Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
Băi bể nương dâu
 
Những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xă hội, thường được người Việt ví với băi bể nương dâu. Thí dụ:
"Phút giăy băi bể nương dâu
Cuộc đời là thế biêt hầu nài sao. "
(Lê Ngọc Hân, "Ai tư văn" )
 
Các từ trong thành ngữ băi bể nương đâu xem ra đều quen
thuộc và dễ hiểu. Nhưng tại sao sự tổ hợp, giao kết giữa các từ băi, bể, nương, dâu lại nói nên sự thay đổi lớn của trời đất, của cuộc đời? Số là, thành ngữ băi bể nương dâu bắt nguồn từ thành ngữ gốc Hán "thương hải tang điền" liên quan tới câu chuyện tiên Phật được lưu truyền rộng răi trong dân gian.
 
Tương truyền rằng, ở thời Đông Hán có ông Phương B́nh, học giỏi tài cao, thi dỗ đạt và được bổ nhiệm làm quan. Sau một thời gian thi thố với đời, Phương B́nh đă bỏ quan đi tu. Ông đắc dạo và trở thành Phật. Một lần Phật Phương B́nh giáng
xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán) cho mời tiên nữ Ma-Cô đến. Ma-cô bảo với Phương B́nh rằng: "Tiếp thị dĩ lai dĩ kiến Đông hải tam vi tang điền", nghĩa là từ khi hầu chuyện với ông, tôi đă thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu. Câu chuyện này được lưu truyền trong dân gian và được người đời
chắt lọc lấy cái tinh chất để phản ánh sự đổi thay của trời đất và cuộc sống. Trong thơ văn Trung Quốc, h́nh ảnh băi bể nương dâu trở thành tứ cho nhiều câu thơ, bài thơ nổi tiếng, ví như trong thơ Tô Thức đời Tống có câu "Bất kính bột hải tang điền biến" có nghĩa là: "Không sợ bể Đông biến thành ruộng dâu. Cũng nhờ câu chuyện trên mà dần dà trong tiếng Hán xuất hiện thành ngữ thương hải tang điền. Thành ngữ này được mượn vào tiếng Việt theo lôi can-ke (đồ họa), nghĩa là mượn ư dịch lời. Về ư nghĩa băi bể nương dâu thường nói dấn sự đổi thay thế sự với bao nỗi nuối tiếc, ngậm ngùi. Thí dụ:
"Khóc v́ nỗi thiết tha sự thế
Ai bày tṛ băi bể nương dâu."
(Nguyễn Gia Thiếu, "Cung oán ngâm khúc )
 
Trong cách dùng, các nhà văn, nhà thơ thường rút gọn cái bể
nương dâu thành bể dâu hay đâu bể. Dạng thức này sỏ dĩ tồn tại được v́ nó vẫn có khả năng khiến cho người đọc liên hội tới các điển tích dă nói đến ở trên:
 
"Trải qua một cuộc bể dâu
Nhng điều trông thấy mà đau đớn ḷng
(Nguyễn Du, "Truyện Kiều" )
"Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà đ chị riêng oan một ḿnh"
(Nguyễn Du, "Truyện Kiều" )
 
Gần nghĩa với thành ngữ băi bể nương dâu trong tiếng Việt c̣n có các thành ngữ vật đổi sao dời, sông cạn đá ṃn. Các thành ngữ này đều nói về sự thay đổi lớn lao của cuộc đời, của sự thế, nhưng không có sắc thái ngậm ngùi, nuối tiếc như
thành ngbăi bể nương dâu. Về phạm vi sử dụng, các thành ngữ vật đổi sao dời, sông cạn đá ṃn thường chỉ nói về sự thay đổi của thiên nhiên, của trời đất trong sự so sánh với cái bất biến của tấm ḷng chung thủy. V́ thế, ta thường gặp trong những lời thề ước:
"Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh"
:(Nguyễn Du, "Truyện Kiều" )
"Dù cho sông cạn đá ṃn
C̣n non c̣n nước vẫn c̣n thề xưa"
(Tản Đà, "Thề non nước" )
 
 

(Trích từ "Kể chuyện Thành ngữ, Tục ngữ" - Hoàng Văn Hoành - Viện Ngôn Ngữ Học)

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18