|
- Bán cá mũi thuyền
-
- Mỗi lần thuyền đánh cá
về bến, dân buôn cá
đổ xô xuống để
mua cá tươi. Cá cứ
đọng
bằng rổ, xếp dầu mũi
thuyền. Dân mua cá đứng
trên bờ, mặc cả với chủ thuyền.
Thỏa thuận được
giá th́ chuyển cá từ mũi thuyền lên bờ. Bên nhận cá, bên lấy
tiền. Người
đánh cá quay thuyền
rời bến. Người mua
cá gánh cá lên chợ. Mua cá ở thuyền rẻ hơn
so với ở chợ.
- Cùng một phần cá được
chia, người khéo
bán, hoặc cả gan giữ cá, chờ lên thuyền mới bán, có khi tiền thu
được bằng cả hai
phần được chia. Người
non gan bán ngay trên thuyền, thu
được ít hơn.
"Bán cá mũi thuyền" là thành ngữ chỉ hành
vi bán cái ǵ đó nóng vội,
thiếu cân nhắc, rẻ, và đă trao tay là xong, dứt khoát, không trả
lại.
- Gần
nghĩa với
"bán cá mũi thuyền" là thành ngữ
đá
qua be
thuyền tức là bán cá hoặc trao
đổi
hàng hóa qua be
thuyền?
để
chỉ sự trao
đổi vội
vàng, chênh lệch giá trị hoặc t́nh trạng phủi tay cho xong việc.
-
-
- Bán trời không v
ăn
tự
-
- Thành ngữ bán trời không v
ăn
tự là một thành ngữ
có cấu trúc đơn giản,
trong đó bán là
động
từ làm trung tâm, c̣n trời là danh từ chỉ
đối
tượng
để
bán, và không văn
tự là bổ tố chỉ phương
thức (cách bán). Ư nghĩ của thành ngữ này
được
h́nh thành trên sự giao kết và tính biểu trưng
của hai thành phần phụ chỉ
đối tượng
và cách thức tương
ứng với những hướng
khai thác khác nhau của
dân gian.
- Khi nói trời là nói tới cái ǵ to lớn, con
người
không thể nắm bất được,
lại càng không thể đem
bán, đổi chác dược.
Việc bán trời là không có thực. Hơn
nữa, giả sử có chuyện "bán trời" thật, tức là
bán một đối
tượng
to lớn, th́ kẻ mua người
bán phải có những thỏa thuận, cam kết cẩn thận bằng giấy tờ (văn
tự).
Đến cái
nhà, cái cửa, khi mua bán c̣n phải có
đủ văn
khế, văn tự nữa là
trời. Mua những
đồ
vật lớn, có giá trị cao th́ tự người
(Trích từ "Kể chuyện Thành ngữ, Tục ngữ"
- Hoàng Văn Hoành - Viện Ngôn Ngữ Học) |