Sài G̣n-Chợ Lớn và Nam bộ: Từ tiền sử
đến Phù Nam, đế quốc Khmer và vương
quốc Champa
Địa thế
Ít người biết là vùng đất Saigon-Gia Định-Đồng Nai-Bà Rịa, Cần Giờ và Mỹ
Tho cách đây hơn
300 năm chủ nhân không phải là người Việt, cũng không phải là người
Khmer mà là người Mạ
và Stieng. Thuộc hệ ngôn ngữ Mon-Khmer, họ đă hiện diện trên vùng đất
rừng rậm hoang dại
nhiều thú dữ và sông ng̣i chằng chịt này từ ngàn năm trước, cuộc sống
của họ một phần bị ảnh
hưởng sau đó bởi văn hóa Sa Huỳnh, văn minh Phù Nam, văn hóa Chân Lạp-Khmer
và sau cùng
là văn hóa Việt–Hoa. Ngày nay họ không c̣n và biến mất hoàn toàn và chỉ
c̣n răi rác ở Đồng
Nai và Lâm Đồng. Không như những thổ dân ở một vài nơi trên thế giới
được may mắn vẫn c̣n
hiện diện trên đất cha ông của họ sau những tranh đấu gian nan, người Mạ
hiền ḥa đă không có
tiếng nói ǵ và dư âm rất nhỏ bé c̣n để sót lại trong lịch sử.
Bài này có mục đích tŕnh bày tổng quan lịch sử con người và văn hóa ở
vùng đất Saigon-Đồng
Nai trước khi lưu dân người Việt và Hoa đến định cư. Nếu nói về chiều
sâu của thời gian trong
lịch sử th́ lịch sử lập nghiệp và khẩn hoang của lưu dân Việt-Hoa c̣n
sau vài thế kỷ lịch sử
người Âu đến Bắc Mỹ và Nam Mỹ lập nghiệp và chỉ trước người Âu đến lập
nước Australia
không lâu trong ṿng 1 thế kỷ. Những ǵ mà chúng ta t́m được về phương
diện nhân chủng và
khảo cổ học ở vùng đất này cho thấy tại đây đă có một nền văn hóa bản
địa (nay gọi là văn hóa
Đồng Nai) đặc sắc có liên hệ với văn hóa Sa Huỳnh, Đông Sơn, Phù Nam và
Khmer.
Về địa thế th́ Saigon-Chợ Lớn là vùng đất tương đối phẳng phía xa sông
(trừ G̣ Cây Mai và G̣
Vấp), có độ dốc là (không gắt) và trũng đi về phía gần sông Saigon, rạch
Thị Nghè và rạch Tàu
Hủ-Bến Nghé. V́ thế thành Saigon (c̣n gọi là thành Quy, sau này phá đi
và xây nhỏ lại gọi là
thành Phụng) được xây trền vùng đất cao nh́n bao quát chung quanh, đổ
dốc xuống khu vực Bến
Nghé gần sông Saigon, tức vùng quanh khu chợ Cũ ngày nay. Cũng vậy ở khu
vực Chợ Lớn, từ
kênh Tàu Hủ đi lên hướng Phú Lâm, Phú Thọ độ cao tăng dần.
Xưa kia vùng chung quanh g̣ Cây Mai và Phú Thọ là những nơi đất giồng
cao chung quanh là
ao, rạch nên đă trở thành nơi định cư của người Khmer, mô h́nh định cư
thường thấy của họ
khắp đồng bằng Cửu Long. Chỉ khi người Minh Hương từ Cù Lao phố ở Biên
Ḥa bỏ nơi này để
đến khu vực giữa g̣ Cây Mai và kênh Tàu Hủ định cư, một vị trí thuận
tiện có thể đi theo sông
rạch đến Mỹ Tho (một nơi mà người Hoa Minh Hương đă có mặt) mà không
phải qua cửa ngơ ra
biển ở Cần Giờ, th́ vùng Saigon-Chợ Lớn mới bắt đầu có nhiều di dân đến
định cư và phát triển
để trở thành một đô thị sung túc và quan trọng nhất sau này ở miền Nam.
Trước đây vùng này có hệ thống kinh rạch dầy đặc: từ trung tâm Saigon
(rạch Chợ Vải, rạch Cầu
Sấu, rạch Cầu Kho..), khu tiếp giáp với quận 3 (rạch Cầu Quan), khu cầu
Ông Lănh (rạch Cầu
ông Lănh), Chợ Quán (rạch Bà Đô) cho đến Chợ Lớn (rạch Phố xếp, rạch Chợ
Lớn, rạch Băi
Sậy, rạch Ḷ Gốm). Khởi thủy của Saigon-Chợ Lớn là qua kinh, rạch, sông
và đường biển giao
lưu với mọi vùng và v́ thế đặc trưng văn hóa, kinh tế của thành phố
Saigon-Chợ Lớn cũng như
con người là sông, nước nối liền đời sống kinh tế sản xuất, thương mại
và tư tưởng văn hóa của
nhiều giống dân hội tựu nơi đây.
Ngày nay theo đà phát triển giao thông đường bộ và đô thị, hầu hết các
kinh rạch đă bị lấp. Đây
cũng là một nguyên nhân cơ bản về thủy văn là tại sao hiện nay
Saigon-Chợ Lớn, nhất là khu gần
kênh Tàu Hủ từ đường Trần Hưng Đạo vào đến Chợ Lớn, càng dễ bị ngập lụt
trong mùa mưa mà
ta thường chứng kiến. Ngay cả lúc vào đầu thế kỷ 20, đường Lê Lai v́ vị
trí thấp so với các
đường phía trong xa sông như Nguyễn Đ́nh Chiểu, Điện Biên Phủ, Nguyễn
Thị Minh Khai nên
lúc có những trận mưa lớn đều bị lụt.
Saigon là điểm chuẩn coi như trung tâm của Nam bộ chia ra thành hai Tây
Nam bộ và Đông nam
bộ. Khi di dân đến vùng ngă ba sông Saigon-kênh Tàu Hủ-rạch Thị Nghè
định cư ở dọc bờ sông
và rạch, th́ phía trong về hướng Tây và Bắc vẫn là rừng hoang rất thưa
dân, ở đó vẫn c̣n những
thổ dân bản địa và hoang thú, nhưng dần dần được khai hoang trồng trọt
và nơi mồ mả chôn cất
được đặt ngoài thành phố Gia Định, như vùng G̣ vấp, cánh đồng tập trận
và cánh đồng mả. Vào
thế kỷ 18, Lê Quư Đôn trong “Phủ biên tạp lục”, cho biết vùng Saigon c̣n
rừng rậm dày đặc,
người “mọi” (Mán) được dùng làm nô lệ cho lưu dân đến vùng đất mới lập
nghiệp (6): “Miền
Đồng-nai về phủ Gia-định từ cửa bể Cần Giờ, cửa Sài-lạp, cửa đại và cửa
tiểu đều là rừng rậm
kể hàng hơn một ngh́n dặm. Đấy là đất trước kia họ Nguyễn đă đánh
Cao-miên mà lấy được. Họ
Nguyễn chiêu mộ những dân có của ở Quảng-nam, Điện-bàn, Quảng-nghĩa và
Quy-nhân đến ở
để khai khẩn đất hoang thành ra ruộng lúa tốt, ai khai hoang được th́ có
quyền chiếm làm của
riêng, làm nhà cửa, mở vườn nương, giồng cau, giồng lúa, giồng dừa. Lại
đem những con giai
con gái người xứ mọi bán cho dân ở nơi mới khai khẩn để họ dùng làm tôi
tớ ( người đen tóc
quăn là Mán thực giá tiền 20 quan một người; người hơi trắng giá tiền
hơn 10 quan một người).
Chúng lấy lẫn nhau sinh sôi khôn lớn, làm ruộng rất khéo. V́ thế thóc
gạo rất nhiều. Mỗi một
địa phương hoặc 40 hay 50 nhà giầu, hoặc 20 hay 30 nhà giầu. Mỗi nhà có
đến 50 hay 60 người
điền tốt và trâu ḅ có đến 300 hay 400 con. Cày bừa cấy gặt không lúc
nào rănh công việc.
Hằng năm tháng 11 tháng 12 xay thóc ra gạo, đem bán để ăn tết. Đến tháng
giêng th́ ăn chơi
không phải xay giă ǵ nữa. Ngày thường bán thóc gạo vào Phú-xuân để mua
các thứ lụa hoa,
vóc nhiễu do tàu buôn Trung-quốc mang đến. Họ ăn mặc lịch sự, ít khi mặc
áo vải.“
Như vậy những chủ nhân chính của vùng đất Gia Định, người Mạ, không
những đă bị tước đất
mà c̣n bị dồn vào tư thế phải bán con làm nô lệ cho lưu dân người Việt
đến lập nghiệp. Ngay cả
cho đến giữa thế kỷ 20, B́nh Nguyên Lộc sinh trưởng ở Đồng Nai và Biên
Ḥa cho biết ở vùng
Tân Uyên, Biên Ḥa, những người Mạ làm tôi tớ cho người Việt vẫn c̣n và
họ đă bị Việt hóa
hầu hết v́ cha mẹ tổ tiên của họ đă rút về Lâm Đồng và vùng cao nguyên
(8). Trong ngôn ngữ ở
miền Nam ngày nay, vẫn c̣n nhiều từ có nguồn gốc từ tiếng Mạ như: cẩm
lai, ḷng tong (cá),
đau xóc, chết giấc, cà nanh, dầu long, qua, bậu…(7). Địa danh Đồng Nai
cũng bắt nguồn từ tiếng
Mạ “Đạ Đờng” (Sông Đồng) nơi gần nguồn từ cao nguyên Lâm Đồng chảy xuống
vùng đồng
bằng với cánh đồng nhiều nai ở gần Biên Ḥa (Hố Nai).
Thời tiền sử đến thế kỷ 16
Vùng đất Saigon, cũng như toàn khu vực đồng bằng Đông và Tây Nam bộ,
được bồi đắp bởi
sông Saigon, Đồng Nai, Vàm Cỏ và Cửu Long, bao phủ bởi rừng, cây cối rậm
rạp. Sinh vật như
cọp, beo, voi, tê giác, nai… sinh sống trăi dài khắp nơi từ cao nguyên,
các tỉnh B́nh Thuận, Bà
Rịa đến tận Cần Thơ và Cà Mau. Và trong sông rạch có nhiều cá sấu, rùa
và cá heo đặc hữu.
Lương thư sử của Trung quốc cho biết vào thế kỷ thứ 6, vương quốc Phù
Nam đă gởi đến triều
đ́nh nhà Lương một con tê giác và trước đó vào thời nhà Tấn một con voi.
Các lá vàng t́m thấy
ở các di chỉ thuộc nền văn minh Phù Nam cho thấy chạm trên các lá vàng
này là h́nh các h́nh
voi như ở G̣ Thành (Tiền Giang), G̣ Xoài (Long An), Kè Một (Kiên Giang),
hoặc chạm h́nh
hưou nai ở các di chỉ mộ táng ở Nền Chùa và Đá Nổi ở Kiên Giang (15).
Ngoài ra ở các di chỉ ta
c̣n t́m thấy các xương răng động vật như voi, heo rừng, cá sấu, hưu đầm
lầy (cervus porcinus),
cá, rùa…
Cho đến thế kỷ 19, nhiều loài thú trên vẫn c̣n sinh sống ở nhiều nơi
khắp đồng bằng sông Đồng
Nai và sông Cửu Long. Ông George Dürrwell, luật sư và là chủ tịch Hội
“Etudes indochinoises
de Saigon” sống ở Nam kỳ trong các năm 1881 đến 1910, đă mô tả như sau
(2): “Những con cọp
và beo không phải là các loài thú duy nhất sống ở vùng quê Nam kỳ, mà
c̣n có các đoàn voi
hoang dữ phá hoại. Ngày xưa chúng ở khắp nơi trong vùng Đồng tháp mười
(plaine des Joncs)
rộng lớn, nơi mà một vài thợ săn gan dạ, người Âu và người bản sứ, đă có
một cuộc chiến tranh
đẩm máu với chúng, và sau đó chúng đă dần dần rút về phía bắc, để vào xứ
sở đất khmer, nơi
mà trong số các con voi có những con mà thiên nhiên đă cẩn thận quan tâm
sinh ra các con voi
trắng (albino), các con voi trắng này trở thành con vật đặc biệt được
người khmer sùng bái, tôn
kính. Gần đây những con voi to lớn vẫn c̣n làm nhiều người nói về chúng
khi các con voi này đi
vào vùng Cần Thơ mà chúng phá hoại không thương tiếc, tàn phá tất cả
những ǵ trên đường
chúng đi qua. Những cuộc săn bắn thật sự được tổ chức chống lại các đàn
voi đều không có hiệu
quả: những thợ săn voi cự phách nổi tiếng, thực tế đă biến mất khỏi
thuộc địa này cùng lúc với
Tổng đốc Lộc đă ngủ giấc ngủ cuối cùng trong một nghĩa địa nhỏ ở Cái Bè,
và người bạn đồng
hành dũng cảm trong các cuộc thám hiểm của ông Lộc, bá tước V.., cựu
thống sứ (resident
superieur) ở Cam Bốt, mà mới đây tôi đă có dịp đi đưa đám tang ở trong
thành phố lớn Paris
của chúng ta, nơi mà ông ta đă t́m thấy một nơi yên nghĩ tốt đẹp xứng
đáng.“
H́nh 1 - Một con voi bị bắn hạ ở cánh đồng thuộc tỉnh Cần Thơ thời Pháp
thuộc
(nguồn:
http://www.delcampe.net/page/list/language,E,cat,6556,var,Postcards-Asia-
Vietnam.html).
Thời tiền sử
Khi con người bắt đầu đến vùng đất Saigon và vùng phụ cận chung quanh
bao gồm vùng Đông
và Tây Nam bộ, môi trường sống của họ rất phong phú và họ sống theo lối
sống hái lượm trong
rừng và thu hoạch dưới sông rạch, không định cư nhất định ở một nơi. Họ
đến Đông Nam Á từ
Nam Á (và trước đó từ Phi Châu) cách đây khoảng 47000 năm (22).
Nếu chúng ta đi ngược thời gian th́ cách đây hơn 3 ngàn năm, th́ bờ biển
từ cửa các sông Đồng
Nai- Thị Vại, Vàm cỏ, Cửu Long đến Cà Mau và Kiên Giang c̣n nằm nhiều
cây số bên trong đất
liền trước khi được phù sa bồi đắp nới rộng ra cho đến vị trí ngày nay.
Nhưng nếu đi xa hơn nữa
quá thời Holocene (cách đây 12000 năm khi thời kỳ băng hà cuối chấm dứt)
vào thời Pleistocene
(từ 2 triệu năm đến 13,000 năm trước đây) trong thời kỳ băng hà cuối
(Pleistocene có nhiều thời
kỳ băng hà và tan băng) cách đây 20000 năm th́ mực nước biển c̣n thấp
(từ 100m đến 150m
dưới mực nước biển hiện nay) (23). Lúc đó thềm lục địa ở biển Đông và cả
vùng vịnh Thái Lan
từ mủi Cà Mau đến Sumatra, Java, Borneo đều ở trên mực nước biển làm
thành một vùng đất to
lớn mà các nhà địa chất gọi là Sundaland nối liền các đảo Sumatra, Java,
Bali, Borneo… với lục
địa Á châu.
Trước khi biển tiến cách đây 14,000 năm th́ Sundaland cho phép các loại
động vật cũng như
người cổ ở Đông Nam Á phát tán và đi qua các “cầu đất liền” trên vùng
rộng lớn này.. Con
người cũng đă đi đến lục địa Úc châu từ Đông Nam Á và Sundaland qua các
eo biển hẹp ngăn
cách Úc với Sundaland. Con người đă đến Úc cách đây hơn 50000 năm, sớm
nhất từ Phi Châu,
trước khi có đợt hai từ Trung Đông đến Âu châu. Động vật như loài voi
hiện diện ở khắp vùng
Nam lục địa Á châu từ Sri Lanka, Ấn độ, Miến Điện, Thái Lan, Nam Trung
Quốc (Vân Nam),
Đông Dương, Mă Lai đến các đảo hiện nay Sumatra, và Borneo. Loài voi,
Elephas maximus
sumatranus,
ở đảo Sumatra và Borneo giống như loài Elephas maximus maximus ở
Sri Lanka
và Elephas maximus indicus ở Ấn độ và các nơi khác.
Các di chỉ con người cổ được t́m được ở Thái Lan, Mă Lai, Indonesia, Phi
Luật Tân (lúc bấy giờ
c̣n nối liền nhau) và qua các phương pháp định tuổi của chúng cho thấy
đột tuổi theo tuần tự
thời gian là từ khoảng 47000 năm BP (Thái Lan) cho đến đến 40000-35000
năm BP (Mă Lai,
Indonesia, Phi Luật Tân, quần đảo Bismarck). Như vậy con người có thể
đến vùng Nam bộ và
Tây nguyên vào khoảng 40000 năm cách ngày nay. Chúng ta hiện nay không
biết nhiều về cuộc
sống xă hội, h́nh thái chủng tộc của những người đầu tiên này. Họ có
liên hệ đến người thuộc
chủng negrito, hay australoid mà hậu duệ vẫn c̣n hiện nay
ở quần đảo Andaman và Nicobar ở
Ấn Độ Dương, trong rừng sâu ở bán đảo Mă Lai, quần đảo Phi Luật Tân hay
là người Papua ở
Papua New Guinea và thổ dân Australian ở Australia hiện nay.
Một bộ xương hầu như c̣n nguyên vẹn đă được t́m thấy tại một di chỉ hang
đá gọi là hang Gua
Gunung Runtuh ở Perak, Mă Lai vào đầu thời kỳ Holocene. Phân tích bộ
xương này cho thấy
xương rất giống thổ dân Úc ngày nay ở h́nh thái răng và chân tay, và
giống những mẫu sọ người
ở thời kỳ Mesolithic (đá trung kỳ) ở Mă Lai và đảo Flores. Sự khám phá
này, cùng với các
xương t́m thấy ở hang đá Tabon (Palawan, Phi Luật Tân) và Niah (bắc
Borneo, Sarawak thuộc
Mă Lai), hay Ngandong và Wejak cho thấy những người cổ ở Sundaland trong
thời Pleistocene
muộn có thể là tổ tiên của người thổ dân Úc hiện nay. Các đặc tính qua
đo lường ở răng và
xương chân ở người cổ Sundaland cho thấy các đặc tính này vẫn c̣n thấy ở
các dân cư trong
vùng Đông Nam Á cho đến đầu thời kỳ Holocene. Tuy vậy các khác nhau ở
đặc tính về sọ đă
được tích tụ từ cuối thời kỳ Pleistocene ở thổ dân Úc và các dân cư đầu
tiên vùng Đông Nam Á
so với các sọ cổ Sundaland (23).
Trong một nghiên cứu di truyền mới nhất về sự liên hệ của người cổ thổ
dân negrito ở bán đảo
Mă Lai với các giống dân hiện nay ở Đông Nam Á và Đông Á. Qua phân tích
mitochondria
DNA (mtDNA) từ mẫu tóc của người negrito ở Mă Lai trong bộ sưu tập
Duckworth Collection
và các nhóm người khác cho thấy lúc đầu họ chỉ trong phạm vi tây nam
Trung quốc, bán đảo
Đông Nam Á và Indonesia nhưng sau đó họ đă phát tán nhanh chóng đi khắp
Đông Nam Á vào
giữa cuối thời băng hà và thời Holocene đá mới cách đây 13000 năm (23).
1. Động Tabon 2. Động Niah 3. di chỉ người ở Ngandong 4. di chỉ người ở
Wajak.
Màu xanh đậm lá cây là thềm Sunda, màu đỏ là đường Wallace chia địa lư
sinh học ra
hai vùng tiến hóa khác nhau về động và thực vật: vùng Sunda (Đông Nam Á)
và Sahul
(Papua và Úc Châu)
Cách đây từ khoăng 20000 đến 10000 năm, những giống dân cư này bắt đầu
toă ra đi đến cư ngụ
ở vùng thượng du phía bắc và nam Đông Nam Á. Từ đó trong những môi
trường mới, họ bắt đầu
thuần hóa các cây quả và thú vật lần lần một cách có hệ thống. Sự kết
hợp đời sống đánh cá với
hái lượm trong rừng, và sự vun xới các cây như cây đậu, đă cho phép họ
thiết lập được đời sống
vĩnh viễn, không đi đâu xa, quanh quẩn ở các hang, chủ yếu là gần nguồn
nước; đây là cách sống
lần lần được các nhóm khác, sống trăi rộng trong khắp vùng, tiếp thu và
thâu nhận.
Văn hóa của những nhóm người này được gọi là văn hóa Ḥa B́nh, do sự
khám phá các di chỉ có
cùng đặc tính chung vào đầu thế kỷ 20 đầu tiên ở tỉnh Ḥa B́nh, Việt
Nam. Sau này các di chỉ
tương tự được khám phá ở nhiều nơi khác trong vùng Đông Nam Á. Các đặc
tính chung mà ta có
thể thấy được về kỹ thuật, tập quán và đời sống hàng ngày trước đây và
cho đến tận ngày nay của
nhiều sắc dân ở Đông Nam Á.
Cách đây khoảng 14000 năm, mực nuớc biển tăng lên ở cuối thời kỳ băng hà
đă cắt đứt các
“cầu” đất liền nối các đảo ở phía nam Đông Nam Á với lục địa Á châu. Và
qua đó đă làm tăng
nhanh quá tŕnh phân hóa và cách ly giữa các văn hoá bản sứ trong vùng
đă bắt đầu phát triển,
nhất là ngôn ngữ. Tuy vậy sự kiện xảy ra sau đó không phải là một thời
kỳ của sự cách ly xa dần
của các nhóm mà là sự phát triển cùng thời của các văn hóa bản sứ này
dựa trên một nền tảng
chung có cốt rễ là văn hóa Ḥa B́nh thích ứng với điều kiện riêng ở mỗi
địa phương, cộng với
sự truyền đạt ư tưởng và kỹ thuật đă cho phép các phát minh tỏa ra trong
một vùng địa h́nh thiên
nhiên (23).
Bắt đầu cách nay 10000 BP năm, th́ con người thuộc văn hóa Ḥa B́nh
trong thời kỳ đá mới đă
có mặt nhiều nơi ở Đông Nam Á và chúng ta hiểu rơ hơn về họ so với người
thời đại đá củ lúc
trước, qua các di chỉ cư trú ở hang động ở bắc Việt Nam, Lào, Thái
Lan... cùng các dụng cụ đá
mài, gốm, xương động vật, vơ ṣ… t́m được ở các di chỉ cư trú này.
Các vết tích của con người thời kỳ đồ đá cũ và mới được t́m thấy nhiều ở
Thủ Đức, Biên Ḥa,
Xuân Lộc trong lưu vực thượng nguồn sông Saigon và sông Đồng Nai.
H́nh 2 - Bản đồ cho thấy con người phát tán từ Phi châu dọc theo bờ biển
đến Nam Á, Đông
Nam Á chia ra hai ngă: một xuống phía nam đến Australia và một lên Đông
Á theo bán đảo
Đông Dương (22). Số trên bản đồ là niên đại cách nay (BP, Before
Present) đơn vị là ngàn năm
của các di chỉ khảo cổ con người. Bản đồ nhỏ trong h́nh là con đường
thiên cư dựa theo dấu di
truyền (genetic marker) RPS47C711T (đột biến M130).
H́nh 3 - Người Mạ ở Biên Ḥa leo cây t́m mật ong
(nguồn
http://www.postcardman.net/vietnam_ethnic_moi.html)
Có thể nói là trước khi lưu dân người Việt đến th́ Saigon đă là nơi định
cư của các người Khmer
ở phía Tây, ở phía Đông là người Mạ, Chăm, và phía Bắc là Stieng, Khmer
và Mạ. Người Mạ và
người Stieng là cư dân bản sứ và đă hiện diện lâu đời, có mặt trước hết
từ thượng nguồn sông
Đồng Nai, sông Saigon, sông Bé, sông Vàm Cỏ xuống đồng bằng hạ lưu của
các sông này và
sông Tiền Giang cho đến Cần Giờ, Mỹ Tho. Ngôn ngữ của họ, cũng như của
người Mnong ở
Dak Lak, thuộc hệ Mon-Khmer. Ngày nay người Mạ chỉ c̣n một số ở Đồng
Nai, Lâm Đồng,
B́nh Thuận và người Stieng c̣n ở răi rác rất ít trong hai tỉnh Tây Ninh
và B́nh Phước.
Cách đây không lâu vào đầu thế kỷ 20 đến giữa thế kỷ 20, người Mạ vẫn
c̣n nhiều ở các vùng
Bà Rịa, Biên Ḥa, Xuân Lộc (Đồng Nai) nay cả các địa phận quanh Saigon
như Thủ Đức và
người Stieng vẫn c̣n ở Tân Uyên, và chung quanh Thủ Dầu Một (B́nh
Dương). Trước đó vào
đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng John White khi viếng thăm Saigon đă thấy
người “mọi” trong
Saigon dự cuộc triễn lăm do Tả quân Lê Văn Duyệt tổ chức và được Tả quân
cho biết đó là
những chủ nhân vùng đất này trước khi lưu dân người Việt và Hoa đến.
L. Jammes
(2)
trong quyển “Souvenir du pays d’Annam” (3) đă cho biết trong đoàn quân
của
Nguyễn Tri Phương giữ thành Kỳ Ḥa có nhiều người “mọi” thổ dân được
dùng để xung kích, la
ó dữ dằn cốt làm sợ hải quân Pháp. Khi Pháp chiếm và xây dựng lại Saigon
trong những năm
1860s th́ một con đường Saigon đă được đặt tên là Rue des Mois (sau đổi
tên là Rue Richaud,
nay là Nguyễn Đ́nh Chiểu) do có nhiều thổ dân ở đó.
H́nh 4 – Người Mạ (c̣n gọi là Chau Mạ, “Chau” tiếng Mạ nghĩa là người) ở
Biên Ḥa (đầu thế
kỷ 20)
(nguồn: http://www.postcardman.net/vietnam_ethnic_moi.html)
H́nh 5. Biên Ḥa – Người “Mọi” (có lẽ là Stieng) – Đầu thế kỷ 20.
Khi người Khmer, thừa hưởng kế tục văn minh Phù Nam, từ vùng châu thổ
sông Cửu Long phía
Tây và phía Tây bắc đến và người Chăm từ phía Đông xuống th́ hai tộc Mạ
và Stieng bắt đầu rút
dần lên thượng nguồn, rừng rậm và núi. Saigon là nơi giao điểm của cư
dân đồng bằng Khmer,
Chăm và cao nguyên Mạ, Stieng. Các vết tích kiến trúc, nghệ thuật của
người Khmer được t́m
thấy ở nhiều nơi trong Saigon và vùng phụ cận.
Khảo cổ học trong vùng lưu vực các sông Đồng Nai, Saigon, Sông Bé và Vàm
Cỏ cho thấy
những di chỉ khảo cổ tiền sử phong phú từ thời đồ đá đến thời kỳ đồ đồng
và sắt.
Rất nhiều di chỉ khảo cổ thời tiền sử được t́m thấy ở chung quanh Saigon
trong khu vực miền
Đông Nam Bộ, đặc biệt là vùng lưu vực sông Đồng Nai. Mộ cổ cự thạch Hàng
G̣n là di chỉ nổi
tiếng nhất ở gần Xuân Lộc (Đồng Nai) được phát hiện vào năm 1927. Mộ cổ
cự thạch do kỷ sư
Jean Bouchot phát hiện khi ông thực hiện công tŕnh mở đường từ Long
Khánh Xuân Lộc đi Bà
Rịa trong địa phận của một đồn điền cao su.
Hai năm sau, khám phá này đă được công bố chi tiết trên tạp chí của
trường Viễn Đông Bác Cổ
(1929). Khám phá này đă gây ra nhiều sự chú ư và bàn căi giữa các nhà
khảo cổ học về nguồn
gốc, niên đại, chủ nhân và sự liên hệ với các di tích cự thạch khác ở
các nơi khác trên thế giới.
Các di chỉ cự thạch trên các mộ chôn tương tự t́m được ở Lào (như
Hintang Houamuang, San
Kong Phanh, tỉnh Houaphan) cho thấy có thể có sự liên hệ của con người
thời tiền sử giữa vùng
núi Trường Sơn Lào, Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.
Vào năm 1984, mộ cổ cự thạch Hàng G̣n được chính thức xếp vào di tích
quốc gia. Đây là mộ
đá tảng lớn (dolmen) h́nh hộp chữ nhật dài 4.2 m ngang 2.7 m cao 1.6m
được ghép bằng 6 tấm
đá hoa cương nguyên khối. Tấm nắp đậy dầy khoảng 30cm và nặng hơn 10
tấn. Theo các nhà địa
chất học th́ đá hoa cương chỉ có ở phía bắc vùng Đà Lạt hay Phan Rang.
Di chuyển, nâng và rắp
ghép các tảng đá khổng lồ như vậy là một kỳ công của cư dân tiền sử.
H́nh 6 - Di chỉ cự thạch mộ đá lớn Hàng G̣n, Xuân Lộc (H. Parmentier)
(5).
H́nh A, t́nh trạng thật sự ở di tích, B, vị trí suy diễn qua độ cao của
đáy pḥng và chân các cột.
H́nh 7 - Cự thạch đứng (menhir) ở Hintang, Lào
(ảnh từ
http://www.thai-blogs.com/2009/10/29/hintang-a-near-death-experience/)
Gần mộ đá lớn Hàng G̣n, khoảng chục cây số trong khu đồn điền cao su, có
các di chỉ thời đá
mới cạnh các suối mà Saurin đă khai quật sau khi được các chủ đồn điền
thông báo (18). Ngoài
ra, trong khu vực vùng Dầu Giây-Xuân Lộc c̣n có nhiều di chỉ đồ đá cũ do
Saurin phát hiện, có
tuổi cách đây hơn 10000 năm. Cũng trong khu vực này cũng khám phá các
khuôn đồng với niên
đại được xác định là khoảng 2000±250 năm trước Công nguyên. Hiện nay các
nhà khảo cổ cho
rằng chủ nhân mộ cổ cự thạch và nhiều di chỉ đồ đá ở Đồng Nai là cư dân
thuộc hệ ngôn ngữ
Austronesian Nam Đảo (18)(19). Tuy nhiên cũng không loại bỏ họ là thuộc
hệ Austroasiatic
Mon-Khmer, tổ tiên của người Stieng, Mạ, Châu Ro ngày nay, đă đến và cư
trú đầu tiên ở vùng
Đông Nam Bộ.
Di chỉ đồ đá nổi tiếng nhất ở Đồng Nai là di chỉ Cù Lao Rùa, cách Biên
Hoà 5.5km, được khám
phá từ năm 1888 do Émile Cartailhac khai quật t́m thấy nhiều ŕu đá,
cuốc, mai đá. Di chỉ này đă
được khai quật nhiều lần trong nhiều năm tiếp theo bởi nhiều nhà khảo cổ
học và t́m được hàng
mấy trăm ŕu đá có vai được mài bóng, nhiều đồ gốm nung. Ở Cù Lao Phố,
B́nh Đa gần đấy,
cũng t́m được vài ŕu đá mài nhưng không bằng như ở Cù Lao Rùa.
Di chỉ đồ đá Phước Tân nằm ở phía đông trên đường Biên Ḥa-Vũng Tàu ở
cây số 42, được
khám phá khi khởi xây một trại hủi và được Fontaine mô tả (9). Di chỉ
này rất phong phú hơn cả
di chỉ Cù Lao Rùa, có nhiều hiện vật đá như ŕu, cuốc, đục có vai và một
số gốm thô.
Trong những năm 1886-1890, Thomas Holbé(1)
đă thu thập ở Biên Hoà nhiều hiện vật tiền sử
cùng với một số hiện vật ở 20 nơi khác trong vùng lưu vực sông Đồng Nai
như Mỹ Lộc (Cần
Giuộc, Long An), Bến G̣ (Tây Ninh), trong đó có 10 ŕu đồng. Trong tổng
số 1200 hiện vật th́
91% là từ Biên Ḥa. Bộ sưu tập được triễn lăm ở hội chợ quốc tế 1889.
Di chỉ Bến Đ̣ (huyện Thủ Đức) cách cầu xa lộ 3km, rất phong phú gồm có
214 công cụ đá với
nhiều ŕu đá có vai và hàng ngàn mảnh gốm. Cuối năm 1975, các nhà khảo
cổ Việt Nam đă phát
hiện ra di chỉ Cầu Sắc (huyện Xuân Lộc). Ở nơi đây có 772 công cụ đá mới
(gồm ŕu có vai, ŕu
tứ giác..), gốm t́m được. Qua các hiện vật, đời sống dân cư ở đây chủ
yếu là săn bắn trong rừng
rậm.
Ở về phía vùng đất đỏ miền đông Nam bộ giáp với nam Trường Sơn, trong
tỉnh Tây Ninh và ở
Lộc Ninh có những di tích thuộc loại h́nh thành đất ṿng tṛn. Thành đất
gồm hai ṿng tṛn
đồng tâm với ṿng ngoài có bán kinh khoảng 120m. Những thành đất này
tương tự các thành đất
ở Cánh đồng chum (Lào), ở Thái Lan và ở tận Madagascar cho thấy chủ nhân
những di tích này
có thể là người Austronesian hay ít nhất có quan hệ với người
Austronesian Champa như
Malleret đă đặt ra (19). Những hiện vật t́m thấy gồm ŕu đá mài, bàn
mài, mủi nhọn, gốm xám
tro hay nâu đỏ.
Sau thời đại đồ đá là thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt. Di chỉ Suối
Chồn gần di chỉ Cầu Sắc
được phát hiện vào năm 1978, thuộc thời đại đồng thau, gồm nhiều đồ đồng
như ŕu, lưỡi hái.. và
một số hiện vật đá (ŕu) (18). Di chỉ Dốc Chùa (B́nh Dương), khám phá
vàn năm 1976, đánh dấu
giai đoạn cao của thời đồng thau, có rất nhiều ŕu đá, gốm, hiện vật
đồng, khuôn đồng, tượng thú,
hạt chuổi mă nảo, thuỷ tinh v.v.. (18)
Ở Dầu Giây, Suối Đá (Xuân Lộc) và Phú Ḥa đă phát hiện di chỉ có các
hiện vật chuổi thuỷ tinh,
hoa tai đồng, các mộ chum mai táng, đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh.
Chứng tỏ văn hóa Sa
Huỳnh đă phát triển ở vùng Đông Nam Bộ trên địa bàn lưu vực sông Đồng
Nai. Ở Saigon khi
đào móng xây nhà thờ lớn (Đức Bà) đă phát hiện di cốt người trong các
chum/ṿ gốm. Bộ sưu
tập này đă mất. Đây là phát hiện sớm nhất các mộ chum, trước cả sự phát
hiện mộ chum ở Sa
Huỳnh ở miền trung mà sau này được gọi là văn hóa Sa Huỳnh (9).
Năm 1985, các nhà khảo cổ Việt Nam đă khám phá ở gần xă Quảng Ngăi,
huyện Đa Huoai, Lâm
Đồng trên tả ngạn sông Đồng Nai một khu di tích lớn trên nhiều g̣ vết
tích kiến trúc lớn bằng
gạch, các tượng linga, bệ thờ linga-yoni, h́nh thần siva dập nổi trên
một tấm bạc mỏng, thần
Uma chiến thắng quỉ trâu, một số ŕu đá mài, ṿng đồng và gốm cổ. Mặc
dầu đây là vùng cư ngụ
của dân tộc bản địa Mạ nhưng khu di tích này cho thấy có sự quan hệ văn
hóa với Champa và
văn hóa hậu Óc Eo (19).
Trong khu vực Saigon-Chợ Lớn, Etienne Aymonier (1901) đă ghi nhận tại g̣
Cây Mai có các
những công cụ thời tiền sử gồm những lưỡi cuốc/mai, đục bằng đá mài và
ŕu nhỏ bằng đồng
(19). Năm 1980, ở Vũng Tàu, trong một ḷng ao, đă phát hiện một trống
đồng Đông Sơn có sao
12 cánh ở giữa mặt trống. Và cuối cùng năm 1984, nhân dân lúc đi làm rẫy
đă phát hiện một
“kho” vũ khí đồng (qua đồng), ŕu đồng ở Long Giao (huyện Xuân Lộc) có
liên hệ với văn hóa
Đông Sơn (19). Trên 2 mặt qua đồng có trang trí hoa văn rất đẹp, cân
xứng giống hệt nhau. Đây
là điểm cao của văn hóa đồng ở Đồng Nai.
H́nh 8 - Qua đồng Long Giao trưng bày ở bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh
(thân gỗ được ghép vào qua đồng để trưng bày công cụ qua đồng)
Chúng ta hiện nay chưa có thể xác định là chủ nhân của các di chỉ tiền
sử nói trên là của tổ tiên
của người Stieng, Mạ hiện nay hay của người Austronesian Sa Huỳnh từ
miền trung Việt Nam
và hải đảo.
Người Mạ hiện nay có khoăng 20000 người ở các tỉnh B́nh Dương, Đồng Nai,
Lâm Đồng,
DakLac trong đó ở huyện Bảo Lộc (Lâm Đồng) là nơi tập trung nhiều nhất.
Họ làm lúa rẫy, thạo
dệt văi có hoa văn đẹp, ở nhà sàn dài, có tục cà răng và xâu lỗ tai lớn.
Người Stieng đông hơn,
chủ yếu ở Tây Ninh, B́nh Dương (Sông Bé) và Đồng Nai, nói tiếng rất gần
với tiếng Khmer.
Trang phục khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Họ để tóc
dài, búi sau gáy, xâu lỗ
tai, căng lổ tai, đeo hoa tai bằng gỗ hoặc ngà và xâm mặt, xâm ḿnh với
nét hoa văn h́nh học
đơn giản, cũng có tục cà răng nhưng nay không c̣n, uống nhiều rượu, ăn
trầu. Các sọ cổ t́m
được ở Cần Giờ (G̣ Cá Trăng), ở hạ lưu sông Cửu Long như An Sơn, G̣
Tháp, Óc Eo cho thấy
rất gần gủi loai h́nh sọ người Thượng (Stieng, Mạ) hiện nay, chứng tỏ
địa bàn của họ xưa kia tản
rộng từ Đông Nam Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long.
Qua các tư liệu thông tin từ các di chỉ từ thời đồ đá đến thời đồng và
sắt t́m được ở lưu vực sông
Đồng Nai và Vàm Cỏ như đă nói trên, ta có thể lập giả thuyết là người
tiền sử chủng Nam Á
Austroasiatic thuộc hệ Mon-Khmer trên lục địa là chủ nhân các di chỉ
thời đại đá cũ và mới.
Sau đó trong thời cuối thời kỳ đá mới, đầu thời kỳ đồng đến thời kỳ đồ
sắt th́ yếu tố
Austronesian hải đảo thuộc văn hóa Sa Huỳnh đă đến lưu vực sông Đồng Nai
và có ảnh hưởng
trên toàn vùng nhất là ở các ven trăi từ Xuân Lộc, Hàng G̣n, Long Thành
đến Cần Giờ. V́ thế
vùng đất trong khu vực này là vùng giao điểm hay vùng đệm của hai chủng
Austroasiactic (ở
phía Tây và Nam) và Austronesian (ở phía Đông và Bắc), cũng như sau này
là vùng giao điểm
của hai nền văn minh Mon-Khmer (Phù Nam, Chân Lạp) và Austronesian
Champa.
Chú thích
(1) Thomas Holbé là dược sĩ phục vụ trong Hải quân Pháp, đến Nam kỳ vào
năm 1881. Ông
cũng là cộng tác viên Trường nhân chủng học Paris (École d’anthropologie
de Paris). Sau
khi rời hải quân, ông mở tiệm thuốc ở trung tâm Saigon (nay là nhà hàng
Givral vừa bị
phá đi), làm phó chủ tịch pḥng thương mại (1891-1894), có chân trong
Hội đồng quản
hạt, tốt nghiệp tiến sĩ dược học (1905). Là nhà sưu tập thông thái, ông
có bộ sưu tập đồ
đá thời tiền sử ở Nam kỳ, Indonesia. Viếng nhiều nơi như ở B́nh Thuận,
Tây nguyên và
trong các năm đầu thế kỷ 20, ông đă viếng Java, Borneo và bán đảo Mă
Lai, Bắc kỳ, Vân
Nam, Angkor, Pursat. Cùng với Cardiere ông đi lên vùng núi Quảng Trị t́m
hiểu các cư
dân “Mọi”.
(2) Ludovic Jammes, nhà báo, thiết lập Courrier Saigonnais năm 1894.
Không phải là nhà
khoa học, có nhiều tưởng tượng nên Louis Finot đă có bài viết trên tạp
chí Trưỡng Viễn
Đông Bác cổ chỉ trích về sự thiếu nghiêm túc của Jammes trong các tuyên
bố về các hiện
vật tiền sử mà Jammes cho rằng đă đến khai quật ở Samrong Sen (Cam Bốt).
Thời kỳ vương quốc Phù Nam, từ 200 B.C đến thế kỷ thứ 7
Trong những năm biến loạn giữa thế chiến thứ hai, có một sự kiện ít ai
bận tâm nhưng có ư nghĩa
quan trọng trong lịch sử và khảo cổ vùng hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long.
Đó là di chỉ Óc Eo
và sự khám phá của nhà khảo cổ Louis Malleret về thành phố cảng quan
trọng của một nền văn
minh chưa được biết đến nhiều, nền văn minh Phù Nam.
Trước đó ta chỉ biết về Phù Nam qua sử liệu Trung quốc nói về vương quốc
này ở vùng Thủy
Chân Lạp. Vị trí trung tâm của Phù Nam được nhiều nhà nghiên cứu cho là
ở vùng hạ lưu đồng
bằng sông Cửu Long hiện nay bao gồm Rạch Giá, Hà Tiên, Long Xuyên,
Sambor Prei Kuk,
Banteay Prei Nokor và Angkor Borei. Lănh thổ và ảnh hưởng của Phù Nam
th́ rộng lớn từ Mon-
Dvaravati (Miến Điện, Thái Lan ngày nay), Nam Lào đến cả vùng Nam bộ.
Phù Nam bắt đầu được chú ư khi vào năm 1903, P. Pelliot đă dịch các thư
tịch trong sử Trung
Quốc nói về vương quốc Phù Nam, cho thấy đây là một vương quốc Ấn hóa
hùng mạnh đầu tiên
ở Đông Nam Á và có sự liên hệ với Trung Quốc và các vùng khác vào thế kỷ
1 đến thứ 5 sau
công nguyên. Một số khám phá và công tŕnh nghiên cứu của các học giả
Pháp ở trường Viễn
Đông bác cổ vào các thập niên đầu thế kỷ 20 như Parmentier, Claeys,
Malleret, Coedes, De
Lajonquiere… ở các di chỉ t́m được ở hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long cho
chúng ta biết thêm
là vùng này có một nền văn hóa cổ xưa ở các thế kỷ đầu công nguyên. Các
di tích khảo cổ này
được cho là các di chỉ kiến trúc thuộc văn hóa Phù Nam “tiền Angkor”, di
sản để lại cho văn
minh Khmer Chân Lạp khi Phù Nam biến mất, và là bước đầu làm nền tảng
cho văn hóa Khmer
Angkor phát triển rực rở ở thế kỷ 12.
Ngay ở tại Saigon, ở gần giao lộ đường 3/2 và đường Hùng Vương là chùa
Phung Sơn hay c̣n
gọi là chùa G̣. Nơi đây là di tích của một di chỉ đền thờ thuộc nền văn
hóa Óc Eo hay c̣n gọi là
“tiền Angkor”. Di tích g̣ ở chùa Phụng Sơn nằm trên g̣ đất h́nh gần
vuông mỗi cạnh khoảng
100m có hào nước chung quanh. Di tích được biết khoảng năm 1930-1940.
Tại g̣ này năm 1938
đă phát hiện một tượng thần Vishnu bằng đá t́m được ở một giếng phía
đông bắc ngôi đên trên
g̣. Cuộc khai quật nghiên cứu năm 1991 đă làm rơ di chỉ kiến trúc điện
thờ, thu thập thêm được
những đồ gốm Óc Eo điển h́nh, tượng bán thân và linga ở khu mộ táng dưới
và quanh miếu Ông
Tà, về phía bên trái của chùa g̣ Linh Sơn ngày nay. Ở phía bên phải của
chùa, cũng t́m được di
tích gạch đá của cửa chính ở phía đông và cửa hậu ở phía tây (Đền Phù
Nam luôn có cửa chính
hướng về phía đông nơi mặt trời mọc, nhận ánh sáng thần linh).
Vậy ta biết ǵ về Phù Nam và con người của vương quốc này, đă cư trú hay
ít nhất có ảnh hưởng
trực tiếp vào các thế kỷ đầu công nguyên ở vùng đất Saigon mà ta biết
ngày nay?
Phù Nam (扶南)
là tên sử Trung quốc gọi tên vương quốc này, hiện nay ta không biết
người Phù
Nam gọi họ và đất nước của họ là tên ǵ (Phù Nam có thể là phiên âm từ
chữ Môn-Khmer
phnom, có nghĩa là núi). Vào giữa thế kỷ thứ 3 A.D, vào thời Tam Quốc
hai sứ giả nước Ngô
(Wu, 222-280), Khang Thái (康泰,
Kang Tai) và Chu Ứng (朱應,
Zhu Ying), đă đến viếng thủ
đô huyền thoại của Phù Nam là Đặc Mục (T’e-mu). Thủ đô này cách bờ biển
khoảng
500 li(200km). Theo bia kư bằng chữ Phạn sanscrit (khoảng 655 A.
D) th́ thủ phủ của Phù Nam
hay ít nhất là một thành phố lớn là Vyadharapura (thành phố thợ săn).
Theo Pelliot và Vickery
(17) th́ thủ đô của Phù Nam là Angkor Borei v́ gần với núi Phnom Da
tương ứng với sự mô tả
của sứ giả Phù Nam đến Trung quốc là Nagasena cho biết thủ đô cạnh chân
núi gọi là
Mayentiram, và Vyadharapura không phải là thủ đô mà có thể chỉ là
Banteay Prei Nokor, một
thành phố phía đông bắc Angkor Borei. Coedes th́ cho rằng thủ đô của Phù
Nam là Ba Phnom
(giữa Angkor Borei và Óc Eo) v́ tên núi tương ứng với Vrah Vnam, một tên
gọi xưa của Ba
Phnom.
Những quan sát về Phù Nam được hai ông Khang Thái và Chu Ứng viết trong
quyển Ngô th́
Ngoại quốc truyện (Wu shi Waiguo Zhuan,
吳時外國傳)
và sau đó được nhiều bộ sử khác sau
này ghi lại vào trong một phần nói về vương quốc Phù Nam như trong bộ
“Lương Sử”. Pelliot
năm 1903 là người đầu tiên đă dùng những tư liệu này để viết về những
nước cổ ở Đông Nam Á
được đề cập trong thư tịch Trung quốc.
Bộ sử “Lương thư” (635 A.D) trong sách sử Trung quốc viết về Phù Nam,
thu thập từ nhiều
nguồn, như sau (14)
“Vương quốc Phù Nam ở phía nam của quận Nhật Nam (Rinan, bắc Việt
Nam), nằm trong một
vịnh ở phía tây của vùng biển (Nam Hải). Vương quốc này cách Nhật Nam
7000 lư (li) và hơn
3000 lư về phía tây nam của Lâm Ấp (Champa). Thủ đô cách biển 500 lư. Có
một con sông lớn,
bề ngang rộng 10 lư, chảy từ tây bắc và đổ ra biển ở phía đông. Vương
quốc này có đường kính
hơn 3000 lư, và đất ở vùng thấp và phẳng. Khí hậu và phong tục nói chung
giống như ở Lâm Ấp.
Nơi đây sản xuất vàng, bạc, đồng, thiếc, gỗ trầm hương (降真香,
giáng chân hương, lakawood,
Liana Indiana), ngà voi, ngọc và các con két 5 màu. (ghi chú: 1 lư trong
“Lương thư” tương
đương với khoảng 77 mét)
Người dân Phù Nam lúc ban đầu có tục ở trần truồng, xâm ḿnh và để tóc
xỏa dài không búi.
Thủ lănh của họ là một người đàn bà tên là Liễu Diệp (柳葉,
Liuye, Lá Liễu, c̣n gọi là Soma ở
truyền thuyết Chăm tương tự). Người đàn bà này trẻ và khỏe mạnh, như một
người đàn ông. Ở
phía nam có một vương quốc Ji,(徼,
kiêu) nơi có một thầy tu phù phép thần thánh tên là Hỗn
Điền (Huntian, tương đương với Kaundinya trong truyền thuyết Ấn độ tương
tự). Ông ta mơ
trong một giấc mộng có một vị thần cho ông một cây cung, và đi trên một
thuyền buôn. Lúc buổi
sáng khi tỉnh dậy, ông đi đến đền và t́m thấy một cây cung ở dưới một
gốc cây thiêng. V́ thế ông
làm theo như trong mộng và đi ra biển trên một tàu, đến vùng ngoại biên
của Phù Nam. Liễu
Diệp (Liuye) và đoàn tùy tùng thấy thuyền đến gần và muốn bắt thuyền
này. Hỗn Điền rút cung
ra và bắn vào thuyền của Liễu Diệp, đâm thủng một bên và trúng một người
hầu. Liễu Diệp sợ
hăi và cùng với thần dân đầu hàng Hỗn Điền. Hỗn Điền dạy Liễu Diệp làm
một lỗ ở giữa mănh
văi và để đầu xuyên qua lỗ này, dùng làm quần áo để che than. Sau đó Hỗn
Điền ngự trị trên
toàn lănh thổ và cưới Liễu Diệp làm vợ. Họ có bảy người con trai, mỗi
người con được làm vua
ở mỗi vùng khác nhau. Sau này, vua Hỗn Bàn Huống (Hun Pankuang) dùng mưu
mẹo để gây
mâu thuẫn giữa các vùng, làm cho họ nghi ngờ và ngăn cản. Sau đó Bàn
Huống mang quân lính
tấn công và thống trị tất cả, và gởi con và cháu của ḿnh ngự trị mọi
vùng với tước hiệu tiểu
vương...”
Đoạn miêu tả về đặc tính của nền công lư Phù Nam:
“Họ nuôi cá sấu trong hào chung quanh thủ đô, và một chuồng thú dữ ngoài
cửa thành. Những
người bị kết tội phạm bị cho thú dữ hay cá sấu ăn, và nếu họ không bị
thú vật ăn trong ṿng 3
ngày, họ được coi là vô tội và được thả. Những con cá sấu lớn dài hơn 2
trượng (zhang) và
giống loại cá sấu ở sông Dương Tử với 4 chân và mơm dài từ 6 đến 7 chi,
răng ở hai bên sắt như
kiếm. Chúng thường ăn cá nhưng cũng nuốt ăn nai hay người nếu đến ngang
gần chúng. Có
những cá sấu ở phía nam quận Cangwu và ở nước ngoài (ở phía nam).“
Sau thời huyền thoại lập quốc, là đến thời kỳ có sử liệu ghi lại sự kiện
qua thư tịch và sử Trung
quốc (14):
“Trong thời nhà Ngô (thời kỳ Tam Quốc), tướng vệ binh Khang Thái và quan
Chu Ứng được gởi
là sứ giả đến vương quốc Phù Nam của vua Phạm Tần (Fan Xun). Người dân ở
đây vẫn c̣n trần
truồng, trừ đàn bà mặc vải có lổ để đầu xỏ vào. Khang Thái và Chu Ứng
nói với họ, „Đây là một
nước tốt đẹp, nhưng thật không tốt để người dân không có ǵ mặc như
vậy‟. V́ thế lần đầu tiên,
người đàn ông ở xứ này được lệnh mặc hengfu. Hengfu là y phục mà nay gọi
là ganman (tức
sarong). Người giàu làm hengfu từ bông vải, nhưng người nghèo chỉ dùng
vải thường (hemp)
đơn giản.
Vào thời Thái Khang (太康,Taikang
280-289 AD) trị v́ của Tấn Vũ đế (晋武帝,
Jin Wudi), Phù
Nam gởi sứ bộ triều cống đầu tiên. Trong năm đầu (357 A.D) thời Thăng
B́nh (升平,
Shengping) của Tấn Mục đế (晉穆帝,
Jin Mudi), vua Zhuzhantan (Chu Chan-T‟an) gởi vật triều
cống là một con voi thuần. Vua Mục đế ra chỉ thị cho vua Phù Nam “Con
thú này rất khó chuyên
chở, ngươi không cần phải gởi cống con voi nào nữa”...
Vào thời Vĩnh Minh (永明,
YongMing, 483-493) của triều đại nhà Nam Tề (南齐),
vua
Sheyebamo (Jayavarman) gởi sứ bộ triều cống.
Vào năm thứ hai của thời Thiên Giám (天監,
Tianjian, 503 A.D) của vua Lương Vũ đế (Liang
Wudi), Jayavarman lần nữa gởi vật triều cống là một bức tượng Phật làm
băng san hô và các
sản vật Phù Nam. Nhà vua đă ra dụ, “Vua Phù Nam Qiaochenru Sheyebamo
(Kaundinya
Jayavarman) sống cạnh biển và vương quốc của nhà vua đă thần phục chúng
ta từ nhiều đời. Sự
thành khẩn của nhà vua được biết lan ra xa ngoài nước và nhà vua đă coi
trọng công việc dịch
ra các kinh kệ và triều cống các vật quí. Ta rất quí nhận chúng và
thưởng cho nhà vua, phong
chức cao cho nhà vua. Nhà vua có thể được phong chức là Tướng b́nh định
phương Nam và Vua
của Phù Nam."
Dân ở vương quốc này tất cả đều xấu và đen, với tóc quăn. Nơi họ sống,
họ không có đào giếng
và vài chục hộ dân dùng một ao chung để lấy nước. Họ thờ thần thiên
giới, qua tượng đồng có
hai mặt và bốn tay. Hay bốn mặt và tám cánh tay. Mỗi bàn tay cầm một vật
– một đứa trẻ hay
con chim, thú hay mặt trời hoặc mặt trăng. Nhà vua cởi voi đi ra vào
cung, cũng như các thê
thiếp. Nhà vua ngồi với đầu gối phải thẳng đứng và đầu gối trái trên đất
và một dĩa trắng đặt
trước mặt nhà vua trên đó có một bồn vàng với hương đèn. Tục lệ ở vương
quốc này là lúc đau
buồn để tang, người ta cạo râu mép, râu hàm và tóc. Người chết được chôn
bằng bốn cách:
bằng nước, quẳng xác xuống sông; bằng lửa, đốt ra tro; bằng đất, chôn
dưới đất; bằng chim, để
ở ngoài chổ hoang dại cho chim ăn. Dân xứ này tham lam và nhỏ nhen,
không hổ thẹn, và đàn
ông đàn bà liên hệ ăn ở với nhau không giới hạn...
Trong năm thứ năm Đại Thông (大通,
Datong, 539), một sứ bộ được gởi đến với một con tê
giác. Qua đó cũng được biết là vương quốc Phù nam này có một sợi tóc của
Đức Phật, dài 1
trương và 2 chi, và hoàng đế Lương Vũ đế đă cho gởi nhà sư Shi Yunbao đi
cùng với sứ giả trở
về Phù Nam để mang tóc đức Phật đến Trung quốc“
Ngày 11/4/1942, nhà nghiên cứu Louis Malleret ở viện bảo tàng Blanchard
de la Brosse (nay là
Bảo tàng Lịch sử thành phố Hồ Chí Minh), xuống vùng núi Ba Thê gần Rạch
Giá xem xét sau
khi có tin rất nhiều người đổ sô đến cánh đồng và các g̣ chung quanh núi
Ba Thê để đào bới t́m
vàng và cổ vật quí giá qua sự t́nh cờ khám phá các hiện vật nữ trang
vàng của một nông dân gần
g̣ Cây Thị. Đoàn khảo cổ do Malleret đứng đầu đă đi t́m và mua lại các
di vật đă bị mất cắp và
khởi công khai quật các di chỉ mới t́m thấy đă bị đào xới bởi các người
t́m vàng.
Những khám phá qua khai quật các di vật ở Óc Eo như đồng tiền La Mă có
h́nh của hoàng đế
Antonious Pious và hoàng đế Marcus Aurelus, các tiền h́nh vua Ba Tư, các
hạt chuổi, lưu ly,
thủy tinh cho thấy Óc Eo có liên hệ thương mại với vùng Đông Nam Á và Ấn
Độ (chuyển tiếp
với thế giới La Mă ở Địa Trung Hải). Nhiều học giả cho rằng Óc Eo tương
ứng với Kittigara
(hay Cattigara) mà Ptolemy có đề cập trong quyển Geographia của ông soạn
khoảng 150 A.D mà
nhiều nhà hàng hải trong nhiều thế kỷ đă tranh luận và t́m hiểu về cảng
này trong sử sách.
Óc Eo ở vị trí thuận tiện trong nền thương mại hàng hải giữa Ấn Độ, vùng
Đông Nam Á và
Trung quốc từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến đầu thế kỷ thứ 5 sau
công nguyên.
P. Paris năm 1931 đă cho thấy qua các không ảnh chụp trong các tỉnh
Takeo, Châu Đốc, Long
Xuyên và Rạch Giá có sự hiện diện dấu vết của một hệ thống kênh đào xưa
chung quanh Óc Eo,
Angkor Borei và hai nơi này nối với nhau qua các kênh rạch và từ đó chảy
ra cửa biển gần Rạch
Giá ngày nay. Gần các di chỉ đền và mộ táng trên các g̣ ở Óc Eo có
(rạch) Lung Giếng Đá
(Lung từ tiếng Khmer “stung” nghĩa là rạch) chảy 20km về phía Đông Bắc
đến di chỉ Tráp Đá
(Brai Angrun, tiếng Khmer nghĩa là “băi lầy đá”) và phía Tây Nam đến di
chỉ Nền Chùa ở Kiên
Giang. Di chỉ văn hóa Óc Eo ở Nền Chùa (Takev) gần Rạch Giá được
Malleret coi là vị trí “tiền
cảng” của “thành phố Óc Eo” (15).
Qua kết quả khai quật của Malleret, G. Coedes cho là Óc Eo là thị cảng
lớn nhất của văn hóa Óc
Eo với đền đài theo tôn giáo thờ thần Shiva, Vishnu là chủ yếu và Phật
giáo có ảnh hưởng mạnh.
Malleret cho là Óc Eo c̣n có tên là Naravaranagara (Na-Phật-Na) và là
nơi vua Phù Nam dời
đến khi kinh đô Đặc Mục (T’emu) bị vua Chân Lạp là Isanavarman
(Y-Chư-na) chiếm đóng
(15). Thủ đô của Chân Lạp lúc đó là Isanapura (Sambor Prei Kuk, gần
Kompong Thom ngày
nay). Theo thư tịch Trung quốc th́ vua Phù Nam chạy từ Đặc Mục đến nơi
gọi là “na-fu-na/nafu-
na/*nă-piuet-nă”
mà Coedes cho là naravaranagara, và là thành phố Angkor Borei
ngày nay.
H́nh 9 - G̣ Cây Thị nơi Malleret khảo sát và khai quật năm 1944 (1)
H́nh 10 - Di tích G̣ Cây Thị ngày nay nằm giữa đồng gần núi Ba Thê về
hướng Đông Nam. Để
ư 4 ngăn trong h́nh của Malleret nằm ở bên trái h́nh trên, tức là phía
chính điện (ở hướng tây).
Tiền điện ở hướng đông, bên phải h́nh trên. Tỉnh An Giang đă cho xây rào
bảo vệ di tích g̣ Cây
Thị và khuôn viên chùa Linh Sơn trên triền núi Ba Thê. Tuy vậy các di
tích khác chưa có được
bảo vệ. (Anh của tác giả năm 2011)
H́nh 11 - Nhẫn và trang sức vàng t́m được ở di chỉ G̣ Xoài (Đức Ḥa,
Long An) (9)
Ngoài các di tích ở Óc Eo, trong cánh đồng Giồng Cát và Giồng Xoài, có
rất nhiều di chỉ khảo cổ
thuộc nền văn hóa Phù Nam được khám phá khắp vùng đồng bằng Nam bộ và
cho đến vùng
chung quanh Angkor Borei ở Cam Bốt. Hầu hết các di chỉ là năm trên các
g̣ (cũng dễ hiểu là v́
đây là nơi cao ráo không bị nước ngập trong mùa nước lũ). Di chỉ G̣ Xoài
(Cḥm Mă) ở Đức
Ḥa, Long An trước kia được Henri Parmentier khám phá năm 1910, sau đó
J. Cleays khai quật
năm 1931 di tích G̣ Tháp Lấp cạnh đó, và năm 1987 các nhà khảo cổ Việt
Nam đă khai quật lại
khu G̣ Xoài cho thấy nhiều hiện vật vàng như nhẫn, vàng lá có h́nh các
thú, và một lá vàng có
chữ cổ sanscrit. Tất cả được xác định là thuộc nền văn hóa Óc Eo, Phù
Nam.
Trong khu vực Saigon-Chợ Lớn, ở g̣ Cây Mai t́m được những gạch vỡ, các
mănh sa thạch và
tượng thần Vishnu bốn tay thời tiền Angkor làm bằng sa thạch và gần đấy
ở Rạch Ḷ Gốm, trong
một thửa ruộng ở Phú Thọ vào năm 1928 chủ nhà đă t́m thấy hai pho tượng
bằng đá. Một trong
hai pho tượng là tượng Lokesvara thời tiền Angkor.
Các nhà khảo cổ Việt nam từ năm 1977 đến 1993 đă có nhiều khai quật và
nghiên cứu (15) ở các
di chỉ trước đây và mới t́m được ở nhiều nơi như An Giang (Óc Eo, Ba
Thê, Đá Nổi), Đồng
Tháp (G̣ Tháp hay Tháp Mười), Kiên Giang (Nền Chùa hay Ta kev, Đá Nổi,
Kè Một, Cạnh Đền
hay “Cent Rues” Trăm Phố), Long An (G̣ Hàng, G̣ G̣n, G̣ Chàm, G̣ Sao,
Tho Mo, B́nh Tả
gồm G̣ Xoài hay Cḥm Mă, G̣ Đồn, Cái Tháp, G̣ Năm Tước hay Cái G̣ và G̣
Sáu Huấn),
Tiền Giang (G̣ Thành), Trà Vinh (Lưu Cừ), Cần Thơ (Nhơn Thành, Thạnh
Lợi), Bạc Liêu
(Vĩnh Hưng hay tháp Trà Long), Vĩnh Long (Thành Mới), Tây Ninh (Thanh
Điền, Phước Thạnh,
Phước Chỉ, Chót Mạt), Thành phố Hồ Chí Minh (Cần Giờ gồm Giồng Am, Giồng
Cá Trăng,
Giồng Cháy... và di chỉ trong khuôn viên chùa Linh Sơn tự, Saigon), Đồng
Nai (Cây Gáo, Miếu
Ông Chồn, G̣ Bường hay Nhà Mát), Lâm Đồng (Đồng Nai, g̣ Quảng Ngăi, Cát
Tiên).
Qua những di tích, các di vật t́m thấy, các công tŕnh nghiên cứu mới
này đă xếp loại các di chỉ
thành 3 loại: di chỉ mộ táng, di chỉ đền và di chỉ cư trú. Các nhà khảo
cổ Việt nam đă gọi các di
chỉ với các di vật t́m thấy như hoa văn gốm, tượng đá, gỗ, nhẫn vàng,
bông tai vàng, vàng lá có
chạm h́nh thần, người, các thú như voi, rùa, rắn, nai, hoa sen… đều có
sự liên hệ gần gủi chung
với nhau là thuộc một nền văn hóa gọi là văn hóa Óc Eo (15). Cũng như
trước đây thời Pháp
thuộc, từ năm 1977 rất nhiều các di chỉ được khám phá và khai quật sau
khi đă có nhiều người đă
đào xới t́m vàng làm hư hại các di tích và nhiều hiện vật bị mất cắp.
Hiện nay một số di chỉ
không được bảo quản hoặc nằm trong khu đất nhà hay ruộng dân và bị xuống
cấp trầm trọng hay
mất hẳn.
Đặc biệt ở nhiều di tích cư trú văn hóa Óc Eo t́m thấy rất nhiều hạt
chuỗi h́nh cầu tṛn bằng đá
quí mă năo, ngọc, thủy tinh nhiều màu, nhiều h́nh như lục lăng, lục
giác, h́nh thoi…, hạt chuỗi
bằng đất nung, hạt chuổi nhỏ tṛn dẹt bằng lưu ly, các đá quí nhiều màu.
Đây có khả năng là các
sản phẩm được nhập từ các tàu thương mại trong vùng thế giới
Austronesian hải đảo qua thương
mại hạt chuổi, đá quí, ngọc. Ngoài ra ở các di chỉ văn hóa Óc Eo c̣n t́m
thấy các ṿng tay,
khuyên tai, nhẫn, lục lạc, huy chương, bùa đeo bằng kim loại, thủy tinh,
bằng đá.
Trong các di chỉ mộ táng, có t́m thấy được các xương sọ người và thú.
Hiên nay chưa được xác
định rơ chính xác nhân chủng người Phù Nam mà chỉ được các nhà khảo cổ
Việt Nam cho biết là
“có đặc điểm người Thượng (mà nhiều tác giả gọi là “Indonesian”) với rất
nhiều đặc điểm của
đại chủng Australoid” (tr. 55, (15)). Malleret cho rằng người Phù Nam ở
các thành phố cảng là
thuộc chủng Mă Lai Austronesian ở đầu thế kỷ 1 sau công nguyên. Hall và
Thurgood cho rằng
người Austronesian cư trú ở cảng Óc Eo và theo Vơ Sĩ Khải th́ các sọ t́m
thấy ở di chỉ Cạnh
Đền có lẽ là thuộc người Austronesian.
Ngược lại Vickery cho rằng cơ bản người Phù Nam là Mon-Khmer
Austroasiatic có thể thuộc
nhóm Môn (16) và chỉ ở các cảng gần biển có thể có người Austronesian
như Chăm, Mă Lai đến
cư trú do sự tiếp xúc buôn bán thương mại hàng hải giữa Phù Nam với
Austronesian hải đảo.
Qua thương mại giữa thế giới Ấn độ và vùng Đông Nam Á, người
Austronesian hải đảo có thể là
yếu tố chính làm thuận lợi sự du nhập mang văn hóa Ấn độ đến Phù Nam. V́
vậy theo Vickery
th́ ngoài các cảng buôn bán th́ đa số người Phù Nam là Môn-Khmer
austroasiactic.
Một số các đồng tiền t́m thấy ở Óc Eo có h́nh đền và mặt trời mọc lên
cũng được t́m thấy ở U-
Thong (Thái Lan) và Halin, Pegu (Pyu, Miến Điện). Hai nơi này cũng là xứ
sở của người Môn.
V́ thế, trái với Aymonier, Pelliot và Coedes cho là Phù Nam chủ yếu ở
nam Cam Bốt và Việt
Nam, Jean Boisselier cho rằng trung tâm của Phù Nam là U-Thong, ở phía
bắc trung điểm Thái
Lan ngày nay, trong khi Hoshino lại cho là trung tâm Phù Nam ở đông bắc
Thái Lan ngày nay
(17). Cả hai nơi này đều là xứ sở của người Môn- Dvaravati.
Miksic và Vickery cho rằng có thể là vùng hạ lưu châu thổ sông Cửu Long
chủ yếu là người
thuộc ngôn ngữ Mon-Khmer cư trú và sau đó tiếp xúc với thuyền buôn người
Austronesian (Mă
Lai, Java, Phi Luật Tân) và từ đó phát triển cơ cấu xă hội, tôn giáo,
kinh tế, văn hóa của Phù
Nam (16). Kinh tế sản xuất chủ yếu ở Phù Nam là trồng lúa gạo như thư
tịch Trung quốc đă cho
ta biết.
Về nghệ thuật các tượng với khuôn mặt h́nh thái có nét giống với nghệ
thuật Mon-Dvaravathi
hơn là phong cách Phnom Da, tiền Angkor. Vickery (17) cho rằng dân Phù
Nam có thể là Môn
thuộc chủng Austroasiatic có liên hệ mật thiết với người Khmer. Các hạt
chuỗi, ngọc, đồ trang
sức vàng, thiết, loại gốm ở Óc Eo rất giống với nghệ thuật Môn-Dvaravati
nhưng ở Chân Lạp th́
hoàn toàn không có.
V́ vậy ta có thể tạm kết luận, vùng đất Saigon-Đồng Nai được cư trú bởi
người Mạ, một tộc
thuộc hệ ngôn ngữ Mon-Khmer, và trong thời kỳ Phù Nam có ảnh hưởng lan
tỏa từ hạ lưu sông
Cửu Long, người Phù Nam đă có đến hay ít nhất ảnh hưởng đến vùng đất
này. Người Phù Nam,
cũng thuộc hệ ngôn ngữ Mon-Khmer, có văn hóa và tổ chức kinh tế xă hội
cao hơn. Và không
lâu sau đó đă được tiếp thay bởi người Khmer Chân Lạp. Người Khmer coi
người Mạ anh em ở
vùng phía trong miền đông Nam bộ cho đến cao nguyên Lâm Đồng là sơ khai.
Người Mạ thường
bị các tộc khác bắt làm tù binh, nô lệ trong các trận bắt đánh nhau, v́
thế trong ngôn ngữ họ có từ
“bắt Mạ” để chỉ chiến tranh, đánh nhau.
Giai đoạn vào cuối thế kỷ thứ 5, là lúc vương quốc Champa bắt đầu có ảnh
hưởng lan rộng từ
miền trung và nam trung bộ xuống miền đông Nam bộ. Từ đó giữa Phù Nam và
Champa đă có
những xung đột tranh chấp xảy ra. Thư tịch Trung quốc có nói đến sứ giả
Phù Nam đă kêu gọi
nhờ Trung quốc giúp đỡ đánh Champa nhưng bị từ chối. Chiến tranh giữa
hai dân tộc, một có
nguồn gốc là Austroneasian hải đảo (Champa) và một là thuộc Mon-Khmer
trên lục địa (Phù
Nam-Chân Lạp-Khmer Angkor), nhưng có cùng một nền văn minh Ấn hóa đă xảy
ra liên tục mà
cao điểm là trong thời kỳ Angkor. Đông Nam bộ trở thành vùng độn giữa
hai thế giới
Austronesian Champa và Mon-Khmer.
Cuối cùng, vào thế kỷ 17 th́ bắt đầu có lưu dân người Việt và Hoa đến
vùng đất Saigon-Đồng
Nai.
Thời kỳ Chân Lạp, đế quốc Angkor và vương quốc Champa
Vết tích của văn hóa Chân Lạp-Angkor và Champa t́m được ở nhiều nơi
trong vùng Saigon Gia
Định xưa. Ở ngay Saigon, tại góc đường Lê Hồng Phong và Trần Hưng Đạo
trước đây có lộ ra
các tấm đan bằng sa thạch hay phiến thạch và năm 1940 Malleret đă khai
quật địa điểm này. Ông
đă phát hiện một bức tường xây bằng gạch cở lớn và một pho tượng nhỏ
bằng đồng của một
nhân vật qú gối, hai tay nâng chậu lớn đầu đội mũ h́nh chóp, y phục
ngắn có sọc theo phong
cách Baphuon thuộc thế kỷ 11 thời kỳ Angkor (19).
Ở chùa Bửu Sơn, Biên Ḥa có một tượng Champa Vishnu bốn tay bằng đá, tạc
trong tư thế ngồi,
lưng dựa vào một phiến đá h́nh ṿng cung đỉnh nhọn có khắc 9 ḍng chữ
Champa cổ nói về
chiến công của hoàng tử Nauk Glaun Vijaya (con của Sri Jaya Simhavarman)
đánh thắng người
nước Việt (Yvan) và chiếm nước (nagara) Brah Kanda (19) (20). Hoàng tử
đánh thắng nhiều
trận, trở về vương quốc Champa vào năm (?) caka, xây tượng
Tribbhuvană-krănta này từ chiến
lợi phẩm sau khi thắng người Khmer (Kvir) (chú thích: ḍng chữ về năm
thuộc lịch caka không
đọc rơ, năm theo lịch caka sau dương lịch 78 năm). Đây là một bia kư
quan trọng, giúp vào nổ
lực của các nhà khảo cổ và sử học trong sự xác định các triều vua trong
lịch sử Champa, đối
chiếu với sử liệu Việt Nam và Trung Quốc.
Niên đại của tượng có lẽ vào cuối thế kỷ 14 (sử liệu theo Coedes cho
biết hoàng tử Nauk Glaun
Vijaya lên ngôi năm 1400 với vương hiệu Vira Bhadravarman, tức Ba Đích
Lai, và sau này là
Indravarman VII) (19) (21). E. Aymonier cho là Brah Kanda là tên gọi
nước Chân Lạp xưa và
niên đại trong ḍng chữ là 1282 caka (1360 A. D) (nếu như Aymonier đúng
th́ thời kỳ này
tương ứng với Chế Bồng Nga và hoàng tử Nauk Glaun Vijaya là vua Chế Bỗng
Nga sau này chứ
không phải Indravarman VII) (20)
Ngoài ra ở chùa Giác Quan (tổng B́nh Trị, Gia Định nay thuộc B́nh Thạnh)
có tượng đá sư tử
theo phong cách Chăm đứng với tư thế tấn công, tượng hiện nay được lưu
trữ ở viện bảo tàng
Saigon.
Các di tích Chân Lạp-Khmer và Champa ở răi rác nhiều nơi quanh Saigon
vùng miền đông nam
bộ cho thấy đây là vùng tranh chấp và đệm giữa vương quốc Champa và
Khmer. Quả thật trong
lịch sử đă có những hồi chiến tranh kịch liệt giữa hai dân tộc. Năm 1145
vua Suryvarman II,
người xây dựng Angkor Wat, mang quân qua đường theo ngă vùng đông nam bộ
đánh Champa
chiếm thành phố Vijaya (Trà bàn, B́nh Định ngày nay), tiến lên đến bắc
Champa phá hủy đền
đài ở Mỹ Sơn và chiếm đóng Champa cho đến năm 1149 th́ vua Champa Jaya
Harivarman ở
Pandugara mới thu phục lại được xứ sở. Năm 1177 th́ đến phiên Champa
đánh vào vương quốc
Angkor, vua Champa Jaya Indravarman IV mang quân và chiến thuyền theo
ngược sông Mekong
vào Biển Hồ Tonlé Sap đánh úp Yasodharapura (“thành phố thiêng” hay “thủ
đô”) ở vùng
Angkor, giết vua Khmer và cướp phá thành phố. Trên tường của đền Angkor
Thom (Bayon) vẫn
c̣n h́nh khắc các chiến thuyền cùng binh lính Champa đánh thủy chiến với
quân Khmer.
Không lâu sau đó, năm 1190, vua Khmer Jayavarman VII, người xây Angkor
Thom, đă chỉ định
một hoàng tử Champa tên là Vidyanandana chỉ huy quân Khmer mang đi đánh
Champa và đă
chiếm được Vijaya và không lâu sau năm 1203 cả Champa. Champa bị cai trị
như một tỉnh của
đế quốc Khmer Angkor cho đến năm 1220 th́ Champa t́m lại độc lập. Thời
kỳ này cũng là thời
kỳ mà văn hóa kiến trúc Khmer có ảnh hưởng nhiều đến nghệ thuật Champa.
Chiến tranh triền
miên giữa Champa và Angkor cũng là một nguyên nhân làm suy yếu thêm
Champa và cuối cùng
dẫn đến mất nước và diệt phong với Đại Việt sau này.
Châu Đạt Quan, trong đoàn sứ giả Mông Cổ, đi đến vương quốc Angkor Khmer
vào thế kỷ 13.
trong quyển “Chân Lạp phong thổ kư” (24) (25) đă để lại cho ta một vài
thông tin về vùng đất
gần Saigon và ở Nam bộ khi ông đi tàu đến Angkor qua Chen-P’u (Chân Bồ,
tức là Bà Rịa-Vũng
Tàu ngày nay) đến cửa sông Cửu Long và từ đó đi ngược ḍng đến Biển Hồ
và tới Angkor.
“.. Từ đó, rời Chiêm Thành, khi thuận gió, trong mười lăm ngày là có thể
tới Chen-p‟u (Chân Bồ
(25), theo P. Pelliot là Vũng Tàu, Bà Rịa ngày nay), nơi mà biên giới
của Cambodia bắt đầu. Từ
Chân Bồ, đi theo hướng tây nam, chúng tôi băng qua biển K‟un-lun (biển
Côn Sơn) và tới vùng
châu thổ của một con sông (Mekong). Có vài chục cửa sông đổ ra biển,
nhưng chỉ có cửa sông
thứ tư là cho phép ta lưu thông dễ dàng, c̣n tất cả các cửa sông khác
đều có các cồn cát mà các
tàu lớn không thể băng qua được. Trong mọi hướng th́ ta chỉ thấy các đợt
sóng cao, các cây bị
chết, cát vàng, và các sậy màu lợt; rất khó biết được phương hướng và
ngay các thủy thủ cũng
gặp khó khăn để chấm định được đúng luồng nước.”
“.. Sau khi đi qua khỏi biên giới ở Chân Bồ (Chen-P'u, Vũng-tàu hay
Bà-Rịa), ta thấy mọi nơi
um tùm các cây đan chen nhau trong khu rừng thấp, những cửa sông rộng
lớn của con sông
(Mekong) chạy dài hàng trăm lí, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và
cây mây leo quanh
dài tạo thành nhiều chỗ trú ẩn xum xê. Tiếng chim hót và tiếng thú vật
kêu vang liên tục khắp
nơi. Ở khoảng nửa đường trong chuyến đi vào từ cửa sông, th́nh ĺnh
người ta mới thấy vùng đất
mở ra với cánh đồng hoang, không thấy có một gốc cây nào. Khắp nơi trong
tầm mắt có thể nh́n
được, không có ǵ ngoài cỏ kê đầy rẫy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tựu
họp từng bầy ăn cỏ
trong vùng nầy. Đi tiếp theo đó, là vùng đất cao dần trăi dài hàng trăm
lí. Từ các khúc nối của
các cây cây tre nầy có gai mọc và măng tre th́ lại có vị rất đắng. Ở
chân trời chung quanh bốn
phía có các dăy núi cao.”
Qua mô tả trên của Châu Đạt Quan vào thế kỷ 13 th́ Nam bộ lúc này là
vùng rừng rậm nhiều
thú, chim. Cánh đồng hoang bát ngát rộng lớn tận chân trời với hàng ngàn
trâu rừng ăn cỏ. Và dĩ
nhiên có nhiều cọp săn mồi, voi rừng và con người th́ thưa thớt. Nói về
người thổ dân sống ở
Chân Lạp (và Nam bộ), Châu Đạt Quan cho ta biết (24)(25):
“Có hai loại người thổ dân: loại đầu là những người hiểu ngôn ngữ của xứ
Chân Lạp và họ
được bán làm nô lệ trong các thành phố. Loại hai là những người sống
hoang dă từ chối nền văn
minh và không thông hiểu ngôn ngữ xứ sở Chân Lạp. Họ không có nhà cửa,
dẫn gia đ́nh lang
thang trong vùng núi đội các b́nh thực phẩm bằng đất sét trên đầu của
họ. Nếu họ t́m thấy một
con thú hoang, họ sẽ giết nó bằng cung tên hay cây giáo, nhóm lửa bằng
cách đánh các viên đá
vào nhau, nấu con thú, cùng nhau ăn nó, và sau đó tiếp tục đi lang
thang. Bản chất của họ là
hung dữ, và các thuốc độc chất của họ rất nguy hiểm. Ngay cả trong nhóm
của họ, họ giết lẫn
nhau là thường t́nh. Trong vùng gần với văn minh, trong số họ có người
chuyên tâm vào trồng
cây bạch đậu khấu, bông vải và dệt vải. Tuy vậy vải của họ trông c̣n thô
với các kiểu mẫu kỳ lạ
đạp mắt.”
Các người hoang dă có thể được mua để dùng làm nô lệ đầy tớ trong nhà.
Các gia đ́nh giàu có
có thể có hơn một trăm đầy tớ, c̣n những gia đ́nh có phương tiện khiếm
tốn hơn th́ hài ḷng với
số mười hay hai mươi nô lệ; chỉ có những người nghèo th́ không có đầy tớ
nào. Những người
hoang dă này bị bắt ở các vùng núi hoang dại và họ thuộc vào một loại
chủng tộc hoàn toàn
khác; họ được gọi là “Chuang” (“Chàng” nghĩa là kẻ trộm cướp theo Lê
Hương là tiếng của
người Hoa phiên âm lại tiếng thổ ngữ Chân Lạp (25)). Khi họ được mang
đến thành phố, họ
không dám ra khỏi nhà chủ lộ diện trên đường phố. Những người khốn khổ
này rất bị khinh miệt
đến nổi, khi trong một cuộc căi cọ, một người Chân Lạp bị đối thủ gọi là
“Chàng”, th́ đó là một
sự sỉ nhục nặng nề gây căm phẩn tận đáy tủy.
Khi c̣n trẻ và khỏe mạnh, nô lệ có thể có giá một trăm mảnh vải; khi già
và yếu, họ chỉ c̣n giá
ba hay bốn mươi mảnh vải. Họ chỈ được nằm và ngồi xuống ở dưới nhà sàn
mà thôi. Khi được
lên trên nhà để làm việc, nhưng trước hết họ phải quỳ, cuối xuống đất,
hai tay đan lai tỏ vẽ cung
kính. Họ gọi chủ nhân của họ là “pa-t‟o (cha) hay mi (mi: mẹ). Nếu họ
phạm lỗi lầm, họ bị
đánh. Khi bị trừng phạt đánh, họ cúi đầu xuống nhận đánh mà không dám
làm một cử động nhẹ
nhàng nhất.”
Các người đàn ông và đàn bà nô lệ ăn ở với nhau, nhưng không bao giờ
nghe thấy chủ nhân nào
lại ngủ với một nữ nô t́ bao giờ. Nếu t́nh cờ có một người Trung Hoa,
đến cư trú lâu năm tại xứ
sở đó, v́ thèm khát và do đó có các quan hệ với một phụ nữ nô lệ và việc
này được chủ nhân của
cô ta biết được, th́ vị chủ nhân từ đó trở đi sẽ cự tuyệt không ngồi
xuống chung cùng với người
Trung Hoa bởi người đó đă tự hạ ḿnh với một người dă man. Và nếu một
người nô lệ mang thai
bởi một người lạ đến trọ ở nhà, th́ chủ nhân không cần biết đến ai là
người cha, bởi v́ người mẹ
không có vị trí ǵ trong xă hội. Ông chủ chỉ thấy lợi là đứa bé như một
nô lệ khác cho gia đ́nh
của ông ta. Khi một nô lệ chạy trốn và bị bắt lại, mặt của anh ta bị xâm
bằng một dấu màu màu
xanh da trời, them nữa một ṿng sắt được buộc quanh cổ anh ta, hay tay
và chân anh ta bị xiềng
lại.”
Một trong những người nô lệ mà Chu Đạt Quan tả trên rất có thể là người
Mạ. Người Mạ ở miền
Đông Nam bộ và vùng Tây nguyên thường bị các dân tộc khác đánh cướp và
bắt làm nô lệ.
Người Chăm, Chân Lạp và ngay cả Stieng thường tổ chức những trận cướp
bóc, đánh vào vùng
Tây Nguyên và chung quanh nơi người Mạ sinh sống để bắt nô lệ.
Trước khi lưu dân người Việt đến miền Nam, người Mạ sống ở lưu vực sông
Đồng Nai và vùng
phụ cận, từ Lâm Đồng, Long Khánh, B́nh Thuận, Biên Ḥa, Đồng Nai đến Bà
Rịa-Vũng Tàu và
Cần Giờ. V́ thế khi đến vùng đất mới, rừng rậm phía nam B́nh Thuận, ở
đại phận Bà Rịa và
Cần Giờ, lưu dân Việt cũng đă xử dụng họ như nô t́, đầy tớ như trong Phủ
Biên Tạp Lục của Lê
Quí Đôn có ghi (6) là từ các cửa biển như Cần Giờ, Xoài Rạp đi vào toàn
là những đám rừng
hoang vu đầy cỏ rậm, mỗi đám rừng có thể rộng hơn ngh́n dặm, nhà Nguyễn
cho dân được tự
nhiên chiếm đất, cho họ thâu nhận những người Mọi từ trên đầu nguồn
xuống để mua làm đầy
tớ, đứa ở, sai khiến, hầu hạ.
Ngày nay khu vực Saigon và Nam bộ là vùng dân cư đông đúc, do khai hoang
từ thế kỷ 17, rừng
rậm đă biến mất, các thú như voi, cọp, tê giác, hươu nai lúc trước có
mặt khắp Nam bộ, cá sấu,
cá heo sông trên sông Đồng Nai,… đă tuyệt chủng. Người bản sứ đă biến
mất ở đồng bằng, chỉ
c̣n sót lại ở thượng lưu sông Đồng Nai và Lâm Đồng và rừng cuối cùng ở
nam Cát Tiên, mặc dù
là vườn quốc gia, trên thượng lưu sông Đồng Nai c̣n sót lại vài con tê
giác cuối cùng của Đông
Dương cũng bị đe dọa tuyệt chủng.
Tổng luận
Saigon là giao điểm của vùng Đông Nam bộ và Tây Nam bộ và cũng là vùng
giao thoa của hai
chủng tộc và nền văn minh lớn ở Đông nam Á: Môn-Khmer với nền văn minh
Phù Nam-Chân
Lạp-Angkor có nguồn gốc lục địa và Austronesian Chăm với nền văn minh
Champa có nguồn
gốc hải đảo hàng hải. Trong hai chủng tộc và nền văn minh trên th́ ảnh
hưởng của Môn-Khmer
và Angkor có phần mạnh hơn.
Người tiền sử đă đến vùng đất Nam bộ và Tây nguyên cách đây khoảng 40000
năm (BP). Tuy
không có di tích hang động cư trú như trong các vùng khác ở Đông Nam Á
nhưng di tích cự
thạch Hàng G̣n và các sọ cổ t́m được ở Cần Giờ, ở hạ lưu sông Cửu Long
như An Sơn, G̣
Tháp, Óc Eo cho thấy sinh hoạt thời tiền sử ở vùng Saigon và Nam bộ. Các
sọ cũng cho thấy họ
rất gần gủi với loai h́nh sọ người Thượng (Stieng, Mạ) hiện nay, chứng
tỏ người Stieng và Mạ là
hậu duệ của cư dân tiền sử vùng Nam bộ và địa bàn của họ xưa kia tản
rộng từ Đông Nam Bộ
đến đồng bằng sông Cửu Long.
Từ khi lưu dân người Việt bắt đầu từ thế kỷ 17 ồ ạt di dân xuống vùng
Đông và Tây Nam bộ,
người Mạ dần bị biến mất, dân số từ đa số đến thiểu số và mất hẳn bắt
đầu từ đồng bằng ở Bà
Rịa, Cần Giờ đến Biên Ḥa–Đồng Nai do môi trường sống của họ chủ yếu là
rừng, thú đă bị khai
hoang phá hủy bởi lưu dân từ phương bắc xuống mang dấu ấn văn hóa
Việt-Trung.
Hiện nay họ c̣n lại một số ít sống ở vùng thượng nguồn sông Đồng Nai và
tỉnh Lâm Đồng,
nhưng nguy cơ bị hủy diệt của họ cũng không kém xưa mà họ đă đối diện
lúc lưu dân đến đồng
bằng vào thế kỷ 17. Rừng tiếp tục bị tàn phá, dân thiên cư người Việt
tiếp tục lan tỏa đến định cư
càng nhiều trên Tây nguyên. Làng, bản, văn hóa bản sứ càng bị xâm nhập
và sức ép ảnh hưởng
bên ngoài càng tăng. Phá rừng, khai hoang, khai thát quặng bauxite, đô
thị hóa nhanh chóng
huyện, xă… và v́ thế sự tuyệt chủng của người bản
xứ cuối cùng c̣n sót
lại của Nam bộ chỉ là
vấn đề thời gian không lâu.
Tham khảo
(1) Louis Malleret, Les fouilles d'Oc-èo (1944). Rapport préliminaire,
Les fouilles d'Oc-èo
(1944). Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, 1951, Vol. 45,
No. 45-1, pp.
75-88.
(2) George Dürrwell , Ma chère Cochinchine, trente années d'impressions
et de souvenirs,
février 1881-1910, E. Mignot (Paris), 1911.
(3) Ludovic-Henry Jammes, Souvenir du pays d’Annam, Challamel (Paris),
1900.
(4) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale,
ancienne et moderne de
l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine
Cabaton, Societé
d’editions, Geographiques, Maritimes et Coloniales, Paris, 1935
(5) Henri Parmentier, Vestiges megalithiques à Xuân-Lộc, Bulletin de
l'Ecole française
d'Extrême-Orient, 1928, no. 3-4, p. 479-485,
http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k934010/f511.tableDesMatieres
(6) Lê Qúy Đôn, Phủ biên tạp lục, dịch : Ngô Lập Chí, Khoa Xă Hội Truờng
Đại
Học Tổng Hợp Hà Nội. 1959,
http://www.vietnamvanhien.net/phubientapluc.html
(7) B́nh Nguyên Lộc, Lột trần Việt ngữ,
http://www.binhnguyenloc.de/pages/NghienCuu/LotTranVietNgu/LotTranVietNgu_00.h
tml
(8) B́nh Nguyên Lộc, Việc măi nô dưới ṿm trời Đông Phố và chủ đất thật
của vùng Đồng
Nai, tập san Sử Địa, Sài G̣n, số 19-20, 1970.
(9) James Khoo, Art and Archeology of Fu Nan, ed. by J. Khoo, Bangkok
2004.
(10) Michael Vickery, Funan reviewed: Deconstructing the Ancients,
Bulletin de l' Ecole
Francaise d' Extreme Orient, 101–143, 2003, 2004.
(11) Louis Malleret, L'Archéologie du Delta du Mékong, Part 1.
L’Exploration Archéologique et Les Fouilles d’Oc-Èo, Paris, École
Française d'Extrême-
Orient, 1959
(12) Louis Malleret, L'Archéologie du Delta du Mékong, Part 2.
La Civilisation Matérielle d’Oc-Èo. 2 vols., Paris, École Française
d'Extrême-Orient,
1960.
(13) Louis Malleret, L'Archéologie du Delta du Mékong, Part 3.
La Culture du Fou-Nan. 2 vols, Paris, École Française d'Extrême-Orient,
1963.
(14) The Virtual museum of Khmer art, The Wintermeier collection,
http://www.funan.de/collection.php?lang=en
(15) Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Vơ Sĩ Khải, Văn hóa Óc Eo, những khám
phá mới, Nxb
Khoa học Xă hội, 1995.
(16) Dougald J. W. O'Reilly, Early civilizations of Southeast Asia,
AltaMira Press,
Plymouth, 2007
(17) Michael Vickery, Deconstructing the ancients, Bulletin de L’école
francaise d’Extrême-
Orient, 2003, Volume 90, Numéro 90-91, pp. 101-143.
(18) Lê Trung Khả, Sài G̣n thời tiền sử, trong “Địa chí văn hóa thành
phố Hồ Chí Minh”, tr.
13-77, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
(19) Vơ Sĩ Khải, Đất Gia Định thế kỷ 7 đến thế kỷ 16, trong trong “Địa
chí văn hóa thành
phố Hồ Chí Minh”, tr. 81-124, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
(20) Antoine Cabaton, L’inscription Chame de Bien-Hoa, Bulletin de
L’école francaise
d’Extrême-Orient, 1904, Vol. 4, No. 4, pp.687-690.
(21) G. Coedes, The Indinanized states of South East Asia, East West
Center Press,
University of Hawai, Honolulu, 1968.
(22) Kevin Pope, John Terrel, Environmental setting of human migrations
in the circum-
Pacific region, Journal of Biogeography, 2008, 35, pp.1-21.
(23) Nguyễn Đức Hiệp, Người cổ Đông Nam Á,
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=5333&LOAIID=1
7&LOAIREF=5&TGID=869
(24) Chou Ta-Kuan, The Customs of Cambodia, transl. by John Gilman
d'Arcy Paul,
Bangkok: The Siam Society 1993.
(25) Lê Hương, Chân Lạp phong thổ kư, 1973,
http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,7478
Nguyễn Đức Hiệp
Post ngày:
12/08/18 |