ Giồng Cá Vồ (Cần Giờ – Tp Hồ Chí Minh) đă t́m được
những hạt chuỗi có nguồn gốc từ Ấn Độ. Một số đồ gốm và mô
típ trang trí hoa văn ở Giồng Nổi cũng được t́m thấy ở vùng
này, ở vùng Tây Long An và Đông Nam bộ. Và xa hơn nữa là
vùng ven biển Khánh Hoà, Quảng Nam, Quảng Ngăi, những yếu tố
của văn hoá Sa Huỳnh và không của văn hoá này như ở di chỉ
Hoà Diêm (tỉnh Khánh Hoà) cũng đă được t́m thấy ở Giồng Nổi.
Ngược lại, một số yếu tố văn hoá của vùng Cần Giờ và Đông
Nam Bộ cũng được t́m thấy ở Giồng Nổi, phản ánh mối quan hệ
trao đổi giao lưu văn hoá giữa các vùng miền, phản ánh
tính mở trong thế ứng xử của người cổ Giồng Nổi. Trong
các mối quan hệ này, những yếu tố văn hoá của vùng Nam Trung
bộ gần gũi hơn cả trong đặc trưng đồ gốm ở Giồng Nổi.
Ngoài văn
hoá Sa Huỳnh, ở Nam Trung bộ và Đồng Nai, vùng ven biển Nam
bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long c̣n có những văn hoá, những
di tích khác nữa mà chủ nhân của chúng là những nhóm, những
cộng đồng cư dân độc lập.
Những
bằng chứng này khiến người ta đang nghĩ đến nhiều khả năng
có những nhóm dân cư theo đường biển từ Nam Trung bộ đi vào
vùng ven biển và đảo phía Nam và Bến Tre theo sông Vàm Cỏ
vào vùng Tây Long An. Trong những cuộc kiếm t́m khảo cổ học
ở nhiều địa phương, vào thời điểm này, có khá nhiều nhóm cư
dân bắt đầu vào Long An, vùng ven biển thành phố Hồ Chí Minh
mà dấu vết c̣n lại là những di tích chỉ có một tầng văn hoá
mỏng, thậm chí c̣n mỏng hơn tầng văn hoá ở di chỉ Giồng Nổi.
Con đường giao lưu nhiều chiều được đẩy mạnh khi thời điểm
Công Nguyên đang xích lại gần. Văn hoá thời Tiền Óc Eo, tiền
Phù Nam
hết sức mở, đang phát triển từ nhiều ngả…và một trong những
ngả đó là Giồng Nổi./.