|
Nguời cổ Đông Nam Á
Vietsciences-Nguyễn
Đức Hiệp
Những bài cùng tác
giả
(1) Đông Nam Á, thời băng hà - Đất tổ của người AustroAsiatic,
Austronesian
Thời kỳ địa chất Cenozoic, cách đây 65 triệu năm cho đến ngày nay, là
thời kỳ động vật có vú và chim bắt đầu. Thời địa chất Cenozoic gồm có
hai kỷ - kỷ thứ ba (Tertiary) và kỷ thứ tư (Quaternary) — Trong 2 kỷ này
gồm có 7 kỷ nguyên (epochs). Kỷ thứ ba có 5 kỷ nguyên Paleocene, Eocene,
Oligocene, Miocene, và Pliocene và Kỷ thứ tư chỉ gồm hai kỷ nguyên, thời
kỳ Pleistocene và Holocene.
Con người bắt đầu xuất hiện vào thời kỷ nguyên Pleistocene, nhưng chỉ
bắt đầu có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống trên trái đất vào đầu
thời Holocene cách đây gần 12000 năm.
Kỷ thứ ba (Tertiary) |
Paleocene
: 65-57 triệu năm trước
Eocene
:
57-34 triệu năm trước
Oligocene
: 34-23 triệu năm trước
Miocene
:
23-5
triệu năm trước
Pliocene
:
5-2
triệu năm trước
|
Kỷ thứ tư (Quarternary)
|
Pleistocene
: từ 2 triệu năm đến 13,000 năm trước đây
Holocene
:
12,000 năm trước đây đến ngày nay |
Tiến bộ then chốt nhất về khoa học trái đất là sự khám phá trong thập
niên 1990 khí hậu địa cầu trong quá khứ 100000 năm đă qua: từ thời băng
hà cuối của kỷ nguyên Pleaistocene đến thời Holocene ngày nay. Dữ kiện
khoa học về thời tiết và nhiệt độ nước biển đă được biết qua các nghiên
cứu các lớp san hô, những mẫu phù sa, các tầng nước đá ở Bắc cực trước
đây trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhưng chỉ hơn 15 năm gần đây,
qua sự tổng hợp và các hợp tác nghiên cứu liên ngành để giải thích các
sự kiện lịch sử con người trong quá khứ cũng như tiên đoán
khí hậu môi trường sống trên trái
đất
trong tương lai, các nhà khoa học đă cấu tạo lại các dữ kiện khí hậu xưa
kia trên trái đất rất chi tiết cho đến các đây hơn 100,000 năm để làm
nền tảng cho các nghiên cứu sau này. Quan trọng nhất là qua các lớp nước
đá lấy ở đảo Greenland gần bắc cực từ trên mặt băng xuống sâu đến tận
đất, các nhà khoa học dùng tỉ lệ đồng vị oxygen 18 và oxygen 16 để kiến
tạo lại nhiệt độ trong khoảng 120000 năm cách đây, cho thấy thời kỳ
Holocene, khi thời kỳ băng hà cách đây 12000 năm chấm dứt, là thời kỳ mà
sự thay đổi khí hậu nhiệt độ ít biến động và thay đổi với mực độ không
to lớn so với thời băng hà ở kỷ nguyên Pleistocene. Thời kỳ băng hà này
có nhiều sự thay đổi lớn lao đột ngột qua giai đoạn ấm rồi trở lai lạnh
(xem H́nh 2c). Những biến động từ lạnh đến ấm trong thời băng hà được
gọi là biến động Dansgaard-Oeschger, và ngược lại từ ấm đến lạnh là biến
động Heinrich.
Trong giai đọan chuyển tiếp từ thời băng hà đến Holocene lúc nhiệt độ
tăng và ấm trong một thời gian th́ th́nh ĺnh cách đây 12000 năm, nhiệt
độ giảm mạnh thay đổi khí hậu trở lại lạnh như trong thời băng hà. Thời
kỳ này các nhà khoa học khí hậu gọi là Young Dryas. Đây cũng là lúc con
người phải sống dựa vào thực vật, bước ra khỏi thời đá cũ và canh nông
ra đời. Sau thời Young Dryas rất ngắn, khí hậu trở lại ấm và đi vào kỷ
nguyên Holocene ngày nay. Vào thời Holocene, cách dây khoảng 8200 năm
(6200BC), hơn 3000 năm sau Young Dryas, nhiệt độ bổng nhiên tụt xuống
lạnh trong ṿng 60 năm, làm vùng Mesopotamia (gần Iraq ngày nay) bị hạn
hán tàn phá canh nông. Đa số con người phải bỏ đi, xuôi theo sông Tigris
và Euphrate xuống hạ lưu gần vịnh Ba Tư và từ đó canh nông dẫn nước ra
đời. Và cách đây 4200 năm (2200BC), sự thay đổi khí hậu đột ngột đă làm
vùng Sahara xanh tươi, ẩm và ấm trở thành sa mạt và nền văn minh
Harappa, ở lưu vực sông Ấn hà (Indus), cũng như nhiều đế quốc và triều
đại ở Cận đông và Ai Cập biến mất.
H́nh 1 - Ảnh vệ tinh vùng Đông Nam Á dưới độ sâu 100m của thềm lục địa
|
H́nh 2a - Độ dâng nước biển cuối thời Pleistocene đến ngày nay |
|
H́nh 2b -
Độ
dâng nước biển
thời Holocene đến ngày nay |
H́nh 2c - Nhiệt độ ở giữa đảo Greenland trong 100000 năm vừa qua, tái
tạo từ sự đo nồng độ oxygen và đồng vị oxygen 18 trên tầng nước đá lấy
được trong chương tŕnh nghiên cứu GISP2 giữa thập niên 1990 (8). Để ư
là trong thời kỳ băng hà cuối Pleistocene, có nhiều biến động thay đổi
khí hậu đột ngột lên xuống bất thường, biến động ấm Dansgaard-Oeschger,
và ngược lại từ ấm đến lạnh (biến động Heinrich). Giai đoạn cuối trước
khi vào thời Holocene cách đây khoảng hơn 12000 năm, từ ấm th́nh ĺnh
chuyển đến thời kỳ lạnh goi là Young Dryas (YD), là lúc con người bắt
đầu thuần hóa thực vật bước vào thời kỳ canh nông.
(a) Địa lư - Động vật và thảo vật
Cả vùng biển hiện nay từ nam mũi Cà mau, vịnh Thái Lan đến các eo biển
giữa các đảo Sumatra, Borneo, Java đều rất nông cạn và được gọi là thềm
Sunda (Sunda shelf). Trong thời kỳ băng hà Pleistocene từ cách đây 20000
đến 18000 năm, thềm Sunda c̣n ở trên mặt nước biển. Lúc nước biển c̣n
thấp (từ 100m đến 150m dưới mực nước hiện nay) th́ phần lớn thềm lục địa
ở biển Đông và cả vùng vịnh Thái Lan, nam Việt Nam nối dài với bán đảo
Mă Lai vẫn c̣n là đất liền trên mực nước biển hiện nay và các đảo lớn ở
Nam Dương, như Sumatra, Java, Borneo, Bali .. c̣n gắn liền với lục địa Á
châu. H́nh 1 chụp từ vệ tinh cho thấy rơ thềm Sunda nối với các đảo tạo
thành Sundaland gắn liền với lục địa Á châu. Vết tích của thời kỳ này
c̣n có thể t́m thấy được qua sự nghiên cứu về sự phân phối ở các động
vật trên các vùng ở Đông Nam Á. Tê giác 1 sừng, Rhinoceros sondaicus,
trước đây không lâu (đầu thế kỷ 20) có ở các vùng trải
dài từ Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, Cam Bốt, bán đảo Mă Lai, Sumatra
và Java. Ngày nay, do sức ép và sự bành trướng của con người ảnh hưởng
đến môi trường sống, chúng chỉ c̣n ở Java và một ít ở Việt Nam thuộc khu
vực rừng quốc gia Nam Cát Tiên, Lâm Đồng. Cũng vậy, tê giác 2 sừng loại
Sumatran rhino (Dicerorhinus sumatrensis) hiện hữu sống phân phối từ
Miến Điện, Thái Lan, Mă Lai, đảo Sumatra và Borneo.
Loài Orang Utan (“người rừng”), hiện nay vẫn c̣n ở rừng nhiệt đới nóng
ẩm Sumatra và Borneo, cho ta thấy là khi Borneo c̣n gắn liền với Sumatra
và lục địa Á châu, chúng đă đi lại qua các vùng nhiệt đới xích đạo ở hai
nơi (1). Lạ hơn là giống Orang Utan ở Tây Nam Borneo và Sumatra rất gần
gụi giống nhau hơn là giữa Orang Utan phía Tây Nam Borneo và các nơi
khác trên cùng đảo Borneo. Thêm một sự kiện nữa là các giống cá ở sông
Kapuas, phía tây Borneo hầu như giống y như các loài cá ở các sông phía
đông đảo Sumatra mà lại rất khác với các giống cá ở sông Mahakam phía
đông Borneo cách sông Kapuas qua một rặng núi mà thôi. Điều này cho thấy
xưa kia sông Kapuas và các sông đông Sumatra cùng chung một lưu vực
(catchment) nối liền hai đảo Sumatra và Borneo hiện nay.
Cũng vậy loài voi hiện diện ở khắp vùng Nam lục địa Á châu từ Sri Lanka,
Ấn độ, Miến Điện, Thái Lan, Nam Trung Quốc (Vân Nam), Đông Dương, Mă Lai
đến các đảo hiện nay Sumatra, và Borneo. Loại voi, Elephas maximus
sumatranus, ở đảo Sumatra và Borneo giống như loài Elephas maximus
maximus ở Sri Lanka và Elephas maximus indicus ở Ấn độ và các nơi khác.
Các dữ kiện trên cho thấy Sundaland trước thời biển tiến là vùng đất lớn
nối các đảo Đông Nam Á với lục địa Á châu cho phép các loại động vật đi
lại phát tán trên vùng này. Con người cũng đă đi đến lục địa Úc châu từ
Đông Nam Á và Sundaland qua các eo biển hẹp ngăn cách Úc với Sundaland.
Con người đă đến Úc cách đây hơn 50000 năm, sớm nhất từ Phi Châu.
Vào thế kỷ 19, nhà sinh học Wallace đă quan sát, nghiên cứu các động vật
ở các đảo Indonesia. Ông t́m thấy có 48 loài động vật giống nhau ở bán
đảo Mă Lai, đảo Sumatra, Borneo và Java. Trong số này có 7 loài vượn khỉ
là những động vật sống trong rừng, không bao giờ lội và chắc chắn không
thể vượt qua 1 dặm nào ở biển; 19 loài thú săn, một vài trong số này
có thể vượt biển bằng lội, nhưng chúng ta không thể nói rằng có nhiều
loài trên vượt qua được các eo biển từ 30 đến 50 dặm cách xa hai bờ
(trừ 1 eo), và 5 loài thú có sừng, ngà, gồm loài
tapir, 2 loài tê giác và 1 loài voi (đă đề cập như trên). Ngoài ra c̣n
có 13 loài chuột, 4 loại ăn bọ, gồm có chuột chù (shrew-mouse) và 6 loại
sóc mà sự vuợt biển qua 20 dặm c̣n khó cho ta có thể tưởng tượng hơn là
các loài thú lớn hơn. Điều trên cho thấy là trước đây đă có thời kỳ các
đảo này nối chung với lục địa Á châu.
Trái lại đảo Celebes và các đảo xa hơn băng qua đường gọi là “đường
Wallace” (Wallace line) chạy qua giữa biển của hai đảo Borneo và Celebes
đă không nối với lục địa Á châu trong thời băng hà đă qua trước đây. V́
độ sâu ở biển giữa đảo Celebes (Sulawesi) và Borneo rất sâu, nên ngay cả
khi mực nước biển thấp hơn hiện nay hơn 100m, eo biển vẫn c̣n là biển
chia cách hai đảo. Đảo Celebes từ 160 triệu năm tách rời từ lục địa cổ
Gondwana (cũng như Madagascar tách rời Phi Châu trong khoảng thời gian
này). V́ thế Celebes biệt lập từ lâu đời và nơi đây có nhiều loài thú
đặc biệt khác với Á châu và không nơi nào khác chung quanh vùng có như
loài khỉ Tarsier spectrum (giống con lemur ở Madagascar), một loại khỉ
nhỏ khoảng 10cm và đuôi dài 20cm, và một loài thú lạ kỳ giống loài heo
mà ta thường biết gọi là Babirusa. Cả hai tương tự như các loài sống ở
Phi châu hơn là Á châu. Heo Babirusa đặc biệt có răng nanh hàm trên cong
ṿng gần đến mắt, giống như ngà voi. H́nh dáng bên ngoài giống như hà
mă. Thật ra loài liên hệ gần giống với heo Babirusa là loài tổ tiên của
hà mă sống cách đây 30 triệu năm được t́m thấy trong các hóa thạch ở bắc
bán cầu. Hoá thạch của con hà mă sơ khai (Merycopotamus) đă được t́m
thấy ở Siwalik, Ấn độ. Đây có thể là tổ tiên của loài heo Babirusa hiện
nay. Sống biệt lập hàng triệu năm, heo Babirusa đă tiến hóa ở đảo Celebe
đến một dạng không giống loài heo nào trên thế giới.
Ở đảo Celebes, nếu không tính các loài dơi, th́ các loài thú vật có vú
hoàn toàn 100% chỉ nơi đây mới có (endemic), hơn cả Úc châu, lục địa đảo
đặt biệt cũng chưa có số lượng như vâ.y. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt
của đảo Celebes, th́ nói chung đường Wallace chạy dài ngăn chia từ giữa
đảo Bali và Lombok lên giữa Borneo và Celebes và là ranh giới động thực
vật giữa Á châu và Úc. Phía bên trái là các đảo Bali, Java, Borneo,
Sumatra. Phía bên phải là các đảo Celebes, Flores, Timor, Lombok, Sumba
và các đảo trong quần đảo Moluku gần New Guinea và Úc. Cũng như đảo
Celebes, trên đảo Flores có nhiều đông thực vật khác với các đảo bên
trái đường Wallace: có loài voi nhỏ
Stegodon sondaari
lớn bằng con trâu nước đă tuyệt chủng, và vào năm 2004 đă t́m
thấy hài cốt của người xưa bé lùn (homo floresiensis) mà giới khoa học
nhân chủng và khảo cổ đă nghiên cứu tranh luận xôn xao gần đây.
(c) Con người
Trước khi biển tiến cách đây 14,000 năm th́ thềm Sunda vẫn c̣n trên mực
nuớc biển, nối liền lục địa Á châu với các đảo Sumatra, Borneo, Java.
tạo thành Sundaland cho phép người cổ Đông Nam Á phân tán và đi qua các
“cầu đất liền” trên vùng rộng lớn này.
Thời đá cổ (Paleolithic) và đá mới
Tiến bộ của khoa học di truyền gần đây cho thấy con người hiện đại đă
khởi xuất từ Đông Phi qua nhiều đợt di cư đă đến Á châu, Trung Đông và
phát tán đi đến các nơi khác. Đợt di cư đầu tiên trong thời kỳ đầu băng
hà là dọc đường biển nam Arabia, Nam Ấn Độ (ghé các đảo Andaman, Nicobar
hiện nay ở Ấn Độ Dương gần Miến Điện) đến Đông Nam Á và đến Úc châu.
Người thổ dân Úc châu hiện nay là các giống dân lâu đời, cũng như người
Dravidian (Nam Ấn), người Melanesian ở Guinea, người Orang Asli trong
rừng ở bán đảo Mă Lai và các giống bộ lạc c̣n sót lại trong rừng rậm ở
các đảo Andaman như các bộ lạc người Jarawa, Onge. Nghiên cứu di truyền
về các tộc trên cho thấy họ là những giống người cổ ở Á châu vẫn c̣n
sống trong rừng khi người thời đá mới với kỷ thuật canh nông xuất hiện
sau này (10). Ngôn ngữ của họ thuộc loại ngôn ngữ cổ Indo-Pacific.
Người thổ dân Andaman lùn đen, giống người pygmie ở Phi châu và các thổ
dân negritos Orang Asli như Semang, Aeta, Boloven ở rừng rậm Mă Lai và
Phi Luật Tân. Hiện nay c̣n rất ít chỉ dưới 500 người, họ là hậu duệ của
người cổ thời đá cũ. Nghiên cứu di truyền học gần đây cho thấy sự liên
hệ của họ với các giống thổ dân ở Úc châu hiện nay. Về h́nh dáng bên
ngoài, khó có thể phân biệt và ta thấy sự giống nhau rất nhiều giữa
người Semang với người thổ dân Úc hiện nay.
H́nh 2 – Người Jarawa (thổ dân đảo Andaman) và nơi trú ngụ.
H ́nh 3- Người Semang ở bán đảo Mă Lai rất giống thổ dân Úc
H́nh 4 - Người đảo Nicobar và người Semoi, ở thung lũng Talun, Mă Lai
(1932)
Một bộ xương hầu như c̣n nguyên vẹn đă được t́m thấy tại một di chỉ gọi
là Gua Gunung Runtuh ở Mă Lai vào đầu thời kỳ Holocene. Phân tích bộ
xương này cho thấy xương rất giống thổ dân Úc ngày nay ở h́nh thái răng
và chân tay (3), và giống những mẫu sọ người ở thời kỳ Mesolithic (đá
trung kỳ) ở Mă Lai và đảo Flores. Sự khám phá này, cùng với các xương
t́m thấy ở Tabon và Niah, cho thấy những người cổ ở Sundaland trong thời
Pleistocene muộn có thể là tổ tiên của người thổ dân Úc hiện nay. Các
đặc tính qua đo lường ở răng và xương chân ở người cổ Sundaland cho thấy
các đặc tính này vẫn c̣n thấy ở các dân cư trong vùng Đông Nam Á cho đến
đầu thời kỳ Holocene. Tuy vậy các khác nhau ở đặc tính về sọ đă được
tích tụ từ cuối thời kỳ Pleistocene ở thổ dân Úc và các dân cư đầu tiên
vùng Đông Nam Á so với các sọ cổ Sundaland.
Cách đây từ khoăng 20000 đến 10000 năm, những giống dân cư này bắt đầu
toă ra đi đến cư ngụ ở vùng thượng du phía bắc và nam Đông Nam Á. Từ đó
trong những môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật
lần lần một cách có hệ thống. Sự kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm
trong rừng, và sự vun xới các cây như cây đậu, đă cho phép họ thiết lập
được đời sống vĩnh viễn, không đi đâu xa, ở các hang, chủ yếu là gần
nguồn nước; đây là cách sống lần lần được các nhóm khác, sống trăi rộng
trong khắp vùng, tiếp thu và thâu nhận. Văn hóa của những nhóm người này
được gọi là văn hóa Ḥa B́nh, do sự khám phá các di chỉ có cùng đặc tính
chung vào đầu thế kỷ 20 đầu tiên ở tỉnh Ḥa B́nh, Việt Nam. Sau này các
di chỉ tương tự được khám phá ở nhiều nơi khác trong vùng Đông Nam Á.
Các đặc tính chung mà ta có thể thấy được về kỹ thuật, tập quán và
đời sống hàng ngày trước đây và cho đến tận ngày nay của nhiều sắc dân ở
Đông Nam Á.
Năm 1933 là năm mà bà M. Colani, nhà thực vật học và khảo cổ Pháp, đă
khám phá ở các hang đá vôi và hầm ở tỉnh Ḥa B́nh là các nơi trú ngụ của
người xưa với các dụng cụ đá sỏi dẻo thô sơ. Bài báo cáo khoa học của
Colani trên tạp chí của trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp đă đưa ra ánh
sáng đầu tiên của văn hóa cổ gọi là “Ḥa B́nh”.
Hang Con Moong, một di tích khảo cổ phát hiện vào năm 1977, trong vườn
quốc gia Cúc Phương, cho thấy người Ḥa B́nh đă cư ngụ lâu đời trong
hang với nhiều dụng cụ đá đẻo và các xương động vật như sóc, khỉ, chó,
heo, tê giác, ḅ (rừng), hưu và các vơ ṣ, trai, ốc. Người Ḥa B́nh là
ai?. Trong hang Con Moong c̣n t́m thấy nhiều hài cốt, đa số xương đă mũn
nát, nhưng c̣n một bộ với răng sọ, cho thấy chủng tộc là Australoid
negrito (6). Tại đây đă phát hiện các tầng văn hóa (5) chia ra như sau:
tầng trên là văn hóa Ḥa B́nh III, tiếp nối với văn hóa Bắc Sơn, có ŕu
mài lưỡi và gốm, tầng kế dưới là văn hóa Ḥa Binh II cổ điển mà Colani
đă phát hiện và mô tả và tầng cuối cùng là văn hóa Hoà B́nh I với công
cụ đá đẻo rất thô sơ có nhiều đặc trưng của nền văn hóa Sơn Vi. V́ thế
nhà khảo cổ Phạm Huy Thông đă cho rằng văn hóa Ḥa B́nh nảy sinh từ nền
văn hóa củ hơn, nền văn hóa Sơn Vi.
Tổng hợp các dữ kiện trên có thể cho ta kết luận là người Andaman, Orang
Asli (negritos) ở Mă Lai, Phi Luật Tân và thổ dân Úc là hậu duệ không
thay đổi nhiều qua thời gian của những người cổ ở Sundaland và chủ nhân
của văn hóa Ḥa B́nh là cư dân về h́nh thái giống như hay có liên hệ rất
gần với các giống dân trên.
Cách đây khoảng 14000 năm, mực nuớc biển tăng lên ở cuối thời kỳ băng hà
đă cắt đứt các “cầu” đất liền nối các đảo ở phía nam Đông Nam Á với lục
địa Á châu. Và qua đó đă làm tăng nhanh quá tŕnh phân hóa và cách ly
giữa các văn hoá bản sứ trong vùng đă bắt đầu phát triển, nhất là ngôn
ngữ. Tuy vậy sự kiện xảy ra sau đó không phải là một thời kỳ của sự cách
ly xa dần của các nhóm mà là sự phát triển cùng thời của các văn hóa bản
sứ này dựa trên một nền tảng chung có cốt rễ là văn hóa Ḥa B́nh thích
ứng với điều kiện riêng ở mỗi địa phương, cộng với sự truyền đạt ư tưởng
và kỹ thuật đă cho phép các phát minh tỏa ra trong một vùng địa h́nh
thiên nhiên. Trong thời kỳ mà Wilhem Soldheim gọi là “thời kỳ phát tỏa”
cách đây từ khoảng 10000 đến 2000 năm, đă xảy ra ở Đông Nam Á sự phát
triển của hầu như tất cả nhu liệu mà ta có thể gắn liền với từ ngữ “văn
minh”, không có liên hệ hay du nhập các sáng chế từ bên ngoài vào. Trong
thời kỳ này, heo ḅ và gà vịt đă được thuần hóa và lúa đă bắt đầu được
trồng. Ở các vùng gần biển, hay dọc theo các sông rạch, nghề hàng hải
bắt đầu từ sự sáng chế ra thuyền có mái chèo. Và người Đông Nam Á đă
vượt biển đi xa đến tận Nhật, Melanesia, Ấn Độ, và đảo Madagascar ở bờ
biển phía đông Phi Châu.
Kỹ thuật văn hóa Ḥa B́nh hiện diện ở nhiều nơi ở Đông Nam Á lục địa,
ngoài hang ở Ḥa B́nh, Con Moong c̣n có thể thấy ở các hang Pha Chang,
Moh-Kiew, Lang Rongrien và Lang Kannam ở Thái Lan. Trong hội nghi kỷ
niệm 60 năm Colani khám phá di chỉ và văn hóa Ḥa B́nh năm 1993 ở Hà
Nội, các học giả Trung Quốc cũng tŕnh bày những địa điểm khảo cổ ở Nam
Trung Quốc có dấu vết của văn hóa Ḥa B́nh.
Người Ḥa B́nh đă đến xuống đồng bằng Bắc Việt định cư dọc sông ng̣i và
bờ biển. Trong khoảng 20000 năm, ho đă tiến hóa song song và có liên hệ
với các dân cư khác ở Đông Nam Á hải đảọ Trước khi biển tiến th́ Đông
Nam Á hải đảo vần c̣n nối liền với lục địa, miền nam Việt Nam hiện nay
và Cam Bốt c̣n nối với Borneo cũng như vịnh Thai Lan c̣n là đồng bằng
mênh mông.
Biển tiến bắc đầu cách đây 15000 năm mà cao điểm là 14,500 chỉ trong
ṿng một thời gian ngắn khoảng 300 năm, mực nước biển lên nhanh khoảng
20m đến mực độ cao cách độ cao hiện nay khoảng 80m gần như nhận ch́m
thềm Sunda (pulse 1A) (7). Thềm Sunda bị ch́m hoàn toàn cách đây khoảng
8000 năm.
Lúc bắt đầu thời kỳ biển tiến, người Đông Nam Á dọc bờ biển và sông đă
tiến hóa qua môi trường khác với người cổ vẫn c̣n trong rừng rậm sống
hái lượm. người ở đồng bằng vịnh Bắc bộ, Trung Việt, Borneo (như người
Dayak), bán đảo Mă Lai, Sumatra, Java đă có sự liên hệ về nhân chủng và
văn hóa. Cách đây khoảng 12000 năm vẫn trong thời kỳ biển tiến, thời
tiết trên thế giới th́nh ĺnh trở lại lạnh, khô kéo dài 1300 năm trước
khi trở lại ấm b́nh thường. Hiện tượng khí hậu này gọi là Young Dryas (tên
của một loài cây thuộc họ hồng, hoa trắng sống trong môi trường núi rất
lạnh khô cằn, đă để lại dấu vết trong các lớp địa chất) đă làm cuộc sống
xă hội loài người thay đổi hoàn toàn, buộc một số phải đi xa sinh sống
và c̣n lại sinh sống bằng canh nông, thuần hóa thú vật. Đây cũng là thời
kỳ canh nông và thuần hóa súc vật xuất hiện đầu tiên ở xă hội người vùng
Cận Đông. Hiện nay chúng ta chưa biết được cuộc sống của người Ḥa B́nh
đă thay đổi như thế nào trong thời kỳ Young Dryas.
Trong một nghiên cứu di truyền mới nhất (9) về sự liên hệ của người cổ
thổ dân negrito ở bán đảo Mă Lai với các giống dân hiện nay ở Đông Nam Á
và Đông Á. Qua phân tích mitochondria DNA (mtDNA) từ mẫu tóc của người
negrito ở Mă Lai trong bộ sưu tập Duckworth Collection và các nhóm người
khác cho thấy lúc đầu họ chỉ trong phạm vi tây nam Trung quốc, bán đảo
Đông Nam Á và Indonesia nhưng sau đó họ đă phát tán nhanh chóng khắp
Đông Nam Á vào giữa cuối thời băng hà và thời Holocene đá mới cách đây
13000 năm.
(2) Đông Nam Á sau biển tiến
Sau biển tiến một thời gian khoảng 10000 năm, Đông Nam Á bắt đầu vào
thời đại đồng cách đây gần 2500 năm, gọi là thời kỳ Đông Sơn. Đây cũng
là thời kỳ Hùng Vương dựng nước trong lịch sử Vi ệt Nam.
Thời kỳ Đông Sơn là thời kỳ mà dân tộc Lạc Việt và các nhóm Bách Việt
khác ở nam sông Dương Tử đă đạt đến tŕnh độ văn minh cao mà trống đồng
là những di vật tiêu biểu. Người Đông Sơn là ai ?
H́nh 5 - Hai ảnh bên trái là bộ mặt của một người đàn ông
Đông Sơn khoảng 40 tuổi và hai ảnh phải là của một phụ nữ
Đông Sơn khoảng 17 tuổi |
Năm 2002, ở làng Đông Xa, tỉnh Hưng Yên, một di chỉ khảo cổ đă được khai
quật bởi các nhà khảo cổ Úc và Việt Nam (từ Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử
Đông Nam Á). Ở di chỉ này, đă t́m được các mộ chứa hài cốt và di vật
chôn theo của người xưa
Nhà nhân chủng học và khảo cổ Việt Nam Nguyễn Văn Việt, học tṛ của nhà
sử học nổi tiếng Hà Văn Tấn, chuyên về kiến tạo lại gương mặt người qua
xương sọ. Ông Việt học từ Đan Mạch các khóa học nắn đúc dùng đất sét và
để tái tạo lại gương mặt từ xương sọ, ông dùng phương pháp của nhà nhân
chủng học người Nga Mikhail Gerasimov mà ông đă học và được biết trước
đây. Việt là người đầu tiên ở Việt Nam dùng xương sọ để kiến tạo lại
gương mặt người xưa. H́nh 5 cho thấy bộ mặt của hai người Đô ng Sơn mà
ông đă tái tạo. Công tŕnh của ông đă gây nhiều thảo luận trong giới
nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học ở Việt Nam. Nguyễn Lan Cường nhà
khảo cổ nghiên cứu về văn hóa Ḥa B́nh và Đông Sơn trước đây (6) cho
rằng phưong pháp tính toán cơ mặt của ông Việt vẫn c̣n có nhiều sai số.
Tuy vậy ông Cường nói sẽ tiếp nối công việc của Việt trong vài năm tới
để tái tạo lại gương mặt và chủng tộc của người Ḥa B́nh sống cách đây
10000 năm.
Lời kết
Hiện nay chưa ai tái tạo lại h́nh ảnh người Ḥa B́nh qua một số rất ít
xương sọ t́m được nguyên vẹn v́ phần lớn đă bị mũn. Tôi h́nh dung người
Ḥa B́nh qua các người của các bộ lạc sống biệt lập trong rừng c̣n sót
lại ở Đông Nam Á và người liên hệ là thổ dân Úc. Tôi sống ở Úc đă lâu và
có nhiều cơ hội gặp và tiếp xúc với thổ dân Úc. Tôi c̣n nhớ lúc c̣n là
sinh viên cách đây hơn 25 năm, cả trường đại học Sydney chỉ có một sinh
viên gốc thổ dân duy nhất trong số hơn 10000 sinh viên. Hiện nay th́ đă
có nhiều tiến bộ về t́nh trạng thổ dân trong xă hội so với trước đây
nhưng vẫn c̣n khoảng cách khá lớn về mức sống . Đa số ít có cơ hội tiến
thân trong xă hội. Ở đ ảo Tasmania (một tiểu bang của Úc), họ đă bị
tuyệt chủng từ cuối thế kỷ 19. Mặc dầu có nhiều bộ lạc khác nhau, nhưng
trên toàn lục địa thổ dân hầu như không khác nhau và không thay đổi
nhiều trong 50000 năm qua. Họ là người cổ nhất, nhóm người đầu tiên đến
từ Phi châu dọc theo ven biển Arabia, Ấn Độ, và Sundaland. Xương t́m
thấy ở di chỉ khảo cổ hồ Mungo (nay đă cạn) được định tuổi là hơn 50000
năm, cổ hơn tất cả các xương người hiện đại đă t́m thấy ở Đông Nam Á.
Sự thuần chủng của ngư ời thổ dân Úc và mối liên hệ của họ với người đảo
Andaman và người c̣n sống trong rừng ở Mă Lai và Phi Luật Tân cho ta
nhận diện chung về h́nh ảnh của người “Ḥa B́nh” xưa, tổ tiên của nhiều
dân tộc ở Đông Nam Á và Nam Trung quốc.
Tham khảo
(1) Penny van Oosterzee, “Where worlds collide - The Wallace line”,
Reed Books Australia, 1997.
(2) Vietnam news Agency, Ancient faces brought to life, 14/08/2005,
http://vietnamnews.vnagency.com.vn/showarticle.php?num=01SUN140805
(3) Hirofumi Matsumura , Majid Zuraina, Metric analyses of an Early
Holocene human skeleton from Gua Gunung Runtuh, Malaysia, Am J Phys
Anthropol 109:327-340, 1999.
(4) Nguyễn Khắc Sử, Hang Con Moong-Giới thiệu và nhận xét, Khảo Cổ Học,
tr. 26-35, số 2(22), 1977.
(5) Nguyễn Huy Thông, Hang Con Moong-Một phát hiện khảo cổ học đáng
chú ư ở Việt Nam, Khảo Cổ Học, tr. 36-43, số 2(22), 1977.
(6) Nguyễn Lan Cường, Di tích người cổ, Khảo Cổ Học, tr. 24, số 2(22),
1977.
(7) T. Hanebuth, K. Stattegger, P. M. Grootes , Rapid Flooding of the
Sunda Shelf: A Late-Glacial Sea-Level Record, Science 12 May 2000, Vol.
288. no. 5468, pp. 1033 – 1035.
(8) J. Cox, Climate Crash: Abrupt Climate Change and What It Means for
Our Future, JHP Press, 2005.
(9) F. Ricaut, M.Bellatti, M. Lahr, Ancient mitochondrial DNA from
Malaysian hair samples: Some indications of Southeast Asian population
movements, Am J Hum Biol. 2006 Sep-Oct;18(5):654-67.
(10) K. Thangaraj, L. Singh et al, Genetic Affinities of the Andaman
Islanders, a Vanishing Human Population, Current Biology, Volume 13,
Issue 2 , 21 January 2003, Pages 86-93
NGƯỜI CỔ ĐÔNG NAM Á
Đông Nam Á là nơi cư trú lâu đời của con người từ khi con người hiện đại
đi từ Đông Phi qua Ấn Độ đến Đông Nam Á hơn 60000 năm nay. Từ Đông Nam
Á, con người đă đi đến Úc châu, và sau đó đă đi lên Đông Á. Người cổ
nhất được t́m thấy ở Úc, ở hồ Mungo (nay là sa mạc), được định tuổi là
khoảng 50000 năm. Hiện nay chưa t́m được di tích người cổ hơn người
Mungo ở Đông Nam Á, nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy Đông Nam Á là
điểm xuất phát của con người đi xuống lục địa Úc trong thời băng hà
Pleistocene. Để có thể hiểu rơ quá tŕnh phát triển của con người, chúng
ta hảy đi ngược lại thời gian t́m hiểu về địa chất, môi trường sống
trong vùng Đông Nam Á từ cuối thời băng hà Pleistocene cho đến ngày nay.
1. Đông Nam Á, thời băng hà - Đất tổ của người AustroAsiatic,
Austronesian
Thời kỳ địa chất Cenozoic, cách đây 65 triệu năm cho đến ngày nay, là
thời kỳ động vật có vú và chim bắt đầu xuất hiện. Thời địa chất Cenozoic
gồm có hai kỷ - kỷ thứ ba (Tertiary) và kỷ thứ tư (Quaternary) — Trong 2
kỷ này gồm có 7 kỷ nguyên (epochs). Kỷ thứ ba có 5 kỷ nguyên Paleocene,
Eocene, Oligocene, Miocene, và Pliocene và Kỷ thứ tư chỉ gồm hai kỷ
nguyên, thời kỳ Pleistocene và Holocene.
Con người bắt đầu xuất hiện vào thời kỷ nguyên Pleistocene, nhưng chỉ
bắt đầu có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống trên trái đất vào đầu
thời Holocene cách đây gần 12000 năm.
Kỷ thứ ba (Tertiary) Paleocene : 65-57 triệu năm trước
Eocene : 57-34 triệu năm trước
Oligocene : 34-23 triệu năm trước
Miocene : 23-5 triệu năm trước
Pliocene : 5-2 triệu năm trước
Kỷ thứ tư (Quarternary) Pleistocene : từ 2 triệu năm đến 13,000 năm
trước đây
Holocene : 12,000 năm trước đây đến ngày nay
Tiến bộ then chốt nhất về khoa học trái đất là sự khám phá trong thập
niên 1990 khí hậu địa cầu trong quá khứ 100000 năm đă qua: từ thời băng
hà cuối của kỷ nguyên Pleistocene đến thời Holocene ngày nay. Dữ kiện
khoa học về thời tiết và nhiệt độ nước biển đă được biết qua các nghiên
cứu các lớp san hô, những mẫu phù sa, các tầng nước đá ở Bắc cực trước
đây trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhưng chỉ hơn 15 năm gần đây,
qua sự tổng hợp và các hợp tác nghiên cứu liên ngành để giải thích các
sự kiện lịch sử con người trong quá khứ cũng như tiên đóan khí hậu môi
trường sống trên trái dất trong tương lai, các nhà khoa học đă cấu tạo
lại các dữ kiện khí hậu xưa kia trên trái đất rất chi tiết cho đến các
đây hơn 100,000 năm để làm nền tảng cho các nghiên cứu sau này.
Quan trọng nhất là qua các lớp nước đá lấy ở đảo Greenland gần bắc cực
từ trên mặt băng xuống sâu đến tận đất, các nhà khoa học dùng tỉ lệ đồng
vị oxygen 18 và oxygen 16 để kiến tạo lại nhiệt độ trong khoảng 120000
năm cách đây, cho thấy thời kỳ Holocene, khi thời kỳ băng hà cách đây
12000 năm chấm dứt, là thời kỳ mà sự thay đổi khí hậu nhiệt độ ít biến
động và thay đổi với mực độ không to lớn so với thời băng hà ở kỷ nguyên
Pleistocene. Thời kỳ băng hà này có nhiều sự thay đổi lớn lao đột ngột
qua giai đoạn ấm rồi trở lai lạnh (xem H́nh 2c). Những biến động từ lạnh
đến ấm trong thời băng hà được gọi là biến động Dansgaard-Oeschger, và
ngược lại từ ấm đến lạnh là biến động Heinrich.
Trong giai đọan chuyển tiếp từ thời băng hà đến Holocene lúc nhiệt độ
tăng và ấm trong một thời gian th́ th́nh ĺnh cách đây 12000 năm, nhiệt
độ giảm mạnh thay đổi khí hậu trở lại lạnh như trong thời băng hà. Thời
kỳ này các nhà khoa học khí hậu gọi là Young Dryas. Đây cũng là lúc con
người phải sống dựa vào thực vật, bước ra khỏi thời đá cũ và kỷ thuật
canh nông trồng trọt ra đời. Thời Young Dryas rất ngắn, sau đó khí hậu
trở lại ấm và đi vào kỷ nguyên Holocene ngày nay. Vào thời Holocene,
cách đây khoảng 8200 năm (6200BC), hơn 3000 năm sau Young Dryas, nhiệt
độ bổng nhiên tụt xuống lạnh trong ṿng 60 năm, làm vùng Mesopotamia
(gần Iraq ngày nay) bị hạn hán, tàn phá canh nông. Đa số con người phải
bỏ đi, xuôi theo sông Tigris và Euphrate xuống hạ lưu gần vịnh Ba Tư và
từ đó canh nông dẫn nước ra đời. Và sau cùng cách đây 4200 năm (2200BC),
sự thay đổi khí hậu đột ngột đă làm vùng Sahara xanh tươi, ẩm và ấm trở
thành sa mạc và nền văn minh Harappa, ở lưu vực sông Ấn Hà (Indus), cũng
như nhiều đế quốc và triều đại ở Cận đông và Ai Cập biến mất.
(a) Địa lư - Động vật và thảo vật
Cả vùng biển hiện nay từ nam mũi Cà mau, vịnh Thái Lan đến các eo biển
giữa các đảo Sumatra, Borneo, Java đều rất nông cạn và được gọi là thềm
Sunda (Sunda shelf). Trong thời kỳ băng hà Pleistocene từ cách đây 20000
đến 18000 năm, thềm Sunda c̣n ở trên mặt nước biển. Lúc nước biển c̣n
thấp (từ 100m đến 150m dưới mực nước hiện nay) th́ phần lớn thềm lục địa
ở biển Đông và cả vùng vịnh Thái Lan, nam Việt Nam nối dài với bán đảo
Mă Lai vẫn c̣n là đất liền trên mực nước biển hiện nay và các đảo lớn ở
Nam Dương, như Sumatra, Java, Borneo, Bali .. c̣n gắn liền với lục địa Á
châu. H́nh 1 chụp từ vệ tinh cho thấy rơ thềm Sunda nối với các đảo tạo
thành Sundaland gắn liền với lục địa Á châu.Vết tích của thời kỳ này c̣n
có thể t́m thấy được qua nghiên cứu về sự phân phối các động vật trên
các vùng ở Đông Nam Á.
Tê giác 1 sừng, Rhinoceros sondaicus, trước đây không lâu (đầu thế kỷ
20) c̣n sống ở vùng rộng lớn trăi dài từ Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam,
Cam Bốt, bán đảo Mă Lai, Sumatra và Java. Ngày nay, do sức ép và sự bành
trướng của con người ảnh hưởng đến môi trường sống, chúng chỉ c̣n ở Java
và một ít ở Việt Nam thuộc khu vực rừng quốc gia Nam Cát Tiên, Lâm Đồng.
Cũng vậy, tê giác 2 sừng loại Sumatran rhino (Dicerorhinus sumatrensis)
hiện hữu trong môi trường sống từ Miến Điện, Thái Lan, Mă Lai, đến đảo
Sumatra và Borneo.
Loài Orang Utan (“người rừng”), hiện nay vẫn c̣n ở rừng nhiệt đới nóng
ẩm Sumatra và Borneo, cho ta thấy là khi xưa lúc Borneo c̣n gắn liền với
Sumatra và lục địa Á châu, chúng đă đi lại qua các vùng nhiệt đới xích
đạo ở hai nơi (1). Lạ hơn là giống Orang Utan ở Tây Nam Borneo và
Sumatra rất gần gụi giống nhau hơn là giữa Orang Utan phía Tây Nam
Borneo và các nơi khác trên cùng đảo Borneo. Thêm một sự kiện nữa là các
giống cá ở sông Kapuas, phía tây Borneo hầu như giống y như các loài cá
ở các sông phía đông đảo Sumatra mà lại rất khác với các giống cá ở sông
Mahakam phía đông Borneo cách sông Kapuas qua một rặng núi mà thôi. Điều
này cho thấy xưa kia sông Kapuas và các sông ở phía đông Sumatra có cùng
chung một lưu vực (catchment) nối liền hai đảo Sumatra và Borneo hiện
nay.
Cũng vậy loài voi hiện diện ở khắp vùng Nam lục địa Á châu từ Sri Lanka,
Ấn độ, Miến Điện, Thái Lan, Nam Trung Quốc (Vân Nam), Đông Dương, Mă Lai
đến các đảo hiện nay Sumatra, và Borneo. Loại voi, Elephas maximus
sumatranus, ở đảo Sumatra và Borneo giống như loài Elephas maximus
maximus ở Sri Lanka và Elephas maximus indicus ở Ấn độ và các nơi khác.
Các dữ kiện trên cho thấy Sundaland trước thời biển tiến là vùng đất lớn
nối các đảo Đông Nam Á với lục địa Á châu cho phép các loại động vật đi
lại phát tán trên vùng này. Con người cũng đă đi đến lục địa Úc châu từ
Đông Nam Á và Sundaland qua các eo biển hẹp ngăn cách Úc với Sundaland.
Con người đă đến Úc cách đây hơn 50000 năm, sớm nhất từ Phi Châu, trước
khi có đợt hai từ Trung Đông đến Âu châu.
Vào thế kỷ 19, nhà sinh học Wallace đă quan sát, nghiên cứu các động vật
ở các đảo Indonesia. Ông t́m thấy có 48 loài động vật giống nhau ở bán
đảo Mă Lai, đảo Sumatra, Borneo và Java. Trong số này có 7 loài vượn khỉ
là những động vật sống trong rừng, không bao giờ lội và chắc chắn không
thể vượt qua được 1 dặm nào ở biển; 19 loài thú săn, một vài trong số
này có thể lội nước vượt biển, nhưng chúng ta không thể nói rằng có
nhiều loài trên vượt qua được các eo biển rộng từ 30 đến 50 dặm cách xa
hai bờ (trừ 1 eo hẹp hơn 30 dặm), và 5 loài thú có sừng, ngà, gồm loài
heo ṿi (tapir), 2 loài tê giác và 1 loài voi (đă đề cập như trên).
Ngoài ra c̣n có 13 loài chuột, 4 loại ăn bọ, gồm có chuột chù
(shrew-mouse) và 6 loại sóc mà sự vuợt biển qua hơn 20 dặm c̣n khó cho
ta có thể tưởng tượng hơn là các loài thú lớn hơn. Điều trên cho thấy là
trước đây đă có thời kỳ các đảo này nối chung với lục địa Á châu.
Trái lại đảo Celebes và các đảo xa hơn băng qua đường gọi là “đường
Wallace” (Wallace line) chạy qua giữa biển của hai đảo Borneo và Celebes
đă không nối với lục địa Á châu trong thời băng hà đă qua trước đây. V́
độ sâu ở biển giữa đảo Celebes (Sulawesi) và Borneo rất sâu, nên ngay cả
khi mực nước biển thấp hơn hiện nay hơn 100m, eo biển vẫn c̣n là biển
chia cách hai đảo. Đảo Celebes từ 160 triệu năm tách rời từ lục địa cổ
Gondwana (cũng như Madagascar tách rời Phi Châu trong khoảng thời gian
này). V́ thế Celebes biệt lập từ lâu đời và nơi đây có nhiều loài thú
đặc biệt khác với Á châu và không nơi nào khác chung quanh vùng có như
loài khỉ Tarsier spectrum (giống con lemur ở Madagascar), một loại khỉ
nhỏ khoảng 10cm và đuôi dài 20cm, và một loài thú lạ kỳ giống loài heo
mà ta thường biết gọi là Babirusa.
Cả hai tương tự như các loài sống ở Phi châu hơn là Á châu. Heo Babirusa
đặc biệt có răng nanh hàm trên cong ṿng gần đến mắt, giống như ngà voi.
H́nh dáng bên ngoài giống như hà mă. Thật ra loài liên hệ gần giống với
heo Babirusa là loài tổ tiên của hà mă sống cách đây 30 triệu năm được
t́m thấy trong các hóa thạch ở bắc bán cầu. Hoá thạch của con hà mă sơ
khai (Merycopotamus) đă được t́m thấy ở Siwalik, Ấn độ. Đây có thể là tổ
tiên của loài heo Babirusa hiện nay. Sống biệt lập hàng triệu năm, heo
Babirusa đă tiến hóa ở đảo Celebe đến một dạng không giống loài heo nào
trên thế giới.
Ở đảo Celebes, nếu không tính các loài dơi, th́ các loài thú vật có vú
hoàn toàn 100% chỉ nơi đây mới có (endemic), hơn cả Úc châu. Úc châu,
một lục địa đảo đặc biệt, cũng chưa có tỷ lệ số lượng như vậy. Ngoại trừ
trường hợp đặc biệt của đảo Celebes, th́ nói chung đường Wallace chạy
dài ngăn chia từ giữa đảo Bali và Lombok lên giữa Borneo và Celebes và
là ranh giới động thực vật giữa Á châu và Úc. Phía bên trái là các đảo
Bali, Java, Borneo, Sumatra. Phía bên phải là các đảo Celebes, Flores,
Timor, Lombok, Sumba và các đảo trong quần đảo Moluku gần New Guinea và
Úc. Cũng như đảo Celebes, trên đảo Flores có nhiều đông thực vật khác
với các đảo bên trái đường Wallace: có loài voi nhỏ Stegodon sondaari
lớn bằng con trâu nước đă tuyệt chủng, và vào năm 2004 đă t́m thấy hài
cốt của người xưa bé lùn (homo floresiensis) mà giới khoa học nhân chủng
và khảo cổ đă nghiên cứu tranh luận xôn xao gần đây.
(c) Con người
Trước khi biển tiến cách đây 14,000 năm th́ thềm Sunda vẫn c̣n trên mực
nuớc biển, nối liền lục địa Á châu với các đảo Sumatra, Borneo, Java.
tạo thành Sundaland cho phép người cổ Đông Nam Á phân tán và đi qua các
“cầu đất liền” trên vùng rộng lớn này.
Thời đá cổ (Paleolithic) và đá mới
Tiến bộ của khoa học di truyền gần đây cho thấy con người hiện đại đă
khởi xuất từ Đông Phi qua nhiều đợt di cư đă đến Á châu, Trung Đông và
phát tán đi đến các nơi khác. Đợt di cư đầu tiên trong thời kỳ đầu băng
hà là dọc đường biển nam Arabia, Nam Ấn Độ (ghé các đảo Andaman, Nicobar
hiện nay ở Ấn Độ Dương gần Miến Điện) đến Đông Nam Á và đến Úc châu.
Người thổ dân Úc châu hiện nay là các giống dân lâu đời, cũng như người
Dravidian (Nam Ấn), người Melanesian ở Guinea, người Orang Asli trong
rừng ở bán đảo Mă Lai và các giống bộ lạc c̣n sót lại trong rừng rậm ở
các đảo Andaman như các bộ lạc người Jarawa, Onge. Nghiên cứu di truyền
về các tộc trên cho thấy họ là những giống người cổ ở Á châu vẫn c̣n
sống trong rừng khi người thời đá mới với kỷ thuật canh nông xuất hiện
sau này (10). Ngôn ngữ của họ thuộc loại ngôn ngữ cổ Indo-Pacific.
Người thổ dân Andaman lùn đen, giống người pygmie ở Phi châu và các thổ
dân negritos Orang Asli như Semang, Aeta, Boloven ở rừng rậm Mă Lai và
Phi Luật Tân. Hiện nay c̣n rất ít chỉ dưới 500 người, họ là hậu duệ của
người cổ thời đá cũ. Nghiên cứu di truyền học gần đây cho thấy sự liên
hệ của họ với các giống thổ dân ở Úc châu hiện nay. Về h́nh dáng bên
ngoài, khó có thể phân biệt và ta thấy sự giống nhau rất nhiều giữa
người Semang với người thổ dân Úc hiện nay.
Một bộ xương hầu như c̣n nguyên vẹn đă được t́m thấy tại một di chỉ gọi
là Gua Gunung Runtuh ở Mă Lai vào đầu thời kỳ Holocene. Phân tích bộ
xương này cho thấy xương rất giống thổ dân Úc ngày nay ở h́nh thái răng
và chân tay (3), và giống những mẫu sọ người ở thời kỳ Mesolithic (đá
trung kỳ) ở Mă Lai và đảo Flores. Sự khám phá này, cùng với các xương
t́m thấy ở Tabon và Niah, cho thấy những người cổ ở Sundaland trong thời
Pleistocene muộn có thể là tổ tiên của người thổ dân Úc hiện nay. Các
đặc tính qua đo lường ở răng và xương chân ở người cổ Sundaland cho thấy
các đặc tính này vẫn c̣n thấy ở các dân cư trong vùng Đông Nam Á cho đến
đầu thời kỳ Holocene. Tuy vậy các khác nhau ở đặc tính về sọ đă được
tích tụ từ cuối thời kỳ Pleistocene ở thổ dân Úc và các dân cư đầu tiên
vùng Đông Nam Á so với các sọ cổ Sundaland.
Cách đây từ khoăng 20000 đến 10000 năm, những giống dân cư này bắt đầu
toă ra đi đến cư ngụ ở vùng thượng du phía bắc và nam Đông Nam Á. Từ đó
trong những môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật
lần lần một cách có hệ thống. Sự kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm
trong rừng, và sự vun xới các cây như cây đậu, đă cho phép họ thiết lập
được đời sống vĩnh viễn, không đi đâu xa, ở các hang, chủ yếu là gần
nguồn nước; đây là cách sống lần lần được các nhóm khác, sống trăi rộng
trong khắp vùng, tiếp thu và thâu nhận.
Văn hóa của những nhóm người này được gọi là văn hóa Ḥa B́nh, do sự
khám phá các di chỉ có cùng đặc tính chung vào đầu thế kỷ 20 đầu tiên ở
tỉnh Ḥa B́nh, Việt Nam. Sau này các di chỉ tương tự được khám phá ở
nhiều nơi khác trong vùng Đông Nam Á. Các đặc tính chung mà ta có thể
thấy được về kỹ thuật, tập quán và đời sống hàng ngày trước đây và cho
đến tận ngày nay của nhiều sắc dân ở Đông Nam Á.
Năm 1933 là năm mà bà M. Colani, nhà thực vật học và khảo cổ Pháp, đă
khám phá ở các hang đá vôi và hầm ở tỉnh Ḥa B́nh là các nơi trú ngụ của
người xưa với các dụng cụ đá sỏi dẻo thô sơ. Bài báo cáo khoa học của
Colani trên tạp chí của trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp đă đưa ra ánh
sáng đầu tiên của văn hóa cổ gọi là “Ḥa B́nh”.
Hang Con Moong, một di tích khảo cổ phát hiện vào năm 1977, trong vườn
quốc gia Cúc Phương, cho thấy người Ḥa B́nh đă cư ngụ lâu đời trong
hang với nhiều dụng cụ đá đẻo và các xương động vật như sóc, khỉ, chó,
heo, tê giác, ḅ (rừng), hưu và các vơ ṣ, trai, ốc. Người Ḥa B́nh là
ai?. Trong hang Con Moong c̣n t́m thấy nhiều hài cốt, đa số xương đă mũn
nát, nhưng c̣n một bộ với răng sọ, cho thấy chủng tộc là Australoid
negrito (6).
Tại đây đă phát hiện các tầng văn hóa (5) chia ra như sau: tầng trên là
văn hóa Ḥa B́nh III, tiếp nối với văn hóa Bắc Sơn, có ŕu mài lưỡi và
gốm, tầng kế dưới là văn hóa Ḥa Binh II cổ điển mà Colani đă phát hiện
và mô tả và tầng cuối cùng là văn hóa Hoà B́nh I với công cụ đá đẻo rất
thô sơ có nhiều đặc trưng của nền văn hóa Sơn Vi. V́ thế nhà khảo cổ
Phạm Huy Thông đă cho rằng văn hóa Ḥa B́nh nảy sinh từ nền văn hóa củ
hơn, nền văn hóa Sơn Vi.
Tổng hợp các dữ kiện trên có thể cho ta kết luận là người Andaman, Orang
Asli (negritos) ở Mă Lai, Phi Luật Tân và thổ dân Úc là hậu duệ không
thay đổi nhiều qua thời gian của những người cổ ở Sundaland và chủ nhân
của văn hóa Ḥa B́nh là cư dân về h́nh thái giống như hay có liên hệ rất
gần với các giống dân trên. Nghiên cứu mới nhất (2006) về di truyền
mtDNA cho thấy thổ dân Úc có liên hệ sâu đậm với các dân tộc bản sứ ở
Papua New Guinea, Malaya, và các đảo Andaman and Nicobar (12).
Cách đây khoảng 14000 năm, mực nuớc biển tăng lên ở cuối thời kỳ băng hà
đă cắt đứt các “cầu” đất liền nối các đảo ở phía nam Đông Nam Á với lục
địa Á châu. Và qua đó đă làm tăng nhanh quá tŕnh phân hóa và cách ly
giữa các văn hoá bản sứ trong vùng đă bắt đầu phát triển, nhất là ngôn
ngữ. Tuy vậy sự kiện xảy ra sau đó không phải là một thời kỳ của sự cách
ly xa dần của các nhóm mà là sự phát triển cùng thời của các văn hóa bản
sứ này dựa trên một nền tảng chung có cốt rễ là văn hóa Ḥa B́nh thích
ứng với điều kiện riêng ở mỗi địa phương, cộng với sự truyền đạt ư tưởng
và kỹ thuật đă cho phép các phát minh tỏa ra trong một vùng địa h́nh
thiên nhiên.
Trong thời kỳ mà nhà khảo cổ Wilhem Soldheim gọi là “thời kỳ phát tỏa”
cách đây từ khoảng 10000 đến 2000 năm, đă xảy ra ở Đông Nam Á sự phát
triển của hầu như tất cả nhu liệu mà ta có thể gắn liền với từ ngữ “văn
minh”, không có liên hệ hay du nhập các sáng chế từ bên ngoài vào. Trong
thời kỳ này, heo ḅ và gà vịt đă được thuần hóa và lúa đă bắt đầu được
trồng. Ở các vùng gần biển, hay dọc theo các sông rạch, nghề hàng hải
bắt đầu từ sự sáng chế ra thuyền có mái chèo. Và người Đông Nam Á đă
vượt biển đi xa đến tận Nhật, Melanesia, Ấn Độ, và đảo Madagascar ở bờ
biển phía đông Phi Châu.
Kỹ thuật văn hóa Ḥa B́nh hiện diện ở nhiều nơi ở Đông Nam Á lục địa,
ngoài hang ở Ḥa B́nh, Con Moong c̣n có thể thấy ở các hang Pha Chang,
Moh-Kiew, Lang Rongrien và Lang Kannam ở Thái Lan. Trong hội nghi kỷ
niệm 60 năm Colani khám phá di chỉ và văn hóa Ḥa B́nh năm 1993 ở Hà
Nội, các học giả Trung Quốc cũng tŕnh bày những địa điểm khảo cổ ở Nam
Trung Quốc có dấu vết của văn hóa Ḥa B́nh.
Người Ḥa B́nh đă đến xuống đồng bằng Bắc Việt định cư dọc sông ng̣i và
bờ biển. Trong khoảng 20000 năm, ho đă tiến hóa song song và có liên hệ
với các dân cư khác ở Đông Nam Á hải đảọ Trước khi biển tiến th́ Đông
Nam Á hải đảo vần c̣n nối liền với lục địa, miền nam Việt Nam hiện nay
và Cam Bốt c̣n nối với Borneo cũng như vịnh Thai Lan c̣n là đồng bằng
mênh mông.
Biển tiến bắc đầu cách đây 15000 năm mà cao điểm là 14,500 chỉ trong
ṿng một thời gian ngắn khoảng 300 năm, mực nước biển lên nhanh khoảng
20m đến mực độ cao cách độ cao hiện nay khoảng 80m gần như nhận ch́m
thềm Sunda (pulse 1A) (7). Thềm Sunda bị ch́m hoàn toàn cách đây khoảng
8000 năm.
Lúc bắt đầu thời kỳ biển tiến, người Đông Nam Á dọc bờ biển và sông đă
tiến hóa qua môi trường khác với người cổ vẫn c̣n trong rừng rậm sống
hái lượm. người ở đồng bằng vịnh Bắc bộ, Trung Việt, Borneo (như người
Dayak), bán đảo Mă Lai, Sumatra, Java đă có sự liên hệ về nhân chủng và
văn hóa. Cách đây khoảng 12000 năm vẫn trong thời kỳ biển tiến, thời
tiết trên thế giới th́nh ĺnh trở lại lạnh, khô kéo dài 1300 năm trước
khi trở lại ấm b́nh thường.
Hiện tượng khí hậu này gọi là Young Dryas (tên của một loài cây thuộc họ
hồng, hoa trắng sống trong môi trường núi rất lạnh khô cằn, đă để lại
dấu vết trong các lớp địa chất) đă làm cuộc sống xă hội loài người thay
đổi hoàn toàn, buộc một số phải đi xa sinh sống và c̣n lại sinh sống
bằng canh nông, thuần hóa thú vật. Đây cũng là thời kỳ canh nông và
thuần hóa súc vật xuất hiện đầu tiên ở xă hội người vùng Cận Đông. Hiện
nay chúng ta chưa biết được cuộc sống của người Ḥa B́nh đă thay đổi như
thế nào trong thời kỳ Young Dryas.
Trong một nghiên cứu di truyền mới nhất (9) về sự liên hệ của người cổ
thổ dân negrito ở bán đảo Mă Lai với các giống dân hiện nay ở Đông Nam Á
và Đông Á. Qua phân tích mitochondria DNA (mtDNA) từ mẫu tóc của người
negrito ở Mă Lai trong bộ sưu tập Duckworth Collection và các nhóm người
khác cho thấy lúc đầu họ chỉ trong phạm vi tây nam Trung quốc, bán đảo
Đông Nam Á và Indonesia nhưng sau đó họ đă phát tán nhanh chóng khắp
Đông Nam Á vào giữa cuối thời băng hà và thời Holocene đá mới cách đây
13000 năm.
2. Đông Nam Á sau biển tiến
Sau biển tiến một thời gian khoảng 10000 năm, Đông Nam Á bắt đầu vào
thời đại đồng cách đây gần 2500 năm, gọi là thời kỳ Đông Sơn. Đây cũng
là thời kỳ Hùng Vương dựng nước trong lịch sử Việt Nam.
Thời kỳ Đông Sơn là thời kỳ mà dân tộc Lạc Việt và các nhóm Bách Việt
khác ở nam sông Dương Tử đă đạt đến tŕnh độ văn minh cao mà trống đồng
là những di vật tiêu biểu. Người Đông Sơn là ai ?
So với di chỉ Ḥa B́nh th́ di chỉ Đông Sơn t́m được rất nhiều, tập trung
nhiều nhất ở Bắc Việt Nam nhưng có mặt răi rác khắp Việt Nam, Đông Nam
Á, Nam Trung quốc.Nhiều xưong sọ và hài cốt đă được t́m thấy c̣n nguyên
vẹn chưa bị mũn nát, nhất là trong các thuyền mộ táng.Trong bài tổng hợp
nghiên cứu các xương sọ (11), người Đông Sơn là chuyển tiếp hổn hợp của
chủng Australoid đen và chủng nam Mongoloid, trong quá tŕnh giảm đen.
Đặc biệt trong các xương t́m được, có các xương sọ thuần Australoid
nhưng không có sọ nào là thuần chủng nam Mogoloid.
Năm 2002, ở làng Đông Xa, tỉnh Hưng Yên, một di chỉ khảo cổ đă được khai
quật bởi các nhà khảo cổ Úc (P. Bellwood và J. Cameron, Đại học quốc gia
Úc) và Việt Nam (Nguyễn Văn Việt từ Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông
Nam Á). Ở di chỉ này, đă t́m được các mộ chứa hài cốt và di vật chôn
theo của người xưa. Đặc biệt là mộ thuyền dùng để chôn người xưa, trong
mộ có gốm thừng, và vài đồng tiền thời Hán làm khoảng từ năm 118 đến năm
220 trước công nguyên (13). Một chi tiết khác là kỷ thuật đóng ghép
thuyền đă làm ngạc nhiên nhà khảo cổ Peter Bellwood, dùng lỗ mộng trên
ván (mortise) và gỗ mộng (tenon) để nối các mảnh gỗ: một kỷ thuật mà chỉ
người La Mă ở Địa Trung Hải trước đây dùng. Phải chăng có sự liên hệ
giữa người Đông Sơn và thế giới La Mă ?.
Nhà nhân chủng học và khảo cổ Việt Nam Nguyễn Văn Việt, học tṛ của nhà
sử học nổi tiếng Hà Văn Tấn, chuyên về kiến tạo lại gương mặt người qua
xương sọ. Ông Việt học từ Đan Mạch các khóa học nắn đúc dùng đất sét và
để tái tạo lại gương mặt từ xương sọ, ông dùng phương pháp của nhà nhân
chủng học người Nga Mikhail Gerasimov mà ông đă học và được biết trước
đây. Việt là người đầu tiên ở Việt Nam dùng xương sọ để kiến tạo lại
gương mặt người xưa. H́nh 6 cho thấy bộ mặt của hai người Đông Sơn mà
ông đă tái tạo. Công tŕnh của ông đă gây nhiều thảo luận trong giới
nghiên cứu khảo cổ và nhân chủng học ở Việt Nam. Nguyễn Lan Cường, nhà
khảo cổ nghiên cứu về văn hóa Ḥa B́nh và Đông Sơn trước đây (6), cho
rằng phưong pháp tính toán cơ mặt của ông Việt vẫn c̣n có nhiều sai số.
Tuy vậy ông Cường nói sẽ tiếp nối công việc của Việt trong vài năm tới
để tái tạo lại gương mặt và chủng tộc của người Ḥa B́nh sống cách đây
10000 năm.
Lời kết
Hiện nay chưa ai tái tạo lại h́nh ảnh người Ḥa B́nh qua một số rất ít
xương sọ t́m được nguyên vẹn v́ phần lớn đă bị mũn. Tôi h́nh dung người
Ḥa B́nh qua các người của các bộ lạc sống biệt lập trong rừng c̣n sót
lại ở Đông Nam Á và người liên hệ là thổ dân Úc. Tôi sống ở Úc đă lâu và
có nhiều cơ hội gặp và tiếp xúc với thổ dân Úc. Tôi c̣n nhớ lúc c̣n là
sinh viên cách đây hơn 25 năm, cả trường đại học Sydney chỉ có một sinh
viên gốc thổ dân duy nhất trong số hơn 10000 sinh viên. Hiện nay th́ đă
có nhiều tiến bộ về t́nh trạng thổ dân trong xă hội so với trước đây
nhưng vẫn c̣n khoảng cách khá lớn về mức sống . Đa số ít có cơ hội tiến
thân trong xă hội.
Ở đảo Tasmania (một tiểu bang của Úc), họ đă bị tuyệt chủng từ cuối thế
kỷ 19. Mặc dầu có nhiều bộ lạc khác nhau, nhưng trên toàn lục địa thổ
dân hầu như không khác nhau và không thay đổi nhiều trong 50000 năm qua.
Họ là người cổ nhất, nhóm người đầu tiên đến từ Phi châu dọc theo ven
biển Arabia, Ấn Độ, và Sundaland. Xương t́m thấy ở di chỉ khảo cổ hồ
Mungo (nay đă cạn) được định tuổi là hơn 50000 năm, cổ hơn tất cả các
xương người hiện đại đă t́m thấy ở Đông Nam Á. Sự thuần chủng của người
thổ dân Úc và mối liên hệ của họ với người đảo Andaman và người c̣n sống
trong rừng ở Mă Lai và Phi Luật Tân cho ta nhận diện chung về h́nh ảnh
của người “Ḥa B́nh” xưa, tổ tiên của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á và Nam
Trung quốc.
Tài liệu Tham khảo
(1) Penny van Oosterzee, “Where worlds collide - The Wallace line”, Reed
Books Australia, 1997.
(2) Vietnam news Agency, Ancient faces brought to life, 14/08/2005,
http://vietnamnews.vnagency.com.vn/showarticle.php…
(3) Hirofumi Matsumura , Majid Zuraina, Metric analyses of an Early
Holocene human skeleton from Gua Gunung Runtuh, Malaysia, Am J Phys
Anthropol 109:327-340, 1999.
(4) Nguyễn Khắc Sử, Hang Con Moong-Giới thiệu và nhận xét, Khảo Cổ Học,
tr. 26-35, số 2(22), 1977.
(5) Nguyễn Huy Thông, Hang Con Moong-Một phát hiện khảo cổ học đáng chú
ư ở Việt Nam, Khảo Cổ Học, tr. 36-43, số 2(22), 1977.
(6) Nguyễn Lan Cường, Di tích người cổ, Khảo Cổ Học, tr. 24, số 2(22),
1977.
(7) T. Hanebuth, K. Stattegger, P. M. Grootes , Rapid Flooding of the
Sunda Shelf: A Late-Glacial Sea-Level Record, Science 12 May 2000, Vol.
288. no. 5468, pp. 1033 – 1035.
(8) J. Cox, Climate Crash: Abrupt Climate Change and What It Means for
Our Future, JHP Press, 2005.
(9) F. Ricaut, M.Bellatti, M. Lahr, Ancient mitochondrial DNA from
Malaysian hair samples: Some indications of Southeast Asian population
movements, Am J Hum Biol. 2006 Sep-Oct;18(5):654-67.
(10) K. Thangaraj, L. Singh et al, Genetic Affinities of the Andaman
Islanders, a Vanishing Human Population, Current Biology, Volume 13,
Issue 2 , 21 January 2003, Pages 86-93.
(11) Hà Văn Tấn chủ biên - Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Viện khảo cổ
học, Nxb Khoa học xă hội, Hà Nội, 1994.
(12) S. Pellekaan, M. Ingman, J. Roberts-Thomson, R. Harding,
Mitochondrial genomics identifies major haplogroups in Aboriginal
Australians, American Journal of Physical Anthropology, Volume 131,
Issue 2 , April 2006, Pages 282 – 294.
(13) R. Stone, When in Vietnam, build boats as the Romans do, Science 21
Apr 2006, Vol. 312, no. 5772, pp 360-361
Nguồn:
vanchuongviet.org
Người Tàu là tổ
tiên của người
Việt?
Tôi nghĩ
nhiều người Việt
nghĩ như thế: tổ
tiên chúng ta (người
Việt) là người
Tàu. Họ không
hẳn là thuộc
nhóm "thân Tàu"
hay Lê Chiêu
Thống hiện đại
đâu, mà có thể
là những người
có tinh thần dân
tộc tốt và có
học thức khá.
Nhưng chứng cứ
khoa học mới
nhất cho thấy
ngược lại: Người
Tàu có nguồn gốc
từ Đông Nam Á.
Có thể nhiều bạn
cảm thấy sốc với
phát biểu đó,
nhưng đó chính
là bằng chứng về
di truyền học
chứ không phải
của cá nhân tôi.
Xin nhắc lại để
nhấn mạnh: Người
Đông Nam Á là tổ
tiên của người
Tàu.
Hôm kia, khi
bàn về Tố Hữu là
nhà văn hoá dân
tộc, có một bạn
đọc gửi tôi một
bài thơ của thi
sĩ này. Bài thơ
có tựa đề là "Nhớ
người chị phương
Bắc" do Tố Hữu
viết vào năm
1946 để ca tụng
giặc Tàu. Bài
thơ chẳng có ǵ
đặc sắc, nhưng
có những câu làm
tôi chú ư và do
đó làm động cơ
để viết cái note
này:
"Cả Trung Hoa
đứng dậy thét
vang lừng
và Nam Việt em
cũng nghe chừng
nôn nả
Chị đây rồi
Trung Hoa người
chị cả
Mấy ngh́n năm
Đông Á mái che
chung
Mà biên cương
không xé được
đôi ḷng ...
...
Trong máu em có
ḍng máu của chị
Núi sông em rên
siết đă bao lần
Dưới vó ngựa bạo
tàn quân Nguyên
Những lúc ấy chị
cũng đau ḷng
huyết thống"
Phải công
nhận là một cây
bút nịnh bợ có
hạng, mà Lê
Chiêu Thống nếu
có sống lại chắc
phải chào thua.
Thi sĩ tự nhận
Việt Nam là "em",
c̣n Tàu là "chị".
Em có sau, chị
có trước. V́
nhận chị em như
thế, nên ông xem
hai dân tộc này
có cùng huyết
thống. Tuy Tố
Hữu không viết
ra, nhưng tôi
đoán rằng trong
đầu ông lúc đó
nghĩ rằng người
Tàu là tổ tiên
của ông, của
người Việt.
Nhưng công
bằng mà nói, ông
không phải là
người đầu tiên
nhận bừa như thế
(nếu có), nhiều
người Việt Nam
cũng tự nhận một
cách thành kính
rằng họ có nguồn
gốc từ người
Tàu. Chẳng hạn
như mấy năm
trước có một cô
tên là Đỗ Ngọc
Bích viết một
bài mà trong đó
có câu “Người
dân Việt Nam bắt
nguồn từ Trung
Quốc, Vua của
Việt Nam cũng
khởi tổ từ người
Trung Quốc, coi
vua Trung Quốc
như anh như cha…
từ Ngô Quyền,
Đinh Bộ Lĩnh,
hay Lư Công Uẩn,
rồi các gia tộc
họ Trần, Lê,
Nguyễn, v.v…”
Nhưng đó là
một nhận định
chủ quan, thiếu
chứng cứ khoa
học. Chứng cứ
khoa học thuyết
phục nhất là
gen, là chất
liệu di truyền.
Đă có nhiều
nghiên cứu về
nguồn gốc dân
tộc và văn minh
Đông Nam Á, và
tôi có lần tổng
kết trong một
bài báo cũng khá
lâu rồi. Một
trong những tác
giả đi tiên
phong về lĩnh
vực nghiên cứu
này là Bác sĩ
Stephen
Oppenheimer,
người Anh và nay
làm việc ở ĐH
Oxford (sau này
là chỗ quen biết
của tôi). Trong
cuốn sách nổi
tiếng "Eden in
the East: The
Drowned
Continent of
Southeast Asia"
(tạm dịch là "Địa
đàng ở phương
Đông: Lục địa
ch́m đắm của
Đông Nam Á) (1),
qua những dữ
liệu dồi dào
được thu thập
một cách công
phu từ nhiều
ngành nghiên cứu
khác nhau,
Oppenheimer đi
đến kết luận
rằng Đông Nam Á
là cội nguồn của
văn minh hiện
đại, và người
Đông Nam Á chính
là tổ tiên của
người Tàu. Đó là
một thách thức
ghê gớm với quan
điểm chính thống,
nhưng cho đến
nay khó ai có
thể bác bỏ dữ
liệu của
Oppenheimer.
Gần đây, một
nghiên cứu hết
sức công phu về
nguồn gốc dân
tộc chứng minh
rằng nhận định
của Oppenheimer
có thể đúng. Đó
là công tŕnh
nghiên cứu qui
mô lớn gọi là
HUGO Pan Asian
SNP Consortium
công bố trên tập
san Science (2)
người Đông Á có
nguồn gốc từ
Đông Nam Á.
Nghiên cứu này
phân tích khoảng
50,000 SNP trên
2000 người thuộc
73 sắc tộc, và
họ đi đến kết
luận:
• Người Đông
Á và Đông Nam Á
có cùng nguồn
gốc;
• Người Đông Á
chủ yếu xuất
phát từ cư dân
vùng Đông Nam Á.
Xin nhắc lại
Đông Á ở đây là
Tàu, Hàn Quốc,
Mông Cổ, và có
thể kể cả Nhật.
Nên nhớ rằng
ngày xưa không
có người Thái,
Việt, Mă Lai,
v.v. mà chỉ có
Đông Nam Á nói
chung. Do đó,
nói Đông Nam Á ở
đây tôi muốn nói
đến người Thái,
Mon-Khmer,
Tạng-Miến, Mă
Lai, hay gọi
chung là Bách
Việt.
Đây là một
nghiên cứu có
thể nói là
"final say" -
lời phát biểu
sau cùng về
nguồn gốc dân
tộc. Thật ra,
trước đó cũng đă
có một vài
nghiên cứu cho
thấy người Đông
Nam Á chính là
tổ tiên của
người Đông Á. Dĩ
nhiên, cũng có
nghiên cứu cho
thấy kết quả
ngược lại, nhưng
do phương pháp
chưa tốt nên
cũng khó thuyết
phục. Tôi th́
thấy chứng cứ
trên (Đông Nam Á
có trước Đông Á)
rất thuyết phục.
Thuyết phục là
v́ nhiều dữ liệu
ngoài di truyền
cũng cho thấy
Đông Nam Á là
một trung tâm
văn minh thế
giới cổ.
Trước hết,
hăy nói về trồng
lúa nước. Nhiều
sách vở Việt Nam
(và thế giới)
cho rằng Tàu là
dân tộc đầu tiên
thuần hoá và
phát triển kĩ
thuật trồng lúa
nước. Sách sử
Tàu c̣n viết
rằng mấy quan
thái thú Tàu như
Nhâm Viên và
Tích Quang dạy
người Việt làm
lúa nước (3).
Nhưng bây giờ
th́ chúng ta
biết rằng quan
điểm này SAI.
Người Đông Nam Á
mới chính là chủ
nhân của kĩ
thuật này. Hạt
lúa lâu đời nhất
được t́m thấy
trong một hang
động ở Thái Lan.
Điều này có lí
v́ nghề trồng
lúa nước đ̣i hỏi
người dân phải
nắm vững và
thích nghi với
thời tiết, môi
trường sông nước,
rất thích hợp
với người Đông
Nam Á.
Thứ hai là
thuần hoá gia
cầm. Nghiên cứu
di truyền gần
đây cho thấy tất
cả các loài gia
cầm như gà, chó,
heo, v.v. trên
thế giới đều có
nguồn gốc từ
Đông Nam Á.
Trong cuốn
“Origin of
species”, Darwin
cũng từng khẳng
định rằng tất cả
các giống gà
nuôi trên thế
giới đều có
nguồn gốc từ gà
rừng Đông Nam Á.
Trong một bài
viết cho Tập san
National
Geographic, W.
G. Solheim II
nhận xét rằng
Đông Nam Á là
nơi phát triển
nền chăn nuôi
đầu tiên trên
trái đất. Điều
này phù hợp với
giả thuyết Đông
Nam Á là một cái
nôi văn minh
nông nghiệp đầu
tiên của con
người, và cư dân
tại đây rất là
những người phát
minh ra kĩ thuật
trồng lúa nước,
chăn nuôi, và
truyền các kĩ
thuật này lên
phía Bắc (tức
miền Nam của Tàu
ngày nay).
Câu chuyện
người Đông Nam Á
là tổ tiên người
Đông Á khá dài
ḍng và phức tạp,
nên tôi hẹn các
bạn một bài sau
để nói chi tiết
hơn. Câu chuyện
chúng ta nói ở
đây xảy ra gần
10 ngàn năm
trước, và xảy ra
trong bối cảnh
di dân từ Phi
châu. Nói tóm
lại, một nghiên
cứu mới nhất và
qui mô lớn nhất
công bố trên
Science cho thấy
người Đông Nam Á
chính là tổ tiên
của người Đông
Á, kể cả người
Tàu. Phát hiện
này giúp chúng
ta suy nghĩ lại
nguồn gốc dân
tộc, mà cũng
khẳng định câu
của Nguyễn Trăi
Như nước Đại
Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn
hiến đă lâu,
Núi sông bờ cỏi
đă chia,
Phong tục Bắc
Nam cũng khác.
Đúng quá!
Nghiên cứu
mới nhất công bố
trên Science và
lời B́nh Ngô Đại
Cáo của Nguyễn
Trăi c̣n là một
lời nhắc nhở cho
những ai c̣n ảo
tưởng rằng tổ
tiên của chúng
ta là người Tàu.
=====
(1) Cuốn sách
"Eden in the
East" do tôi
giới thiệu lần
đầu ở VN khoảng
10 năm trước, và
đă được dịch
sang tiếng Việt.
Tôi có viết lời
giới thiệu cho
cuốn sách ở đây:
http://www.vanhoanghean.com.vn/…/nhu…/dia-dang-o-phuong-dong
(2)
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/20007900
(3) Sách Hậu
Hán thư (tức sử
của Trung Quốc)
chép: "Phàm đất
thuộc bộ Giao
Chỉ, tuy đă đặt
quận, huyện,
nhập vào lănh
thổ Trung Quốc,
nhưng ngôn ngữ
vẫn khác nhau,
phải có thông
ngôn mới hiểu.
Người như cầm
thú, không phân
biệt trưởng ấu (tức
không có tôn ti
trật tự), búi
tóc ở gáy, đi
chân không, lấy
vải quấn qua đầu
làm áo. Sau đó
những người tội
phạm Trung Quốc
đến ở lẫn với họ,
mới biết ngôn
ngữ dần dần thấy
hóa theo lễ. Đến
thời Quang Vũ
Trung Hung, Tích
Quang làm thái
thú Giao Chỉ,
Nhâm Diên làm
thái thú Cử Chân,
bấy giờ mới dạy
cho dân biết cày
cấy, biết đội mũ
đi giày, đặt mối
lái, dân mới
biết hôn nhân,
dựng học hiệu
dạy lễ nghĩa
Post ngày:
12/08/18 |