Những thập
kỷ tiếp theo, hàng trăm địa điểm thuộc văn hóa này đã được khai
quật nghiên cứu; qua đó giúp ta hiểu được một quá trình phát
triển liên tục, nội sinh qua bốn giai đoạn phát triển: Sơ kỳ đồ
đồng - giai đoạn Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng 4000 năm.
Trung kỳ đồ đồng: giai đoạn Ðồng Ðậu, cách ngày nay khoảng 3300
năm đến 3500 năm. Hậu kỳ đồ đồng: giai đoạn Gò Mun, cách ngày
nay khoảng trên dưới 3000 năm. Cuối cùng là giai đoạn Ðông Sơn
thuộc sơ kỳ đồ sắt, cách ngày nay khoảng từ trên dưới 2000 năm
đến 2800 năm.
Ðông
Sơn là một nền nghệ thuật tạo hình đạt đến đỉnh cao về
tạo dáng. Người cổ Ðông Sơn đã tạo ra nhiều loại hình
hiện vật phong phú, đa dạng từ công cụ, vũ khí, đồ gia
dụng, đến nhạc khí, đồ trang sức và tượng nghệ thuật.
Tính đa dạng này không phải chỉ mang ý nghĩa thực dụng
gắn với từng loại công việc khác nhau như lưỡi cày để
xới đất, lưỡi hái và nhíp để gặt lúa, rìu để cuốc đất,
chặt cây, đóng thuyền, giũa để tu sửa khi rèn sắt, đúc
đồng... mà còn biểu hiện ý đồ tạo dáng khác nhau phù hợp
với khiếu thẩm mỹ của từng địa phương. Chẳng hạn người
Việt cổ vùng thấp thích chế tạo trống đồng dáng cao,
lưng thẳng; còn người vùng cao thích trống dáng lùn,
chân thấp, lưng choãi. Người vùng đồng bằng Bắc Bộ ưa
loại lưỡi cày dáng hình tim, tam giác, còn người lưu vực
sông Mã (Thanh Hóa) thích lưỡi cày hình cánh bướm. Người
Ðông Sơn có khiếu thẩm mỹ rất cao. Không chỉ những loại
hiện vật có kích thước lớn, có công năng quan trọng như
trống, thạp, thố, bình... mà hầu hết cổ vật Ðông Sơn từ
công cụ đến vũ khí, từ dụng cụ sinh hoạt đến nhạc khí,
tượng nghệ thuật... đều được trang trí nhiều loại hoa
văn phong phú và tinh tế. Hoa văn trang trí trên đồ đồng
Ðông Sơn có thể phân ra thành hai loại cơ bản:
Hoa văn người, vật dùng và động vật.
Hoa văn hình học: phổ biến là hoa văn chấm
nhỏ thẳng hàng, vạch chéo và vạch thẳng song song, hình
răng cưa, vòng tròn, hình chữ S. Tùy theo cách chế tác
và hình dáng cổ vật mà những hoa văn trên được sắp sếp
hài hòa và tinh tế. Thí dụ như vẫn các loại hoa văn chấm
dải, răng cưa, gạch ngắn song song, vòng tròn... nhưng
người Ðông Sơn đã bố trí rất khéo trên mặt cong của
tang, lưng trống, mặt trống, lưng thạp, nắp thạp; hay
ngay trên mặt một số cổ vật nhỏ như giáo, dao găm,
rìu... hoa văn cũng được bố trí rất hài hòa tùy theo
hình dáng của thân, mũi khác nhau. Chẳng hạn như trên
chiếc rìu xéo: ở thân rìu có hình ba người trang sức
lông chim đang múa, trên họng rìu có đôi cá sấu đang
giao cấu. Trang trí Ðông Sơn đã gắn bó giữa dáng, hoa
văn và sự chuyên môn hóa theo công năng của vật dùng.
Ðặc
biệt trống đồng Ðông Sơn - một nhạc khí cổ - là đỉnh cao
nghệ thuật trang trí của đồ đồng thời đó. Trống Ðông Sơn
là một kiệt tác nghệ thuật làm say mê nhiều nhà nghiên
cứu, sưu tầm trong nước và trên thế giới, là bức tranh
toàn cảnh về tín ngưỡng, kiến trúc, sản xuất, chiến đấu,
lễ hội... của cư dân nông nghiệp lúa nước. Nghiên cứu
nghệ thuật Ðông Sơn đặc biệt là trống đồng, chúng ta
thấy hai xu hướng phát triển nghệ thuật tạo hình thời
này: cách điệu hóa và đơn giãn hóa hoa văn, vạch ra mô
hình phát triển nghệ thuật Ðông Sơn từ xu hướng tả thực
ở giai đoạn sớm, chuyển sang khuynh hướng cách điệu biến
hình phức tạp, bí ẩn ở giai đoạn muộn.
Ðồ
trang sức của người cổ Ðông Sơn được làm bằng nhiều chất
liệu khác nhau như vỏ sò, gốm, xương thú, thủy tinh, mã
não... nhưng một trong những loại thông dụng nhất là
đồng. Không thể thống kê kết các loại đồ trang sức vì
chúng rấ đa đạng. Người xưa thường trang sức ở năm bộ
phận cơ thể: tai, cổ, thắt lưng, tay và chân. Ở tai có
vòng và khuyên; ở cổ có chuỗi hạt; ở tay có vòng, nhẫn
và bao tay; ở chân có vòng và bao chân; ở lưng là khóa
thắt lưng. Người Ðông Sơn không chỉ đeo vòng ở cổ tay mà
còn đeo nhiều vòng từ cổ tay đến cánh tay. Bất kể già
trẻ, nam nữ đều thích làm đẹp bằng đồ trang sức; ở làng
Vạc (Nghệ An) các nhà nghiên cứu đã phát hiện những bao
tay, bao chân, nhẫn đồng có gắn nhạc; chứng tỏ trang sức
đã gắn liền với âm nhạc và ca múa.
Tượng
đồng nghệ thuật Ðông Sơn rất đa dạng gồm tượng người,
tượng gia súc như trâu, bò, lợn, gà, vịt, chó; các loài
vật nhỏ như chim, cóc, nhái, rùa, rắn; các loài thú lớn
như voi, hươu, hổ, báo. Tượng Ðông Sơn đa số là tượng
trang trí gắn trên hiện vật, còn tượng rời thì ít. Tượng
thường được gắn trên cán dao găm, cán muôi, vòi ấm, mặt
trống, nắp thạp hoặc dùng làm chân đèn... Nhìn chung
tượng Ðông Sơn có kích thước nhỏ hoặc rất nhỏ dùng làm
đồ chơi, vật thiêng hoặc con giống. Tượng Ðông Sơn mang
phong cách tả thực, hồn nhiên, biểu cảm; chẳng hạn như
tượng hai người cõng nhau nhảy múa, tượng người trên cán
muôi Việt Khê đang thổi khèn, tượng người trên cán dao
găm... Về cách thể hiện, nghệ thuật tạc tượng cũng mang
tính chất nhịp điệu, đối xứng như trang trí hoa văn; thí
dụ như cảnh hổ vồ mồi, cảnh nam nữ yêu nhau trên nắp
thạp Ðào Thịnh... đều được bố trí đối xứng qua tâm của
nắp thạp, mặt trống.
Nhìn
lại chặng đường dài phát triển của nghệ thuật tạo hình
Ðông Sơn, chúng ta rút ra mấy nét tổng quát như sau:
Một
là, thành tựu lớn nhất của giới nghiên cứu khảo cổ học
và mỹ thuật cổ là đã khẳng định được nghệ thuật Ðông Sơn
là một nền nghệ thuật bản điạ thuần Việt Phi Hoa, Phi
Ấn. Nền nghệ thuật này không phải thiên di từ Trung Quốc
xuống hay từ Bắc Ấn sang; nó được phát triển liên tục
suốt hơn ngàn năm. Tuy nhiên nền nghệ thuật Ðông Sơn này
không hề đóng kín, mà là nền Nghệ thuật mở, giao lưu
nhiều với các nền nghệ thuật đồng đạo chẳng hạn trống
đồng Ðông Sơn đã giao lưu đến khu vực trống đồng ở Hoa
Nam, Ðông Nam Á lục điạ và Ðông Nam Á hải đảo. Ngược
lại nghệ thuật tượng tròn của người Ðiền ở Vân Nam
(Trung Quốc) đã ảnh hưởng đến tượng tròn Ðông Sơn. Một
số yếu tố của các nền nghệ thuật đương thời Ðông Nam Á
cũng ảnh hưởng đến nghệ thuật Ðông Sơn tùy mức độ đậm
nhạt khác nhau (Trích từ Vài nét về giao lưu văn hóa
thời đaị kim khí trong bối cảnh lịch sử Ðông Nam Á của
Trịnh Sinh - Tạp chí khảo cổ học số 3-1979).
Hai
là, đặc điểm nổi bật nhất của nghệ thuật tạo hình Ðông
Sơn là hình tượng của con người chiếm vị trí chủ đạo
trong thế giới muôn loài. Con người luôn hài hòa với
thiên nhiên, với mọi vật nhưng luôn là trung tâm của thế
giới. Con người đang lao động như đánh cá, săn bắn; đang
vui chơi giải trí như ca hát, nhảy múa, đánh trống, thổi
khèn; đang chơi thể thao như bơi lội hay đang cầm chắt
vũ khí bảo vệ làng bản quê hương. Ðó là những con người
bình dị, thuần hậu, chất phát, hiền hòa chứa đựng tính
nhân bản sâu sắc. Cảnh vật quanh người cũng rất dể
thương, dể mến như những nhà sàn mái cong đơn sơ, những
con thuyền đang lướt sóng, những con cò bay lả bay la,
những đàn cá lội tung tăng, những cặp bò đực bò cái,
hươu đực hươu cái xen kẽ, những đôi chim trống chim mái,
những đôi cá sấu đang giao cấu, bên những cặp trai gái
đang yêu nhau... phản ánh tín ngưỡng phồn thực của cư
dân nông nghiệp lúa nước, ước mong cuộc sống hòa bình
hạnh phúc.
Ba là,
về thủ pháp nghệ thuật, người cổ Ðông Sơn miêu tả theo
lối bổ nghiêng từ hình người múa, hình chim, hươu, bò...
đều vẻ từ cách nhìn một phía chứ không nhìn thẳng mặt.
Thí dụ như hình người múa trên mặt trống đồng được vẻ
theo lối ngực nhìn thẳng, còn chân và đầu thì theo lối
nhìn nghiêng. Hình chim bay từ chân, cánh và đuôi nhìn
từ trên xuống, còn đầu thì theo lối nhìn nghiêng. Phong
cách miêu tả này dường như là cách nhìn mọi vật từ nhiều
phía trong không gian mà ta thường gặp trong các nền
nghệ thuật cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà... ở đây thế giới
được thể hiện như một không gian khép kín.
Người
cổ Ðông Sơn còn dùng thủ pháp ước lệ: hình ngôi nhà sàn
mái rủ sát đất trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, nhưng họ
cũng không quên khắc cả những con người đang sinh hoạt
trong nhà theo trí tưởng tượng của họ.
Tóm
lại, Ðông Sơn không những là một nền nghệ thuật tạo hình
lâu đời, một nền nghệ thuật bản địa có bản sắc riêng,
khác với các nền nghệ thuật láng giềng đồng đạo mà còn
là đỉnh cao nghệ thuật làm say mê nhiều nhà nghiên cứu,
sưu tầm trong nước và trên thế giới. Ðó là niềm tự hào
của chúng ta những con Lạc cháu Hồng.
Nhà nghiên
cứu Mỹ thuật Nguyễn Văn Huyên
Bảo tàng Mỹ
Thuật Việt Nam - VietAntique.com