Khoảng
trống văn-học dân ta: Những Thành-Tích Hàng-hải
Vũ-Hữu-San
Lời Giới-Thiệu.
Một
mùa Xuân ly-hương nữa lại đến với người Việt tị-nạn. Mấy ngàn
năm trước, những mùa Xuân ly-hương cũng đă đến nhiều lần với
Tiền-nhân Việt-tộc trên những bước đường phiêu-lưu hàng-hải.
Hai năm trước, qua bài "Tượng
Phật nổi trôi" Vũ-Quân đă viết rằng: v́ cơn quốc-biến, chúng ta
phải ra đi theo nghiệp-dĩ của những bức tượng gỗ trôi nổi muôn
phương qua các bờ bến đại-dương xa lạ, ở đó chúng ta không
cô-độc v́ đă gặp lại những tượng Phật cũ là tiền-nhân...
Tuy thế, tiền-nhân Việt-tộc chỉ
trở thành những người di-tản buồn từ khi nước Tàu bành-trướng và
toàn-thể lănh-thổ Bách-Việt bị xâm-lăng. Trước thời-kỳ đen tối
đó, tiền-nhân chúng ta từng là những anh-hùng độc-bá đại-dương.
Trong bài này, Vũ-Hữu-San xin tŕnh-bày thành-tích tiền-nhân
trong thời vàng son đó. Mời Quư-vị đọc vui trong ngày Xuân.
1 - Trong những thành-tích
hiển-hách của Tiền-nhân
Ngày nay, trong những buổi
lễ-lạc, đa-số các vị được lên diễn-đàn để nói th́ hầu hết đều
ca-tụng những chiến-công hiển-hách của của tiền-nhân. Tuy vậy,
qua hàng trăm, ngàn bài diễn-văn người ta chưa thấy hoạt-động
Hàng-hải của Tổ-tiên được nhắc nhở tới.
Trong những công-tŕnh dựng
Nước, mở Nước, giữ Nước trên vùng đất nước quê-hương mà sông
biển bao trùm khắp nơi, sự hy-sinh v́ nghĩa-vụ với "thân xác
tử-sĩ ch́m theo sóng nước" nhiều hơn số người "da ngựa bọc
thây". Cũng ít ai từng nhắc tới công-lao người chiến-binh suốt
những năm tháng dài đấu sức với ba đào, thi gan cùng sương gió
ngoài khơi để bảo-vệ hải-biên, giữ ǵn an-ninh cho hệ-thống
đường thủy, hay khuyếch-trương hải-thương mong cho nước giàu,
dân mạnh...
Và tuyệt-nhiên, chưa bao giờ có
ai nhắc nhở tới thành-tích hiển-hách bậc nhất trong lịch-sử loài
người mà chúng tôi xin kể sau đây: những chuyến đi xuyên-dương
nhiều ngàn năm trước của tiền-nhân Việt-tộc.
2 - Thương-mại và văn-hoá
Trong khi sinh-hoạt với sông
biển, người Việt cổ đă tạo-dựng được nhiều thành-tích vĩ-đại.
Những truyền-thống hàng-hải lâu đời của dân-tộc vẫn c̣n tồn-tại
đến ngày nay, cho dù hầu hết thành-tích của tiền-nhân đă bị
thời-gian chôn vùi vào quên lăng.
Thật thế, ảnh-hưởng của các nền
văn-minh cổ-thời Hoà-B́nh, Đông-Sơn rất bao la. Vết-tích các nền
văn-minh này đi lên Đài-Loan, Nhật-Bản, Tây-Bá-Lợi-Á; qua
Phi-luật-Tân, vùng Đa-Đảo; xuống Nam-Dương, Úc-Châu và sang tận
Mă-Đảo, Phi-Châu. Công việc chuyển-vận hải-thương đă lôi kéo
theo sự truyền-bá văn-hoá trên các bờ biển và hải-đảo xa vắng mà
đôi chân con người không thể tới được bằng đường bộ.
V́ mực nước biển vẫn giữ độ cao
như hiện nay từ chục ngàn năm qua, cổ-nhân chúng ta nhất-định
phải nhờ đến ghe thuyền và đường hàng-hải mới di-chuyển xa được.
Trong thời tiền-sử, khi tŕnh-độ kỹ-thuật đi biển của các
dân-tộc láng giềng c̣n thô-sơ kém cỏi, dân Việt rất xứng-đáng để
được ghi-nhận công-lao hàng đầu về hải-nghiệp.
Những tiến-bộ của
Đông-Nam-Á so với các nơi khác trên thế-giới. (H́nh trong "New
Light on a Forgotten Past", Wilheim G. Solheim II, National
Geographic,V. 139,N. 3, March 1971: 330.)
3 - Người Việt đè bẹp băo tố
Người Việt có sự liên-hệ văn-hoá
với Trung-Hoa rất sớm, ít nhất cũng kể từ khi nhà Tần gửi quân
Nam-xâm, thế-kỷ 3 trước Tây-lịch (TTL.). Những nhận-xét của họ
về hàng-hải Việt thời cổ đă được chúng tôi đề-cập trong một số
bài viết khác nhau. Sau đây người viết xin tŕnh-bày khả-năng
hàng-hải của dân ta qua những lời phê-b́nh của người Tây-phương
Nhiều lời khen ngợi dân Việt đi
biển được dẫn lại trong sách của Jean Chesneaux, cuốn
"Contribution à l'histoire de la nation vietnamienne"€, bản địch
Anh-ngữ: "The Vietnamese Nation - Contribution to a History,"
- Nhật-kư của George Windsor
Earl
Nhà hàng-hải George Windsor Earl
viết trong sổ nhật-kư của ông trên đường dẫn lộ một chiếc
thương-thuyền đến Singapore vào đầu thế-kỷ thứ 18 như sau:
"... Băo táp thật dữ dội ngoài
biển khơi, thiếu chút nữa th́ thương-thuyền của chúng tôi bị gẫy
đổ cả cột buồm. Thời-tiết đă tiếp-tục xấu như thế trong nhiều
ngày. Vậy mà khi đang thận-trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi
chợt nhận ra 6 chiếc thuyền nhỏ của người Việt-Nam đang giương
hết mọi cánh buồm, cứ thản-nhiên như không, tiến thẳng tới
trước. Mấy người mại-bản Trung-Hoa đi trên tàu chúng tôi, đứng
sững sờ ngắm nh́n những dàn buồm no gió một hồi... rồi sau khi
nhận-diện được, họ la lên một cách thán-phục: "Lại mấy người
Việt đấy, thật lỳ quá trời..." Tôi nghĩ (lời Thuyền-trưởng
George Windsor Earl): Mấy người Việt đó đang lèo lái những con
thuyền bé nhỏ mà cách-thức vận-chuyển để vượt sóng lượn gió thật
là tài-t́nh.
Tài ba của họ không thua kém bất
cứ một thủy-thủ-đoàn hạng nhất nào của toàn khu-vực Âu-Châu.
Đoàn thuyền bé tí teo đó không có một chiếc nào vượt quá 50 tấn,
vậy mà những người đi biển này có thể đè bẹp cả sóng gió Biển
Đông vào giữa mùa băo-tố. Đă qua 20 năm rồi, rất ít
thương-thuyền nào của công-ty chúng tôi dám thử hải-hành trong
giữa mùa biển động như vậy..."
Ông c̣n viết thêm nhiều câu rất
cảm-động, thí-dụ như: "Thật thú-vị nếu được quen biết với những
người Việt-Nam này. Tính-t́nh họ năng-động, ngôn-từ lại hoạt-bát
như dân Pháp. Khi đến buôn bán ở Singapore, họ đă phải khéo léo
trong sự cạnh-tranh. Hoàn-cảnh sinh-hoạt của họ thật sự khó khăn
v́ chính sách bế-môn tỏa-cảng của triều-đ́nh Việt-Nam. Họ rất
can-đảm khi xuất-dương. Thuyền họ lại không trang-bị vũ-khí và
như thế có thể là miếng mồi ngon cho bọn hải-tặc."
Vinh-dự thay cho truyền-thống
của ngành hàng-hải Việt-Nam! Những câu khen ngợi đó có thể nói
là không tiếc lời. Sự suy-tôn về nghề-nghiệp, đề-cao về
nhân-cách cùng khâm-phục ḷng can-đảm như vậy rất hiếm hoi trong
giới hành-thủy. Người Việt như chúng ta ngày nay, nghe thấy cũng
c̣n hănh-diện lây.
- Thủy-thủ Việt trong Báo-cáo
của John Crawfurd
Bác-sĩ Crawfurd đươc chính-phủ
Anh đề-cử làm đại-sứ tại hai kinh-đô Bangkok và Huế năm 1822.
Tuy bị thất-bại trong công-tác thành-lập một thương-điếm tại
Việt-Nam, Ông vẫn giữ những cảm-tính sâu đậm với giới hành thủy
Việt-Nam. Bác-sĩ Crawfurd có nhận-xét về khả-năng hàng-hải của
dân ta trong mục báo-cáo số 145 như sau:
"... Nếu như người Việt-Nam được
phép tự-do viễn-dương th́ người ta không thể t́m đâu ra được một
sắc dân nào nữa ở Á-Đông mà lại có đầy đủ những đức-tính để trở
thành các nhà hàng-hải siêu-đẳng như vậy... Tính họ không những
cương-quyết, năng hoạt-động, tôn-trọng hạn-kỳ, mà lại luôn luôn
vui vẻ chiều ḷng khách hàng... Ghe tàu của họ được các nhà
chuyên-môn xét-đoán và mô-tả như là những loại thuyền tốt nhất
trong khu-vực Đông-„n, kiến-trúc rất chắc chắn, đủ sức hải-hành
ngay cả những khi thời-tiết xấu nhất."
Thêm vào các nhân-chứng (người
Anh) này, hai người Pháp (Chaigneau và Vannier) đă làm quan
trong triều-đ́nh Việt-Nam và cũng đă từng làm hạm-trưởng các
chiến-hạm loại trang-bị 16 súng đại-bác với thủy-thủ-đoàn
hoàn-toàn Việt-Nam, bảo-đảm rằng họ là những thủy-thủ can-đảm và
thật lành nghề.
- Nhận-xét của John White
Thuyền-trưởng White là một trong
những nhà hàng-hải Hoa-Kỳ đầu tiên đến Việt-Nam vào năm 1820.
Ông có dịp thăm viếng thủy-xưởng sau này là Hải-quân Công-xưởng
Sài-G̣n, cho biết người Việt-Nam là những nhà kiến-trúc tàu bè
có khả-năng kỹ-thuật cao nhất, hoàn-tất công-tác thật chính-xác.
John White c̣n xem xét các ván
gỗ đóng thuyền, Ông rất ngạc-nhiên là những hải-xưởng Việt-Nam
thời đó lại có đầy đủ vật-liệu cho việc kiến-trúc đến cả loại
tàu lớn nhất như Frigate (tức loại chiến-hạm chủ-lực của
Hải-quân Hoa-kỳ sử-dụng vào đầu thế-kỷ 19). Ông tận mắt nh́n
thấy một tấm gỗ dài rộng tới 120 ft x 4 ft . V́ khổ này lớn quá,
gỗ lại rất tốt; vị Thuyền-trưởng Mỹ suy ra rằng rừng Việt-Nam
sản-xuất được những loại cây gỗ dùng đóng tàu thuyền tốt nhất
thế-giới.
4 - Hải-sử và Bách-khoa
Chính-sử của nước ta ghi lại
được một số hoạt-động hàng-hải lẻ tẻ, nhưng tiếc rằng phần
viễn-duyên rất ít tài-liệu và đặc-biệt các hoạt-động xuyên-dương
của dân ta chưa bao giờ được đề-cập đến. Những người ngoại-quốc,
khi muốn t́m hiểu về truyền-thống hàng-hải của người Việt trong
cổ-thời, đă gặp nhiều khó khăn.
Cho đến hậu-bán thế-kỷ 20 này
mới có một người Việt-Nam đầu-tiên viết một cuốn sử nhỏ bằng
ngoại-ngữ với mấy đoạn đề-cập sơ-sài đến các hoạt-động
hải-thương của dân ta ở Nam-Hải trong thời Bắc-thuộc. Đó là ông
Lê-Thanh-Khôi với cuốn "Le Vietnam, Histoire et Civilisation",
xuất-bản năm 1955 ở Paris, France. Vậy mà ông c̣n bị một tác-giả
khác cũng người Việt-Nam phê-b́nh là nói quá đáng. Không phải
chỉ người nước ngoài không biết đến nền cổ hàng-hải Việt mà có
cả những người Việt cũng khiếm-khuyết những kiến-thức tương-tự
như vậy!
Muốn đi t́m những thành-tích to
lớn hơn nữa của cổ-nhân, chúng ta cần cố công lục lọi thêm
tài-liệu qua sách vở quốc-tế. May mắn thay, trong cộng-đồng
nhân-loại không thiếu những học-giả quan-tâm nghiên-cứu tới
những vấn-đề hệ-trọng này.
Bách-khoa từ-điển The New
Encyclopaedia Britanica xuất-bản những năm gần đây, về từ-mục
Dongson Culture ghi như sau: "Đông-Sơn không những chỉ riêng là
văn-minh đồ đồng mà cũng có đồ sắt nữa. Người Đông-Sơn cũng nổi
bật với những công-tŕnh bằng đá khối (?!) ... Đông-Sơn là dân
đi biển, có thể đă hải-hành và thương-mại khắp vùng Đông-Nam
Á-Châu".
Chứng-tích quan-trọng của nền
văn-hoá Đông-Sơn ghi-nhận trên các trống đồng cũng cho ta nh́n
thấy một phần nào khía cạnh truyền-thống hàng-hải của cổ-nhân.
Quang-cảnh được tŕnh-bày rất phong-phú trên hầu hết các cổ-vật
c̣n sót đến ngày nay là sự sinh-hoạt trên thuyền. Có người
chuẩn-bị tác-chiến, có người như nhảy múa cùng bầy chim,
đặc-biệt lại có người giă gạo. Chắc đây là những chuyến đi xa,
kéo dài hàng tháng đến những vùng đất xa lạ nên họ vừa đi vừa
chuẩn-bị thức ăn.
5 - Hải-tŕnh Địa-trung-Hải /
Đông-Dương
Trong sách "The Junks & Sampans
of the Yangtze", G. R. G. Worcester đă viết về hải-lộ
thông-thương từ Âu-Châu qua Ả-Rập, „n-Độ đến vịnh Bắc-Việt, cho
rằng Hà-Nội đúng là trạm hải-hành cuối cùng giữa Tây-phương và
Đông-Á trong cổ-thời. Worcester h́nh-dung một "hải-tŕnh tơ lụa"
như sau: "...có thể đă có những ảnh-hưởng qua giao-tiếp đường
biển rất sớm sủa với dân Địa-Trung-Hải, v́ người ta tin rằng
những thương-gia Phoenicia trên hải-tŕnh t́m kiếm "đường tơ
lụa", đă tới Đông-Dương vào năm 650 TTL."
Vào thời đó, nước Văn-Lang của
chúng ta đang lúc thịnh-thời và do các vua Hùng (2879-258TTL.)
trị-v́.
Những hải-tŕnh
tơ lụa giữa Địa-Trung-Hải và Đông-Á mà trạm chót là Cattigara.
(Vẽ theo "Exploring Our Country", Stuart Hamer, Follett,
Ahlschwede, Gross, Sacramento 1956: 25.)
Hán-sử chép rằng vua Vũ-Đế tạo
lập một đường biển tới „n-Độ và vào năm 140 TTL., chuyến hàng
gồm có vàng và tơ lụa được đem tới một thành-phố gần Madras.
Phương-tiện chuyên chở cho đường
hàng-hải này do người Việt (mà Tàu thường gọi là Nam-Man)
phụ-trách. Để phân-biệt Tàu-Việt trong hàng-hải, chúng ta đọc
được hai ư-kiến chính-xác sau đây:
- Lin Yu, viết trong nguyệt-san
"T'ien Hsia Monthly", cho ư-kiến rằng lúc xưa người Man đi tàu
biển. Cho đến cuối triều-đại Lưu Tống (Nam-triều, năm 420-479),
có thể người Tàu mới bắt đầu đóng tàu thuyền cho việc
hải-thương.
- Friedrich Hirth và W. W.
Rockhill, tác-giả của nhiều sách và bài khảo-cứu về hàng-hải
Á-Châu, quả-quyết rằng vào đầu công-nguyên, không thể có một tàu
thuyền nào của Trung-Hoa hoạt-động trong „n-Độ-Dương, mặc dù
người Tàu thường quá-giang theo tàu thuyền của dân (Nam)-Man.
6 - Dân bản-địa Việt-Nam và đân
di-cư dều là dân nước, dân thuyền, nhưng không phải người Tàu
Khảo-cổ-học đă đề-cập đến các
"dân nước, dân thuyền" tại hai vùng châu-thổ Sông Hồng và Sông
Mă. Trong thời-gian nhiều thế-kỷ trước và sau công-nguyên, đất
nước ta cũng nhận thêm nhiều người di-cư tới, họ cũng là những
dân hàng-hải. Về nhân-loại-học, ông Cl. Madrolle trong bài "Le
Tonkin Ancien B.E.F.E.A. XXXVII đă phát-biểu ư-kiến là ở
Phước-Kiến có một nhóm Việt-tộc làm nghề chài-lưới, hàng-hải đă
dùng thuyền gỗ hay mảng tre có buồm, hàng năm theo gió mùa, nhân
gió bấc phiêu-lưu theo dọc miền duyên-hải rồi ghé vào miền
trung-châu sông Nhị, sông Mă (Việt-Nam.) Nhóm này cũng có phen
xuống cả Nam-Dương, rồi lại nhân tiết gió nồm quay về căn-cứ.
Một số đă ở lại sinh sống...
Sau này, tuy người Tàu xâm-chiếm
được lănh-thổ nước ta nhưng họ đă không thể làm tiêu-tan được
truyền-thống hàng-hải của dân-tộc Việt. Trong sách Nanhai Trade,
học-giả Wang Gungwu, tuy có thể có nguồn-gốc liên-hệ Trung-Hoa,
nhưng lại rất khách-quan, đă mạnh mẽ lên tiếng bảo-vệ công-lư
cho những người Việt thời đó như sau:
"... Thực-sự phần cốt-cán trong
những hoạt-động hàng-hải dọc theo bờ biển Trung-Hoa đều là của
người Việt. V́ hầu hết dân-cư miền Nam chưa bị Tàu-hoá ... Vậy
thật là lầm lẫn nếu gọi những người Việt hành-nghề thủy-thủ và
kiến-trúc tàu thuyền trong giai-đoạn này là người Trung-quốc với
chỉ một lư-do là lănh-thổ của họ bị đặt dưới sự cai-trị của
người Tàu".
7 - Kẻ-Chợ (Hà-Nội) trên bản đồ
Ptolemy
Sau cuộc viễn-chinh của
Alexandre Đại-đế (336-323 TTL) sang „n-Độ, nhiều giao-tiếp đă
xảy ra giữa Á-Âu, người Hy-Lạp biết thêm nhiều sinh-hoạt của
người Á-Châu. Eratosthene (275-195 TTL) viết sách Geographia,
Ptolemy (khoảng 100-170) phát-triển môn địa-lư, viết sách và
h́nh-dung ra một bản-đồ thế-giới mà tận-cùng về phía
Đông-Đông-Nam là bán-đảo Vàng Chersonese và hải-cảng Kattigara
(kinh-độ 117 độ Đông, vĩ-độ 8 độ Nam - Kinh-tuyến gốc lấy từ đảo
Ferro -Islands of the Blest- quần-đảo Canary.) Nhiều người cho
rằng bán-đảo Vàng là Đông-Dương và Kattigara (hay Cattigara) chỉ
Kẻ Chợ (Kesho), Long-Biên (Lugin) hay Hà-Nội ngày nay.
Nói riêng về từ-ngữ hàng-hải, ta
có thể hiểu theo như nghĩa người Bắc-Âu thường dùng: Kati là tàu
thuyền, Gata là hải-đạo. Như vậy chữ Kattigara nghĩa là chỗ
hải-cảng tàu thuyền hải-hành tới.
Ông B́nh-Nguyên-Lộc không
thỏa-măn với vị-trí ước-đoán cho rằng Kattigara nằm trong vùng
Kẻ Chợ Hà-Nội, mà nghĩ rằng Kattigara có thể là Kẻ Thị Gay, tức
thành phố Ghe thuyền. Ông suy ra tên Kattigara chính là địa-danh
của thương-cảng Ḥn-Gay như ta vẫn gọi ngày nay.
Việc xác-định xem thương-cảng
Kattigara ở đâu vẫn chưa thực-hiện được. Theo ư một vài nhà
nghiên-cứu, khi biết đúng vị-trí, những cuộc khai-quật chắc chắn
sẽ mang lại thêm nhiều hiểu biết mới và giúp chúng ta trả lời
được nhiều câu hỏi chưa có giải-đáp về thành-quả hàng-hải và
thương-mại của người cổ Việt.
Tác-giả sách "Ancient India as
Described by Ptolemy" là J. W. McGrindle, cũng đồng-ư Kattigara
là Hà-nội. Nơi trang 9, lời tác-giả ghi-chú : "Trung-Hoa trong
gần 1,000 năm đă được biết như là quốc-gia nằm trong nội-địa
Á-Châu (inner Asia)". Tại trang 26, ông viết: "... với lư-thuyết
rằng Kattigara, điểm xa nhất về phía Đông tới được bằng đường
biển, phải nằm gần hay trên cùng kinh-tuyến với với nước Tàu,
điểm xa nhất đi đến được qua đất liền".
Vị-trí Cattigara
trên các bản-đồ cổ Âu-Châu (phỏng theo "Ancient History Atlas"
Michael Grant, Cartograph by Arthur Bank, Mcmillan Publishing
Co., Inc., New York, 1971: 75)
Người Âu-Châu thời đó, khi nghĩ
đến Đông-phương hàng-hải là nghĩ đến vùng đất quê-hương chúng ta
nhiều của cải, đầy vàng bạc châu báu, và cửa biển chính
thông-thương ở Hà-nội. Từ trước thời Bắc-thuộc, lưu-vực sông
Hồng, sông Mă đă là những trung-tâm hàng-hải cùng thương-mại
phồn-thịnh, hàng-hoá đi khắp nơi và có liên-lạc thường xuyên với
Tây-phương. Mối giao-thương này chắc chắn sâu-đậm đến mức-độ tất
cả những bản-đồ thế-giới do Tây-phương ấn-hành suốt 13 thế-kỷ
sau đó, đều cố ghi địa-danh Kattigara. Tuy vậy v́ chưa biết sự
hiện-hữu của Mỹ-Châu và Thái-B́nh-Dương nên trên tất cả bản-đồ
cũng như cầu-đồ, vị-trí của Á-Đông được vẽ quá gần với Âu-Châu.
Các hải-đồ này cho thấy h́nh-dạng bán-đảo Hoa-„n thật sai-lầm
kèm với vị-trí hải-cảng nước ta nằm trên tọa-độ quá xa về hướng
Đông (sai tới 55 độ kinh-tuyến) và cũng quá xa về hướng Nam (sai
tới 30 độ vĩ-tuyến.)
Lư-do sự lầm lẫn lớn lao này của
Ptolemy được Robert R. Newton phân-tách và giải-đáp chính-xác
trong "The Crime of Claudius Ptolemy" ấn-hành năm 1977.
Dù Ptolemy thật sự mắc
"trọng-tội" (crime)€ hay không, "hào-quang" Kattigara vẫn nằm
trong tâm-tưởng những nhà hàng-hải Tây-phương thời Trung-cổ,
nhiều ít thúc-đẩy việc thực-hiện những chuyến viễn-hành và
gián-tiếp đưa đến biến-cố Columbus t́m ra Mỹ-Châu. Ai ai bên
Âu-Châu cứ cũng tưởng rằng nếu dong buồm hải-hành về hướng
Tây-Tây-Nam là sẽ tới được "Hải-cảng [?!] Hà-Nội". Họ nghĩ
Á-Châu nằm rất gần đâu đó ở bờ bên kia của Đại-Tây-Dương!
Cho đến khi qua đời vào năm
1506, Kha-luân-Bố không bao giờ từ bỏ niềm tin-tưởng là ông đă
thực-sự đặt chân tới ven bờ biển Á-Châu. Xem xét những tài-liệu
mà giai-đoạn đó c̣n để lại, người ta thấy các nhà hàng-hải
Âu-Châu thời Trung-Cổ bận-tâm rất nhiều đến việc làm sao đưa tàu
tới được Kattigara.
Chắc chắn là phải có sự
phán-quyết nào đó của Kha-luân-Bố (Cristoforo Colon) rằng
"hải-cảng ước mơ" của người Việt chúng ta nằm gần đâu đó trên
hải-tŕnh thám-hiểm, nên người em của ông là Bartholomew
Columbus (Bartolome Colon) mới ghi tên Cattigara một cách
phỏng-định (?!) lên bản-đồ vùng đất xa lạ "Tân-thế-giới", tức
Nam Mỹ-Châu.
Magellan cũng lưu-tâm đến vị-trí
Cattigara rất nhiều. Sau khi từ Đại-Tây-Dương vào được
Thái-B́nh-Dương, ông dẫn hải-đội dọc theo bờ biển Chí-Lợi, viên
thư-kư giữ tài-liệu hải-hành của ông là Pigafetta có vẻ bi-quan
khi nói rằng :"Cái mũi đất Cattigara mà ngay cả những nhà
"Vũ-trụ-học" (!) cũng chưa nh́n thấy th́ lúc này không những
chẳng thể nào t́m ra mà (chúng ta) cũng không thể tưởng-tượng
được là nó ở vào chỗ nào!"
Trong khi băng ngang qua
Thái-B́nh-Dương, Magellan ra lệnh cho đoàn tàu đi hơi chếch lên
phía Bắc-bán-cầu để tiếp-tục hy-vọng t́m ra cảng mơ ước này
nhưng cuối cùng đă thất-bại. Đoàn thám-hiểm gồm toàn những tay
lang bạt kỳ hồ đó, không những chẳng thấy Cattigara, mà nhiều
người đă cùng chung số phận với Magellan, đành bỏ xác lại ở vùng
đảo Phi-luật-Tân.
Thật lạ lùng là sau chuyến đi
của Marco Polo (thế-kỷ 13), các nhà địa-lư đă không sửa được
bản-đồ cho đúng, mà cả sau khi Magellan mất mạng trên đường đi
ṿng quanh thế-giới (năm 1521), tọa-độ địa-dư của Kittigara vẫn
giữ nguyên như cũ. Địa-danh hải cảng này (hay Hà-Nội cũng vậy)
do đó được tiếp-tục ghi trên lục-địa Mỹ-Châu trong nhiều thế-kỷ.
H́nh phác thảo
bởi Bartolome Colon (Columbus) năm 1505. Cattigarra được
phỏng-định là ở Nam-Mỹ.
H́nh
của Bartolome được Grasso vẽ lại.
Dựa theo bản vẽ
của Bartolome, Grasso vẽ lại h́nh-thể địa-cầu "giả-tưởng". Từ
phải sang trái: Âu-Châu, Tân-thế-giới, Cattigara (Á-Châu),
„n-Độ, và Phi-Châu.
8 - Thương-mại ở Nam-Hải
Đă có nhiều sách do người
Âu-Á-Mỹ đề-cập đến các hoạt-động thương-mại vùng Đông-Nam-Á,
nhiều ít nói tới những kỳ-công của người Việt Cổ trong ngành
hàng-hải, cận-duyên cũng như viễn-duyên.
Như ta biết, trong suốt ḍng
lịch-sử Á-Đông, dân Trung-Hoa và dân Việt-Nam là hai thế-lực
chính đối đầu nhau lâu nhất trên biển cả. Tuy vậy, thực sự chỉ
có người Việt độc-hành v́ người Tàu lúc xưa không liên-hệ nhiều
đến hàng-hải.
Trong sách "Eighth Voyage of the
Dragon - History of China's Quest for Sea Power", Hải-quân
Học-hiệu Annapolis ấn-hành năm 1982, Bruce Swanson đă mở đề
chương 1 như sau: "Lịch-sử hàng-hải Trung-Hoa trong ngàn năm qua
biểu-thị đặc-tính nơi sự đối-kháng giữa hai thực-thể văn-minh
lớn: nước Tàu có tính-cách lục-địa, ảnh-hưởng Khổng-Tử và nước
Tàu có liên-quan đến biển. (Nước Tàu) ở phần trên bộc-phát từ
khi thống-nhất trung-tâm miền Bắc, gồm nhiều nước khác-biệt hồi
chiến-quốc, vào năm 221 TTL. Suốt hai ngàn năm sau đó, hai
triều-đại nhà Hán (220 TTL.- 221) và nhà Đường (618- 907) đă
biến-đổi Trung-Hoa thành một đế-quốc tráng-lệ, có căn-bản
văn-hoá lục-địa (landbased cultural empire)".
Sau đó Bruce Swanson lại mở đầu
chương 2 với lời khẳng-định: "Thời-đại hàng-hải của Trung-Hoa
thực-sự bắt đầu vào thế-kỷ thứ 8, thứ 9 khi dân-số miền Bắc nước
Tàu tăng lên tới ba lần và khí-hậu thay đổi làm suy-giảm số
lượng đất canh-tác."
Trên quan-điểm của một người
Á-Đông, Wang Gungwu đă làm một cuộc nghiên-cứu về giao-thương
thời cổ trong biển Nam-Hải. Sau đó, vào tháng 6 năm 1956, để
phổ-biến kết-quả của công-tŕnh đó, cơ-sở xuất-bản Journal of
the Malayan Branch Royal Asiatic Society cho phát-hành một tập
sách nhan-đề "The Nanhai Trade - A Study of the Early History of
the Chinese Trade in the South China Sea".
Wang mô-tả khá đầy đủ về những
hoạt-động hàng-hải trong khoảng 11 thế-kỷ trước khi thành-lập
triều-đại nhà Tống, năm 960. Theo đó, thổ-dân người Việt, sau
khi đế-quốc Nam-Việt của nhà Triệu bị sụp đổ, vẫn tiếp-tục nắm
giữ hầu hết ngành hàng-hải dọc duyên-hải hay đường viễn-duyên
đến các nước Đông-Nam-Á và „n-Độ, như đă từng nắm giữ trước kia.
Đặc-biệt hải-cảng sầm-uất hàng đầu vùng Đông-Nam-Á vẫn là
Luy-Lâu hay Long-Biên (Hà-Nội ngày nay) với vùng hậu-cảng
trù-phú nhất đế-quốc là quận Giao-Chỉ. Quận này đóng góp thuế má
cho hoàng-đế Trung-Hoa rất đáng kể, số dân-đinh của Giao-Chỉ cao
hơn tổng-số tất cả số dân-đinh của 6 quận khác c̣n lại ở miền
Nam Trung-Quốc cộng chung.
Mọi hàng-hoá chuyên chở đường
biển ra vô nước Tàu đều từ Giao-chỉ mà ra vô. Đôi khi Quảng-Châu
được chia sẻ một phần nhỏ hoạt-động hàng-hải nhưng người Việt
cũng vẫn luôn luôn nắm giữ hết hệ-thống thương-thuyền.
Phải đợi đến thời Ngũ-Đại
(907-960) và sơ-diệp nhà Tống (960-1279) những thương buôn mới,
người Tàu Việt (Chinese- Yủeh) bắt đầu xuất-hiện. Họ là người
Việt bị Tàu-hoá hay người Tàu bị tiêm-nhiễm thói thích biển của
người Việt bằng cách lập-nghiệp chung với họ.
9 - Đường biển đi Đông-Nam-Á và
đi Tây-Bá -Lợi-Á
Người Tây-phương thường nói "cứ
có thuyền là đi biển được". Người Việt đóng được thuyền; mà
thuyền người Việt lại thật tốt. Việc hải-thương của dân Việt
trong thời thượng-cổ cùng các dân-cư khác nằm quanh vùng Biển
Đông rất phồn-thịnh. Các hoạt-động hàng-hải vẫn tiếp-tục
tiến-triển ngay cả thời-gian sau khi nước ta bị Trung-Hoa đô-hộ
.
Trống Đông-Sơn và
những hải-tŕnh thương-mại vùng Đông Á và Nam-Á trước
Công-Nguyên. (h́nh trong sách Nu-Sun của Gunnar Thompson, 1989.)
Trước Tây-lịch 6, 7 thế-kỷ,
chiến-thuyền Lạc-Việt thời Hùng-Vương đă có hai sàn, những cây
nỏ thần được thiết-trí ở trên, người chèo và lái ở dưới. Nhiều
kiểu thuyền trang-bị đầy dủ cả bánh lái phía đuôi, mái chèo lái
bên cạnh, cây xiếm cố-định ... H́nh ảnh được ghi khắc trên nhiều
chiếc trống đồng t́m thấy tại lưu-vực các sông Mă, sông Hồng.
Cùng thời này, Trung-Hoa đang
trải qua giai-đoạn Xuân-Thu Chiến-Quốc. Tại một nước Việt khác
mà vua là Việt-Vương Câu-Tiễn, thủy-quân rất mạnh. Quân-đội nhà
vua thường được chuyển-vận bằng đường thủy để hành-quân xa
căn-cứ hàng trăm hải-lư.
Trong những thiên-kỷ TTL., người
Việt theo nghề hàng-hải đă giao-thương với nhiều nơi rất xa ở
vùng Bắc Thái-B́nh-Dương mà dấu-tích buôn bán được ghi-nhận rơ
ràng như ngà voi, đồ sắt tại Đại-Hàn và Tây-bá-lợi-Á (Ballinger,
1978: 73; Bandi, 1969: 76.) Joseph Needham cùng các cộng-sự-viên
của ông người Trung-Hoa cho rằng dân Việt đă thám-hiểm khắp
Thái-B́nh-Dương, sang tới tận Bắc và Nam-Mỹ.
10 - Đường biển tới Úc-Châu và
Tân-Tây-Lan
Như mọi người đă biết, thổ-dân
Úc là người gốc từ Đông-Nam-Á. Tổ-tiên họ đă dùng thuyền bè vượt
biển sang lục-địa này 60,000 năm xưa.
Theo Tiến-sĩ Wilheim G. Solheim
II, người Đông-Nam-Á thuộc nền văn-minh Hoà-B́nh đă mang
ảnh-hưởng sang Úc-Châu qua những đồ đá mài mà Ông ước-lượng từ
hơn 20 ngàn năm trước.
Người Việt cũng tới cả
Tân-Tây-Lan. Trong những cuộc nghiên-cứu văn-hoá nghệ-thuật vào
năm 1937, Heine Geldern t́m thấy có nhiều liên-hệ trực-tiếp giữa
các dân-cư quần-đảo Marquesas và vùng Đông-Á khoảng 600 TTL. Sau
đó Geldern lại c̣n nói rơ ràng hơn, là người Việt vùng Hoa-Nam
có thể đă hải-hành tới Tân-Tây-Lan vào khoảng 3 thế-kỷ TTL.
Tuy Tân-Tây-Lan (New Zealand)
gần những quần-đảo Polynesia, Mélanesia nhưng nghệ-thuật người
Maori tại đó lại tương-tự như nghệ-thuật của những người Việt Cổ
ở một nơi xa xăm là Hoa-Nam.
11 - Hải-tŕnh đi Hồng-hải và
Địa-Trung-Hải
Trong số các nhà nghiên-cứu
hàng-hải có một học-giả người Đức, Ông Herrmann A. đă theo dơi
những hoạt-động viễn-dương của dân Việt thời cổ. Ông cho rằng họ
buôn bán với bến Adulis ở Hồng-Hải mà sử Tàu ghi là Huang Chih
(ngày nay là hải-cảng Massawa.)
Tài-liệu của Ông Herrmann viết
vào năm 1913 vẫn c̣n được bàn căi. Gần đây, khi các giả-thuyết
"Đông-Nam-Á, một cái nôi văn-minh nhân-loại" bắt đầu được
phổ-biến rộng răi, Tiến-sĩ Wilheim G. Solheim II lấy căn-cứ vào
chứng-tích khảo cổ mới nhất, tin-tưởng rằng đă có những liên-lạc
trực-tiếp giữa Việt-Nam và Địa-Trung-Hải hơn 2,000 năm trước
đây.
Nhờ hải-thương, văn-hoá được
trao đổi giữa hai vùng Ba-Tư (Persia)/ Trung-Đông và Việt-Nam/
Đông-Dương. Những ảnh-hưởng sâu đậm trên một số khía cạnh
sinh-hoạt kể từ trước Công-Nguyên đă được học-giả Shahab
Setudeh-Nejad tường-tŕnh hồi gần đây trong bài "Cultural and
Cosmological Impact of Sasanian Civilization in Vietnam and
Peninsular Areas of Southeast Asia".
12 - Đường biển tới Phi-Châu
Các nhà khảo-cứu Âu-Á-Mỹ ngày
nay nghiên-cứu các sách sử Trung-Hoa, „n-Độ, La-Mă để t́m hiểu
về thương-mại ở „n-Độ-Dương trong những thiên-kỷ trước Tây-lịch.
Nhiều người tin-tưởng rằng dân Việt cổ là những nhà thương buôn
gan dạ, đă vượt biển tới các đảo ngoài „n-Độ-Dương và đi xa tới
tận Ethiopia thuộc Phi-Châu.
Sách sử đầu tiên ghi chép đến
những chuyến đi Á-Phi này là pho Tiền Hán-Thư của Ban-Cố và
Ban-Chiêu. Những đoạn có ghi nơi khởi hành và bến quay về của
"Sứ" Tàu quá giang như sau: "Từ Nhật-Nam, Giao-Chỉ đi bằng
thuyền buôn người Man năm tháng sau tới xứ Tu-Yuan... Nếu không
bị cướp, bi giết, gặp băo hay chết đuối, nhiều chuyến đi dài tới
nhiều năm... Người ta nói phía Nam xứ Huang Chih là xứ
Ssu-Chhêng-Pu. Đến chỗ này th́ "Sứ Hán" quay về".
Vào năm 1696, học-giả Pháp Louis
Lecomte viết trong cuốn sách "Nouveaux Mémoires sur l'état
présent de la Chine", trang 230 rằng những dân-cư lúc xưa ở đất
Trung-Hoa (ngày nay) đă hải-hành khắp „n-Độ-Dương và khám-phá cả
mũi Hảo-Vọng.
Người giỏi Hán-tự có thể
tham-khảo sách Tàu. Với tính tự-cao tự-đại, coi nhẹ nghề
hàng-hải, Sử-thần Trung-Hoa thường có ư phân-biệt các sinh-hoạt
của thuyền-nhân người Man và sinh-hoạt của người Tàu như những
Sứ-thần Thiên-Triều Trung-Nguyên.
Người biết tiếng Pháp, Anh, Đức,
Tây-Ban-Nha; có thể đọc các sách hay bài viết của Needham, Wang
Gunwu, Pelliot, Duyvendak, Grasso... để t́m hiểu về các chuyến
viễn-dương của tiền-nhân Việt-tộc. Những học-giả sau này có lẽ
đă làm người Trung-Hoa rất buồn v́ họ phân-tích c̣n rơ ràng hơn
nữa về vai tṛ của thuyền-chủ cùng thủy-thủ-đoàn người Việt ra
khỏi "sứ-đoàn" quá giang người Tàu.
13 - Đường biển tới Mỹ-Châu
Căn cứ vào khả-năng hàng-hải
tiền-tiến của giống dân Việt, đồng thời t́m thấy nhiều điểm
tương-đồng Mỹ-Việt trước thời-đại Kha-luân-Bố, khá đông các nhà
nghiên-cứu Âu-Mỹ đưa ra giả-thuyết là người Việt cổ đă cùng với
người Trung-Hoa khám-phá và khai-thác Mỹ-Châu nhiều ngàn năm
trước đây. Nói tổng-quát, các khoa-học-gia kim-thời hầu hết đă
chấp-nhận giả-thuyết có sự giao-tiếp hiển-nhiên giữa Á-Mỹ, nhưng
khi đi sâu vào chi-tiết th́ họ vẫn c̣n những điểm bất-đồng.
Khi vai tṛ của Việt trong
công-tŕnh khám-phá Mỹ-Châu lu mờ trước cái bóng to lớn của một
Tàu quá "vĩ-đại" th́ cũng có người t́m ra được những lư-do
xác-thực và lư-luận thích-đáng để phủ-nhận sự hiện-hữu của
Trung-Hoa trong công-tŕnh đó.
Ta hăy xem một trong những
nghiên-cứu tiêu-biểu nhất, đó là bản báo-cáo của Alphonso Caso
tŕnh-bày trong tập-san Congreso Internacional de Americanista,
phát-hành tại Mexico năm 1962, trong đó, Caso đanh thép
lập-luận: "Không một điều nào chứng-tỏ được rằng dân-chúng đời
nhà Thương (Shang) có thể đi xa hơn ngoài bờ biển và việc
xuyên-dương rơ ràng là khỏi phải hỏi tới. Người Tàu đời nhà
Thương, cũng như đời nhà Chu (Chou) đúng là dân ở trong đất
liền, không phải dân sống ngoài biển. Do đó người Tàu không thể
nào là một yếu-tố trong việc phát-minh chữ viết và lịch toán ở
Trung-Mỹ.
Về phần người Việt, những
khả-năng về viễn-dương của cổ-nhân, dù chưa được cả thế-giới
chính-thức suy-tôn, nhưng cũng chẳng bao giờ bị phủ-nhận. Trong
hai năm liên-tiếp 1942-1943, một học-giả Pháp-quốc đứng hàng đầu
về kiến-trúc thuyền bè Việt-Nam, Ông Pierre Paris đă mạnh mẽ
phát-biểu về những ảnh-hưởng văn-hoá Đông-Dương hiện-diện tại
Mỹ-Châu. Hai bài khảo-cứu dài tới hơn 60 trang được đăng tải
trên bưu-báo của hội Học-thuật Đông-Dương các năm 1942-1943.
Ngoài ra lại c̣n có nhiều
học-giả nước khác, trên đường t́m kiếm sự thật, đă và đang cố
công nghiên-cứu đến những khả-năng, phương-tiện, hải-đạo... mà
dân Việt đă dùng để đến Mỹ-Châu. Sau đây xin lược-kê một số nhỏ
các việc làm đó:
a - Những Ṿng cung Ngôn-ngữ ghe
thuyền.
Để hỗ-trợ cho những giả-thuyết
về di dân bằng ghe thuyền từ vùng Đông-Nam-Á đi ra khắp nơi,
người ta thường xem xét đến cách gọi tên ghe thuyền làm
bằng-chứng:
(1) Tiếng "Bè"
Đi theo âm "Bè" hay "Mảng", ta
thấy người Tàu ngày nay sống trong lănh-thổ của Cổ Việt kêu
"B'ai", "Palsam"; thổ-dân Đài-Loan gọi là "P'ai", người Đại-hàn
kêu "Palson", dân Polynesia gọi là "Paepae", người Ecuador kêu
"Balsa", người Brazil gọi là "Jangada". Tài-liệu với chi-tiết về
ngôn-ngữ này được tŕnh-bày bởi Ling Shun-Shêng vào năm 1956€.
Thổ-dân duyên-hải Tây-Bá-Lợi-Á kêu thuyền độc-mộc thông-dụng
trong vùng là "Baidars", người Eskimo gọi là "Umiaks", dân
quần-đảo Salomon kêu loại ghe bản-xứ của họ là "Mon".
(2) Tiếng "Ghe"
Sau đây ta xét tiếp đến tiếng
"Ghe". Stephen C Jett€ lấy thêm tài-liệu từ Ling,€: 1956: 47 và
Thompson€ 1950: 73) cho biết thổ-dân các nơi gọi như sau:
"Banga" ở Đài-Loan, "Banca" ở
Phi-Luật-Tân, "Pongayi" ở Nam-„n, "Pongo" ở Oaxaca, Mễ-Tây-Cơ;
"Bongo" ở Panama, "Panga" ở vùng duyên-hải xứ Colombia. Theo đó,
ta nhận ra rằng âm-hưởng "Ghe" t́m ra ở khắp hai đại-dương, tới
cả Bắc, Trung và Nam Mỹ-Châu.
Ngoài tiếng "bè", tiếng "ghe"
ra, âm-hưởng những ngôn-ngữ hàng-hải khác cũng mang những
dấu-vết tương-đồng như cây "lui-hạ", người Nam-Mỹ kêu là
"Guara", "nước" họ gọi là "Unu" c̣n "khoảng xa" th́ được kêu là
"Kora".
Những con đường biển người xưa
sử-dụng đến nay c̣n ghi lại các dấu vết trên sinh-hoạt của
thổ-dân. Bản-đồ thế-giới về hàng-hải cổ-thời rơ ràng cho thấy đă
có một ṿng cung liên-tục ghi những dấu-tích phát-triển đủ loại
thuyền-bè đi từ Việt-Nam qua Đài-loan lên Bắc Thái-b́nh-Dương
(Kayak, Umiak) qua vùng Đông-Bắc Mỹ, California (Dug-out,
Canoe), Trung-Mỹ, Nam-Mỹ (Balsa).
H́nh thuyền thân
cong, Mái nhà cong và Totem được t́m thấy trên khắp ṿng cung
Thái-B́nh-Dương trong cổ thời. (H́nh lấy từ bản-đồ của
Covarrubias, 1940: thuyền thân cong, totem, nhà ở New Zealand và
Bắc-Mỹ. H́nh lấy từ sách "Nguồn gốc Mă-Lai của Dân-tộc
Việt-Nam": mái nhà cong trên Trống Đông-Sơn, Thuyền và nhà của
người Lạc-Việt.)
Bên phía Đại-tây-Dương, những
chuyến xuyên-dương có lẽ không nhiều lắm. Clinton Edwards đă
không thấy những h́nh-ảnh tương-tự như vậy xuất-hiện.
b- Dick Edgar Ibarra Grasso
chứng-minh ảnh-hưởng Đông-Sơn lan tràn khắp các nơi ở
Thái-B́nh-Dương, rơ rệt qua Trung-Mỹ và Nam-Mỹ.
Dick Edgar Ibarra Grasso bắt đầu
viết rất nhiều sách kể từ thập-niên 1930 cho đến hồi gần đây.
Vào những năm của thập-niên 1980, Grasso công-bố rất nhiều
tài-liệu mới mẻ liên-hệ đến tầm ảnh-hưởng của văn-hoá Đông-Sơn
trên đất Mỹ-Châu, làm sửng sốt các giới khoa-học.
Trong cuốn sách ưng-ư nhất của
ông, "America en la Prehistoria Mundial" (Mỹ-Châu trong Thế-giới
Tiền-sử), Grasso đưa ra quan-niệm dứt khoát là không thể có sự
cô-lập ở Mỹ-Châu, tôi (lời Grasso) cho rằng những người
chấp-nhận lư-thuyết văn-minh biệt-lập là điên, không biết lư-lẽ.
Sách gồm 6 chương th́ có tới hai chương chú-tâm bàn-luận đến
ảnh-hưởng Đông-Nam-Á trên đất Mỹ-Châu. Chương I bàn tới các
liên-hệ văn-hoá xuyên-dương mà Đông-Sơn là một nguồn chính. Đến
chương IV, Grasso đưa ra hai giả-thuyết về:
(1)- Những thương-nhân Cattigara
(tiếng gọi hải-cảng cổ xưa ở Bắc Việt-Nam thời Đông-Sơn) đă mang
kỹ-thuật luyện-kim, nhất là đồng và vàng, tới Nam-Mỹ.
(2)- Phải có nhiều di-dân đến
Tân-thế-giới bằng cách dùng hải-lộ xuyên Thái-B́nh-Dương.
Đă có nhiều nhà nghiên-cứu viết
tiếng Tây-Ban-Nha phát-biểu cùng ư-kiến với Grasso. Học-giả
Pedro Bosch Gimpera cho rằng nền văn-minh Đông-Sơn đă mang lại
những hiểu-biết về kỹ-thuật luyện-kim cho vùng Chavin ở Peru.
c- Edwin Doran t́m ra những
ảnh-hưởng kiến-trúc ghe thuyền Việt ra Đại-Dương-Châu.
Người Việt có mặt tại Úc, tại
Tân-Tây-Lan, cũng truyền-bá ảnh-hưởng kỹ-thuật ghe thuyền ra
Đại-Dương-Châu.
Edwin Doran, Jr. , một
chuyên-gia về ghe thuyền thế-giới, cho rằng nguyên-thủy của loại
thuyền nhiều thân rải rác khắp Thái-B́nh-Dương và cũng thấy ở
„n-Độ-Dương có lẽ phát-xuất từ Việt-Nam.
Doran rất nổi tiếng nhờ đă
khám-phá ra nhiều hiểu-biết mới lạ về khả-năng vượt đại-dương
của bè và ghe nhỏ. Ông và Stephen Jett đồng-ư với nhau là
liên-lạc giao-tiếp xảy ra trước nhất giữa Á và Mỹ-Châu có thể
qua phương-tiện là những chiếc bè chạy buồm có gắn cây xiếm như
thường thấy ở Trung-phần Việt-Nam và Đài-Loan.
d- Robert Von Heine-Geldern
trong suốt một phần tư thế-kỷ kể từ 1939, đă viết rất nhiều về
giao-tiếp Á-Mỹ. Ông liệt-kê thành hệ-thống những điểm
tương-đồng, lưu-tâm khá nhiều đến nền văn-minh Đông-Sơn. Ông cho
rằng những dân đi biển ở Đông-Á tới Mỹ-Châu trước hết, người „n
nhờ học hỏi kinh-nghiệm người đi trước, cũng vượt
Thái-B́nh-Dương đến sau. Tàu thuyền Đông-Nam-Á và „n-Độ có thể
cũng hải-hành về hướng Tây, vượt cả Đại-Tây-Dương tới Mỹ một
cách ngẫu-nhiên.
e- Kuno Knobl, một phóng-viên
Đức làm cho Đài truyền-h́nh Úc, sau khi thấy "chùm giây buộc
nút" (knotted cords - kết-thằng) trong viện Bảo-tàng ở Huế giống
y hệt loại Quipu của Peru, nh́n nhận ra rằng đă có sự giao-tiếp
trực-tiếp giữa hai nơi. Để chứng-minh niềm tin của ḿnh là đứng
đắn, Knobl đứng ra quyên góp tiền bạc, đóng thuyền buồm theo
kiểu cổ-thời Đế-quốc Nam-Việt với thủy-thủ-đoàn 8 người từ
Hồng-Kông đi Mỹ-Châu. Con hà (teredo), một loại sâu gỗ thân mềm,
đục thủng ván gỗ làm hư hỏng vỏ thuyền trước khi tới bờ biển
Mỹ-Châu, phải nhờ thương-thuyền cứu giúp. Sách viết bằng
Đức-ngữ, nhan-đề "Thái-Cực", bản dịch Anh-ngữ: Tai-Ki, Journey
to the Point of No Return.
f- Tiến-sĩ Gunnar Thompson sáng
lập Nu-Sun institute, cũng dự-trù thiết-lập một bảo-tàng-viện về
viễn-dương, một trung-tâm nghiên-cứu về một Thái-B́nh-Dương
hoà-b́nh và một tờ báo định-kỳ, xuất-bản mỗi ba tháng. Sẽ có một
chuyến hải-hành hoà-b́nh tưởng-niệm những lần Nu-Sun vượt
Thái-B́nh-Dương. Cuộc đi này sẽ dùng tàu thuyền kiểu Á-Đông,
khởi-hành từ Đông-Dương qua Nhật, Tây-Bá-Lợi-Á, Gia-Nă-Đại,
Hoa-Kỳ, Mễ-Tây-Cơ, El Salvador, Guatemala, Nicaragua và trở lại,
qua ngả Polynesia.
Thompson viết sách "Nu-Sun,
Asian-American Voyages 500 B.C.", tin-tưởng rằng người Á-Đông,
lănh-đạo bởi những nhân-vật huyền-thoại như Đô-Đốc Nu-Sun
(Nguyễn-Sơn), đă hải-hành tới Guatemala và Honduras khởi-sự từ
năm 500 TTL, thiết-lập một thuộc-địa thương-mại giữa dân bộ-lạc
Maya, họ sống thật hoà-hợp và giúp phát-triển nền văn-minh ở
Tân-thế-giới. Công-tŕnh biên-khảo của tác-giả rất công-phu,
đặc-biệt cung-cấp nhiều h́nh vẽ chi-tiết, trải dài khắp cả cuốn
sách, chứng-minh hùng-hồn sự thật hiển-nhiên về giao-tiếp Á-Mỹ.
Truyền-thống hàng-hải Cổ Việt,
văn-minh Đông-Sơn được đề-cập đến rất nhiều. Theo Thompson€, con
đường hàng-hải Á-Mỹ mà cổ-nhân sử-dụng trên Thái-B́nh-Dương là
theo chiều kim đồng-hồ, với ḍng nước và gió mùa rất thuận-lợi
cho các tàu thuyền buôn bán qua lại suốt thời-gian dài nhiều
ngàn năm.
g- Tim Severin vượt biển với bè
Sầm-Sơn
V́ thán-phục học-thuyết
"xuyên-dương" của Joseph Needham, Tim Severin đă quyết-tâm
minh-chứng rằng người Á-châu đă tới Mỹ nhiều ngàn năm trước đây.
Nhà văn Ái-Nhĩ-Lan này rất ưa thích việc khảo-cứu hàng-hải.
Chiếc bè của Severin được đóng
tại Sầm-Sơn (Thanh-Hoá, Việt-Nam) gồm có 220 cây luồng buộc lại
với nhau bằng những giây leo trong rừng dài tới 46km, đặc-biệt
không dùng đến một chiếc đinh nào bằng kim-loại. Thủy-thủ-đoàn
gồm có 5 người, trong đó có một người Việt-Nam, đă lái chiếc bè
này bằng cách điều-chỉnh độ nông sâu của 10 chiếc xiếm. Họ đă
hải-hành qua 5,500 hải-lư, tức là gần hết hải-tŕnh xuyên
Thái-B́nh-Dương 6,500 hải-lư th́ chiếc bè bị bể.
Tim Severin vượt
biển từ Sầm-Sơn (ghé Hồng-Kông) tới Mỹ với bè Sầm-Sơn
14 - Càng đi xa, càng thêm nhớ
quê-hương đậm đà.
Người Việt yêu nước, yêu dân
thật đậm đà. T́nh yêu quê-hương đă buộc chặt đời họ vào làng
nước. Paul Mus ví sự thống-nhất của dân-tộc Việt như một sợi dây
xích.
Người Việt thuở xa xưa sống đời
hải-hồ, cũng thương yêu đồng-bào của họ không kém. Chúng tôi
dịch thoát ư một đoạn văn kể chuyện trong sách Nam-Hoa-Kinh của
Trang-Tử (thế-kỷ thứ 4 TTL.) để làm chứng.
Phần trích-dẫn này là lời của
một vị Đạo-gia nói với Ngô-Công nước Vệ :
"Ngài đă từng nghe người ta kể
chuyện về giống dân Việt chuyên đi giang-hồ nay đây mai đó hay
không?
Khi người Việt xa quê-hương
nhiều ngày, họ vui khi nh́n thấy người thân. Khi họ xa quê-hương
nhiều tuần nhiều tháng, họ sung sướng khi gặp được người đă từng
gặp gỡ một lần ở quê nhà. Nhưng thời-gian cứ trôi qua, khi xa
quê-hương suốt cả năm dài, họ hân-hoan tột độ cho dù chỉ gặp
được một người nào đó trông hơi giống như người bản-xứ của họ.
Càng xa nhà càng lâu, giống dân Việt này lại càng nhung nhớ,
càng có ḷng thân-ái với đồng-bào của họ hơn. Thưa Ngài, chuyện
thật như vậy đó !"
Nhân khi kể câu chuyện này,
Needham và các đồng tác-giả pho sách "Science and Civilisation
in China" muốn đưa ra như một chứng cớ là người Việt vào thời
Chiến-quốc (403-256 TTL.) đă xây dựng được cả một hệ-thống gồm
nhiều hải-tŕnh viễn-thương.
15- Tị-nạn Việt từng xuyên-dương
hàng ngàn năm trước
Nhiều nhà nghiên-cứu đă mang ra
ánh-sáng những ư-kiến mới mẻ về sự hiện-diện của di-dân nói
chung và tị-nạn Việt nói riêng trên đất Mỹ-châu từ nhiều ngàn
năm qua.
Một số tài-liệu điển-h́nh như
sau :
(1)- Arnold Channing và
Frederick J. Tabor Frost cho rằng các phế-tích Mayan cũng cổ như
các phế-tích ở Ai-Cập. Các kiến-trúc-sư đầu-tiên là những
Phật-tử di-dân từ Bán-đảo Hoa-„n và Nam-Dương đến Trung-Mỹ bằng
tầu, mỗi chiếc chở được hai hay ba trăm người. Trong khu-vực 150
dậm Anh gần Copan, những công-tŕnh điêu-khắc mang nặng các nét
thuần-túy Đông-Dương.
(2)- Joseph Campbell họa bản-đồ
đường di-dân từ Đông-Á qua Mỹ châu ngang quần-đảo Aleutian,
Alaska, Bắc, Trung và Nam-Mỹ tới Ecuador. Ông quả-quyết có nhiều
chứng-cớ hiển-nhiên không chối căi được là những người Đông-Á,
trong đó có Bắc Việt-Nam, Cambodia, Tàu, Nhật đă khởi-sự di-cư
sang Mỹ từ thời Cựu-thạch, khoảng 3,000 năm TTL.
(3)- William Henry Holmes
phát-biểu sự đồng-ư với lư-luận của nhiều học-giả khác mà ông
nhắc đến làm dẫn-chứng rằng: di-dân Á-châu chiếm hầu hết
thành-phần di-dân đến Mỹ-châu. Tuy vậy, Holmes nói rằng ta không
nên bỏ qua sự khả-hữu của các di-dân khác thuộc giống
Bạch-chủng, Đa-đảo và cả Hắc-chủng nữa.
(4)- Stephen C. Jett, ngoài sự
tŕnh-bầy những nét tương-đồng ĐNÁ - Nam-Mỹ về nhiều phương-diện
mà ông lập thành hệ-thống chặt chẽ, lại c̣n đưa ra sự so-sánh về
các yếu-tố nhân-h́nh của giống người Mă-lai và dân Nam-Mỹ. Jett
đề-nghị có thêm thử-nghiệm cho giả-thuyết về sự di-dân ngang qua
Thái-B́nh-Dương. Trong khi chờ đợi có thêm chứng-cớ hiển-nhiên
khác nữa, ông nhận rằng chỉ có các cuộc di-dân như vậy mới là
cách giải-thích có thể chấp-nhận được về những sự giống nhau như
in hệt bao gồm cả các lănh-vực chủng-tộc, văn-hóa, thảo-mộc giữa
Mỹ-châu nhiệt-đới và vùng Mă-lai.
Theo những tài-liệu xuất-bản hồi
gần đây, nguồn gốc dân-tộc ta dính liền với giống Mă-lai nên
những yếu-tố về nhân-h́nh như chiều cao tầm-thước, sọ ngắn, loại
máu O ... mà Jett đưa ra so-sánh, cũng rất sát với đặc-điểm của
người Việt chúng ta. Riêng mầu da, mái tóc; những đồng-bào ta
sống ở núi rừng, đồng ruộng, đời sống lam lũ, dầm mưa giăi nắng
quanh năm, qua nhiều thế-hệ cũng có người ngả sang mầu nâu, hung
đỏ gần như mầu da thổ-dân Mỹ-châu.
(5)- Rafique Ali Jairazbhoy đưa
ra chứng-cớ về di-dân từ khu-vực của Trung-Hoa và Ai-Cập đă đóng
góp cho nền văn-minh Mỹ-châu. Ông có một nhận xét rất đặc-biệt
rằng ảnh-hưởng của văn-minh Trung-Hoa không thực-sự sâu đậm
nhưng bàng bạc khắp nơi trong mọi lănh-vực của đời sống Mỹ-châu.
(6)- Paul Shao, học-giả gốc
Trung-Hoa, tŕnh bầy trên quan-điểm nghệ-thuật cổ-thời,
sinh-hoạt Á-Đông và Mỹ-châu có thật nhiều sự tương-đồng sâu-sắc,
cả đến trong các lănh-vực triết-lư, tôn-giáo.
Theo Paul Shao, tuy có văn-minh
Trung-Hoa trên đất Mỹ nhưng những di-dân Á-Đông mang văn-minh đi
truyền-bá phần lớn lại không phải người Trung-hoa thuần-túy mà
là các giống dân khác như Đông-Di, Nam-Man...
Shao là một trong số các tác-giả
hiếm hoi đưa ra đề-nghị nghiên-cứu kỹ-lưỡng vai tṛ khai-phá
Mỹ-châu của tị-nạn Việt chúng ta, đặc-biệt là các "thuyền-nhân"
trốn chạy ngoại-xâm. Nhiều biến-cố trong cổ-sử Á-Đông được ông
mang ra phân-tích và bàn nhiều đến những đợt sóng tị-nạn vượt
thoát ra Biển Đông từ 4,000 năm xưa.
Theo sử
Trung-Hoa, địa-bàn sinh-hoạt của người Bách-Việt trải dài từ
Ngô-Việt (bán-đảo Sơn-Đông) tới Việt-Thường (Huế).
Bản-đồ lấy
trong sách "China's March Towards the Tropics", Harold J. Wiens,
Conn, 1954.
(7)- Oswald Menghin dành th́-giờ
viết nhiều về thuyền-nhân vượt biển từ Á qua Mỹ, khá nhiều
chi-tiết liên-hệ đến văn-minh Đông-Sơn. Theo Menghin, đă có
nhiều đợt di-dân bằng đường biển khắp nơi. Riêng những người
di-cư từ Đông-Dương và Hoa-Nam đă tới Mỹ bằng nhiều đợt, kéo dài
trong suốt khoảng thời-gian từ 3,000 năm TTL cho đến năm 1,000.
8- Grafton Elliot Smith nhận ra
rằng văn-minh Mỹ-châu trước thời Kha-luân-Bố không hoàn-toàn có
tính-cách bản-xứ mà phần chính c̣n được gây cảm-hứng từ những
di-dân vượt Thái-b́nh-Dương suốt trong mười hai thế-kỷ sau khi
Thiên-chúa giáng-sinh và có lẽ 2 hay 3 thế-kỷ trước đó nữa.
Smith viết nơi các trang 117-129: "Những sự hiển-nhiên chỉ-dấu
cho biết Đông-Dương là nguồn cảm-hứng chính cho văn-minh Maya"€.
Ông chú-tâm đến bán-đảo Hoa-„n mà ông cho rằng việc nghiên-cứu
vùng Đông-Dương cần-thiết hơn là hướng nỗ-lực đó qua phía „n-Độ.
16- Kiến-thức giúp các nhà
Mỹ-Châu-Học.
Tân thế-giới Mỹ-châu là lục-địa
cô-lập, hoàn toàn bị ngăn cách với Cựu thế-giới bằng các
đại-dương. V́ giao-tiếp văn-hoá giữa hai nơi chỉ có thể
thực-hiện được bằng đường biển nên người ta cần t́m hiểu
kỹ-thuật kiến-trúc ghe thuyền. Đó là lư-do thúc đẩy những nhà
xuất-bản cho in các sách nghiên-cứu mới và tái-bản những sách cũ
mà tài-liệu liên-hệ đến nền hàng-hải cổ-thời của Việt-Nam chúng
ta.
Khi phát-hành sách của Pierre
Paris, Cơ sở xuất-bản của Museum voor Land- en Volkenkunde en
Maritiem Museum -Prins Hendrik kể trên cũng góp ư trong phần
Avant-Propos rằng thuyền bè từ Đông-Á và Đông-Nam-Á đă hải-hành
qua lại Mỹ-Châu trong khoảng từ năm 1,000 TTL. đến năm 1,200.
Trong lúc nghiên-cứu về liên-hệ
nghệ-thuật giữa Á-Đông và Mỹ-Châu, một số học-giả Âu-Mỹ đă thắc
mắc tại-sao các ảnh-hưởng nghệ-thuật khởi sự nhiều ngàn năm TTL.
lại đột ngột chấm dứt vào khoảng năm 1,000 như trường-hợp Oswald
Menghin phát-biểu ở trên. Các nhà khảo-cổ tên tuổi như Robert
Heine-Geldern, Gordon F. Ekholm, Gordon R. Willey khi khảo-sát
văn-minh cổ Trung-Mỹ cũng có những nghi-vấn tương-tự.
Dựa vào sử Trung-Hoa và
Việt-Nam, người tị-nạn Việt-Nam như chúng ta có thể t́m kiếm ra
được những câu trả lời hữu-lư như sau:
- Những đợt di-tản của người
Bách-Việt khởi sự vào thời người Tàu bắt đầu bành-trướng (2
thiên-kỷ TTL.)
- Người Việt trốn chạy bằng
đường biển, đă mang ảnh-hưởng văn-hoá Á-Đông đi khắp nơi,
đặc-biệt có những nhóm tới cả Mỹ-Châu.
- Người Việt tiếp-tục ra đi v́
người Tàu cai-trị dân ta một cách tàn ác.
- Di-cư chỉ ngưng lại khi người
Việt-Nam đạt được mộng-ước tự-trị ở vùng châu-thổ sông Hồng,
sông Mă vào thế-kỷ thứ 10. Khi không có người ra đi, ảnh-hưởng
văn-hoá nghệ-thuật sang Mỹ-Châu đương-nhiên cũng chấm dứt.
V́ cơn quốc-biến, người Việt
đành chấp nhận phải giang-hồ xa quê-hương. Nhưng tinh-thần yêu
nước và quyết sống chết v́ quê-hương của dân Việt-Nam sau khi
quốc-gia dành được độc-lập lại thật là cao. Joseph Buttinger
xác-nhận trong giai-đoạn 1000-1500 không có một người Việt-Nam
nào đành ḷng rời xa gia-đ́nh, làng mạc quê-hương mà theo giấc
mơ đi t́m đất lạ.
17 - Những hải-lộ của di-dân
thời Hậu Băng Đá.
Thủy-vận là yếu-tố thiết-yếu cho
nền văn-minh nhân-loại. Âu Á xem ra khó gặp gỡ nhau, nếu không
nhờ những cánh buồm no gió. Và ... nếu không có bánh lái gắn vào
đuôi tàu thuyền, Mỹ-Châu có thể vẫn c̣n là lục-địa xa lạ đối với
nhân-loại sinh sống tại Cựu lục-địa.
Tuy vậy c̣n có nhiều khía-cạnh
quan-trọng hơn nữa về việc chuyển-vận trên biển, đặc-biệt ngay
trong buổi b́nh-minh của văn-minh nhân-loại.
Năm 1944, R. Buckminster Fuller
cho ra mắt một tập tài-liệu nhan-đề 'Fluid Geography' căn cứ vào
những quan-sát và kinh-nghiệm của nhiều năm lái thuyền buồm.
Fuller tuyên-bố đă khám-phá ra những hải-lộ con người từng
sử-dụng hàng chục ngàn năm trước. Những kết-quả nghiên-cứu này
xem như rất lạ vào thời đó và vẫn c̣n được coi là mới đến hôm
nay. Theo Fuller, Đông-Nam-Á là trung-tâm truyền-bá văn-minh vào
thời Hậu Băng-Đá.
Vào cuối thời
Băng Đá, nước biển dâng lên, đồng bằng Sunda bị ngập lụt. Theo
Meacham, dân-cư những vùng thấp chạy lên những vùng đất cao hơn.
Dân Việt theo các ḍng Hồng-Hà, Tây-Giang,Dương-Tử lập-nghiệp
tại vùng Đông-Á. (H́nh vẽ lấy trong sách Naga).
Theo Buckminster Fuller, làn
sóng di-dân cũng đă dùng thuyền bè đi xa tới các đảo
Thái-B́nh-Dương, phía Tây qua tận Phi-Châu
Tóm tắt các hải-lộ di-dân của
Fuller như sau:
- Thế-hệ đầu tiên của người đi
biển Đông-Nam-Á, dùng bè thả trôi từ Biển Đông theo những ḍng
hải-lưu đi dọc bờ biển đến những nơi thuận-tiện trong vùng.
- Thế-hệ thứ hai biết dùng buồm
vuông loại căn-bản chạy xuôi theo mùa gió Tây-Nam vào mùa Hạ và
Đông-Bắc vào mùa Đông, đổ-bộ sang bờ biển Trung-Hoa và các đảo
Nhật-Bản.
- Thế-hệ sau nữa, khi biết dùng
buồm chạy vát có khả-năng đi ngược chiều gió để hải-hành đi khắp
nơi. Trong giai-đoạn này, các loại thuyền hai thân hay có thân
phụ outriggers ra đời. Người Đông-Nam-Á mở ra những hải-lộ đi
các nơi trên hai đại-dương „n-Độ và Thái-B́nh. Trên „n-Độ-Dương,
người Đông-Nam-Á đă đi hết con đường cho đến tận biển Ba-Tư và
Địa-Trung-Hải.
Với cách lư-luận này, Fuller đi
đến những kết-luận mới lạ và dễ dàng thuyết-phục mọi người như
sau:
- Những hải-lộ di-dân mang lại
một hệ-quả: ta thấy ngày nay mật-độ dân-cư của thế-giới không
được phân-phối đồng đều. Bờ nước châu Á tập-trung tới 54 phần
trăm nhân-loại mặc-dù chỉ chiếm có 5 phần trăm diện-tích
địa-cầu.
- Ngoài khu-vực "bờ nước châu
Á", phần c̣n lại của nhân-loại rất thưa thớt, sinh sống rải rác
và xa cách nhau. Căn-cứ trên những hải-lộ chuyển-vận và mật-dộ
dân-cư, Fuller kết-luận rằng văn-minh Bắc Á, Âu-Châu và Mỹ-Châu
chỉ tương-đối xảy ra mới đây.
Thuyết
Buckminster Fuller về Hải-lộ phân-tán dân-cư: Khi nước biển dâng
cao, từ Biển Đông di-dân đi ra khắp nơi theo các giai-đoạn
phát-minh thuyền bè, buồm, xiếm...
- Dân-số và tầm quan-trọng của
Bách-Việt thời cổ
Địa-bàn dân Bách-Việt thời cổ
không những bao bọc tới gần 40 phần trăm vùng "bờ nước châu Á"
mà lại chiếm trọn khu-vực thuận-hảo nhất cho sự sinh-hoạt. Nếu
thuyết Fuller chính-xác, nó cũng đưa đến các hệ-quả hiển-nhiên
như sau:
- Bách-Việt một chủng-loại
tương-đối đồng nhất có thể cũng là chủng đông đảo nhất nhân-loại
trong các thiên-kỷ thứ 3 hay thứ 4 TTL. Ước-tính theo tỷ-lệ
Fuller, Việt-chủng có thể chiếm đến khoảng 15-20% nhân-số
thế-giới. Hỗ-trợ cho thuyết này, thống-kê thời nhà Hán cho thấy
đă có cả triệu người tại châu-thổ sông Hồng (lúc đó c̣n hẹp) vào
đầu công-nguyên.
Bản-đồ của Fuller
chứng-minh sự liên-hệ giữa nguồn-gốc văn-minh, di-dân và mật-độ
nhân-số. Lưu-ư địa-bàn rộng lớn và quan-trọng của Cổ-Việt trong
vùng "bờ nước Châu-Á" (Sách Naga)
- Biển Đông của Việt-Nam là
chiếc động-cơ một thời đă đẩy đưa cái nôi văn-minh loài người.
- Giống Việt có lẽ nắm vai tṛ
độc-bá hàng-hải. Căn-cứ trên sử-liệu thời-kỳ đó, người Á-Rập và
„n-Độ chưa xuất-hiện trên biển.
Hỗ-trợ cho thuyết này là thuyết
của Paul Rivet .Nhà ngôn-ngữ-học này có lẽ là học-giả kiên-tŕ
nhất trong việc cố gắng thuyết-phục mọi người hăy tin-tưởng nơi
chứng-cớ ngôn-ngữ khi muốn đi t́m sự thực về mối giao-tiếp giữa
Cựu và Tân-thế-giới.
Nhóm
quan-trọng nhất trong các ngôn-ngữ Đông-Nam-Á là Mon-Khmer/
Việt-Nam đă được truyền-bá đi bằng đường hàng-hải đến Nhật-Bản,
Tasmania, Địa-trung-Hải, Phi-Châu và Mỹ-Châu.
Trong những công-tŕnh
nghiên-cứu của Rivet, người ta lưu-tâm tới một khám-phá
hoàn-toàn mới lạ về tầm quan-hệ mật-thiết giữa ngôn-ngữ và
hàng-hải. Sau khi minh-chứng rằng có nhiều giống dân đă
"khám-phá" Mỹ-Châu trước Kha-luân-Bố, Rivet căn-cứ vào
phương-pháp từ-nguyên ngữ-học để đưa ra thuyết sau đây: "Từ
trung-tâm vùng Đông-Nam-Á, một thứ ngôn-ngữ được truyền-bá đi
bằng đường hàng-hải đến khắp nơi như Nhật-Bản, Tasmania,
Địa-trung-Hải, Phi-Châu và Mỹ-Châu". Cuốn sách này lấy những
từ-ngữ Sumérien làm mốc rồi t́m một chuỗi danh-từ tương-đương
của các thứ tiếng Melanesian, Polynesian, Indonesian, Munda,
Mon-Khmer, Australian, Tasmanian và Ainu để so sánh và đi đến
kết-luận rằng Đông-Nam-Á chính là nơi xuất-xứ những chuỗi từ-ngữ
đó.€
19 - Nhớ về các chuyến vạn-lư
xuyên-dương
Mang tâm-trạng một thuyền-nhân
xa xứ nhớ tới những ngày xuân của tiền-nhân nơi đất khách trong
các chuyến hải-hành vạn-lư xuyên-dương đă bị đời quên lăng,
chúng tôi xin chép lại đây những thành-tích lẫy lừng của tổ-tiên
dân Việt ta và cũng là những anh-hùng biển cả ngày xưa.
Tuy vậy bài viết này, như đă
được tŕnh-bày kèm theo với nhiều dẫn-chứng, không phải là
chuyện giả-tưởng.
Chúng ta đồng-ư với học-giả
Buckminster Fuller trong câu phát-biểu có tính-chất triết-lư của
Ông như sau: những dân-tộc Đông-Nam-Á (trong đó thành-phần cốt
cán là dân Việt-Nam) đứng biệt-lập với những giống dân khác v́
họ được thiên-nhiên ban-phát cho cái bản-năng của loại dân nước,
dân thuyền. Họ đă từng nắm được chân-lư về sự kết-hợp nhẹ nhàng
trong các kiến-trúc (principle of lightweight structural
tensioning) áp-dụng vào đời sống.
Đi theo quan-niệm của
Buckminster Fuller, chúng ta cũng như Ông, cùng mong rằng v́ sự
sống c̣n của nhân-loại trong tương-lai, con người nên noi theo
chân-lư "nước" đó mà tiết-kiệm vật-liệu, năng-lượng v.v...
Dịện-tích
"lục-địa" Đông-Nam-Á thời Băng Đá rộng lớn hơn toàn-thể nước
Trung-Hoa hiện-thời (9,561,000km2 tức 3,691,521 dậm vuông) hay
hai lần lớn hơn Âu-Châu (1,905,000 dậm vuông).
Nền văn-học dân-tộc, theo đúng
nghiă phải phản- ảnh các sinh-hoạt của dân-tộc ấy. Tuy vậy
văn-học nước ta đă có một khoảng trống quá lớn về Hàng-hải. Ngày
xưa, nền văn-hoá "Nước" tiền-tiến của nhân-loại đă khởi-sự tại
vùng quê-hương chúng ta. Cho đến nay, sinh-hoạt sông biển vẫn
tiếp-tục quan-trọng biết là nhường nào. Thế nhưng, văn-học đă
vô-t́nh lăng quên.
Triết-lư sống của dân-tộc chúng
ta thật là cao và đă có sẵn. Theo một số học-giả đương-thời,
người Việt là giống dân-cư bản-địa tại vùng Biển Đông với nền
"Văn-hoá Nước". Xin hăy ngưng việc t́m kiếm những thuyết
"hăo-huyền" nào đó ở Tàu, ở Tây...
Và cũng đă đến lúc chúng ta
không c̣n thể đọc tiền-sử của Việt-Nam một cách lầm lẫn, để lạc
mất quá-khứ và nguồn gốc dân-tộc.
Cho dù bài này không thuyết-phục
hoàn toàn được độc-giả theo ư người viết, chúng tôi luôn luôn
giữ vững niềm tin-tưởng rằng với các chứng-liệu mỗi ngày mỗi
nhiều thêm, rồi ra sẽ có những người viết khác chứng-minh sự
thực |