Bài này bàn về một số câu ca dao. Trước hết, chúng ta hăy bàn tới câu:
Đất bụt mà ném chim giời
Chim giời bay hết, đất rơi vào chùa!
"Đất
bụt" là
thứ đất sét rất tốt, rất nhuyễn mà người ta dùng để đắp, nắn tượng Bụt (Phật),
hay là ông táo (ngoài Bắc cũng gọi là ông bụt,
ông ba bụt để thổi cơm). Bụt do chự Phạn Bouddha, có nghĩa là biết.
Người Trung Hoa phiên dịch là Phật đà.
Phần nhiều, những câu phong dao có một nghĩa đen và một hay nhiều nghĩa
bóng. Câu trên rất dễ hiểu về nghĩa đen, và phát xuất từ xứ Bắc, với
những từ ngữ đặc biệt ngoài ấy là "bụt" là "giời" (tức
Phật và trời trong Nam). Về nghịa bóng, câu này ngụ ư: đất bụt dù có tốt
đến đâu cũng không làm tổn thương con chim trời được; quyền năng của Bụt
không thể sánh được với Trời; Bụt là người, vẫn ở dưới Trời, chịu quyền
uy của Thượng đế.
Nói về đất bụt mà ném chim giời, cũng nên ghi chú thêm bên cạnh là các
dân tộc trong khối văn minh Á - Úc (Austroasiatique) đều dùng ống đồng,
thổi những viên đạn tṛn bằng đất sét nung để săn chim.
Bây giờ chúng ta xét bàn câu:
Ăn sung nằm gốc cây sung,
Lấy nhau th́ lấy, nằm chung không nằm.
Câu này phát xuất từ xứ Huế, miền Trung. Câu sau có một chữ khác biệt:
Lấy anh th́
lấy, nằm chung không nằm.
Sung (sycomore) là một loại cây có trái mọc từ thân, từ gốc tới ngọn.
Người ta không cần đứng, không cần với, mà nằm ở gốc cây cũng có thể hái
được trái sung. Không với tay mà hái, th́ chờ nó rụng cũng được, may ra
cũng vào mồm luôn! Đó là thái độ của những người lười biếng, được diễn
tả
trong câu:
Chờ cho sung rụng nằm dài gốc cây!
Đó cũng có thể là thái độ trùm chân, bất hợp tác, chủ trương thụ động đề
kháng đối với một quyền lực. Câu này phát xuất từ ḷng căm hờn, ư chí đề
kháng nền bảo hộ của Pháp đă ép buộc dân ta phải chịu đựng ba hiệp ước
5.6.1862, 15.5.1874 và 6.6.1884. V́ yếu thế, bất đắc dĩ, triều đ́nh phải
kư với Pháp ba hiệp ước nói trên, ví như một cuộc hôn nhân cưỡng ép,
không thương mà phải lấy, lấy trên giấy tờ, nhưng mà nhất định không
chịu nằm chung!
Cây sung có nhiều liên hệ với cụ Phan Bội Châu (1867-1940) kể từ tháng
7.1925, cụ Phan bị thám tử Pháp bắt cóc tại ga Bắc Trạm, gần Thượng Hải,
rồi giải về Hà Nội. Trong phiên ṭa 23.11.1925, cụ Phan lănh án tử h́nh.
Nhưng cao trào của nhân dân đ̣i ân xá, toàn quyền Alexandre Vareme,
thuộc đảng SFIO, phải nhượng bộ, cho đưa cụ về giam lỏng tại Huế. Từ đó,
cụ Phan sống những ngày tàn trong một ngôi nhà nhỏ ở xóm Bến Ngự, cho
đến 19.9 năm Canh Th́n 29.10.1940) th́ từ trần, thọ 74 tuổi. Trong thời
gian 15 năm, cụ Phan Sào Nam đă sống nơi đây, chia th́ giờ giữa căn nhà
nhỏ với con thuyền đậu bến nhà vua xưa, núp bóng cây sung già cỗi, cho
nên có lẽ từ nơi này đă phát xuất câu phong dao nói trên. Nơi bến Ngự,
bên kia sông là chùa Linh Quang, các nhà sư tụng kinh gơ mơ sớm chiều,
đem lại sự lắng dịu trong ḷng chí sĩ, từ đó cho đến lúc ĺa đời:
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,
Thiên hạ hà nhân bất thức quân?
Bảy mươi tư tuổi, trót phong trần
Nay được bạn mới tinh thần hoạt hiện
Những ước anh em đầy bốn biển
Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian!
(Sào Nam)
B́nh sinh cụ Phan Sào Nam ưa sống giản dị và đạm bạc, cơm rau qua ngày,
vui với chén trà thần, câu thơ thánh, ưa hút điếu cày mà cụ đă diễn tả
như sau:
Đầu tṛn thân cứng đủ tam tài
Ngoài kín trong đầy vạn sự hay!
Ngoài ra, cây sung cỗi và chiếc thuyền nan của ông già bến ngự trong
mười mấy năm trời vẫn là h́nh ảnh cổ điển dính liền với sông núi thần
kinh. Cây sung tượng trưng cho ấn sĩ là v́: hoa ẩn núp bên trong trái,
cho nên gọi là giống ẩn hoa (crypto-flora), thấy trái mà chẳng thấy hoa,
phải chẻ làm đôi mới thấy, cho nên người Trung Hoa gọi là vô hoa quả,
ngược lại với các giống hoa khác, có hoa trước rồi mới thành quả sau,
gọi là hiển hoa (phanéro-flora).
Chúng ta c̣n t́m thấy trên sung trong một thành ngữ nữa là: “Ăn quả vả,
trả quả sung. Quả vả to bằng nắm tay, thịt dầy, quả sung nhỏ và tṛn.
Tây phương gọi là figue dễ Roxburg, c̣n quả sung nhỏ và tṛn, Tây phương
gọi là figue sycomore, cả hai thuộc họ Ficus, cũng như cây đa (banian),
cây si, cây bồ đề mà đức Thích Ca ngày xưa ngồi tham thiền 49 ngày và
giác ngộ. Cây này người Ấn gọi là pippal, khoa học thực vật gọi là Ficus
religiosa. Câu Ăn quả vả,
trả quả sung, ngụ ư
rằng: ăn th́ nhiều mà trả th́ ít. Thành ngữ quả vả và quả sung cũng c̣n
ngụ ư: vay trả không tương xứng, trong hai người, có một người khôn vặt,
và một người dại khờ, nên lấy đó làm kinh nghiệm, chớ dại lần thứ hai,
và cũng chẳng nên giở thói tiểu xảo, khôn vặt với nhau!
Bây giờ chúng ta xét tới câu thứ ba:
Bao giờ đường ngọt nước cay
Gánh dừa lon gạo thầy tăng ở tù.
Câu này phải sửa lại như sau mới đúng:
Bao giờ nước ngọt đường cay,
Gánh vừa lon gạo thằng tây ở tù.
Câu này có tích cách sấm kư như nhau:
Bao giờ sen mọc biển đông,
Cha con nhà Nguyễn bế bồng nhau đi.
Ám chỉ thời kỳ Nhật đảo chính Pháp ngày 9.3.1945, bắt nhốt quan, dân Tây
(thầy tăng nói lái là thằng tây).
Chúng ta c̣n nhớ một câu nữa, cũng có tính cách sấm kư:
trên ch́
Voi đi trên giấy, hết kỳ thầy tăng!
Cũng vào thời kỳ tiền chiến đó, nhà cầm quyền Pháp ở Đông Phương đúc bạc
cắc in h́nh bó lúa, bạc giấy 500 đồng có h́nh con voi, đó là những hiện
tượng báo hiệu sự sụp đổ của nền cai trị Pháp, chấm dứt thời kỳ thầy
tăng là thằng tây! V́ không dám nói rơ, sợ Tây bắt, phải nói lái trớ đi.
Những loại sấm kư này phát xuất trong Nam, với sự xuất hiện của các giáo
phái Ḥa Hảo và Cao Đài, Phật Thầy Tây An, những bài truyền giáo bí ẩn
của Huỳnh Phú Sổ, những bài cầu cơ của đạo Cao Đài, được các chức sắc
truyền bá trong dân gian như những sấm truyền qua các thời đại.
Chúng ta chưa giải bàn bốn chữ nước ngọt đường cay, và gánh vừa lon gạo,
mà theo tôi th́ đó là thời kỳ xuất hiện chai nước ngọt xá xị, uống vào
the the cái lưỡi, v́ có nhiều hơi ép x́ bọt, hơi cay cay v́ chất
salsepareille (xá xị, tiểu phục linh, thuộc họ liliacées), có tính chất
lọc máu (dépuratin. Thứ nước ngọt xá xị này cũng có thể đựng trong lon,
giong như lon gạo và gánh đi bán rao (gánh vừa lon gạo). Đó là hiện
tượng báo hiệu thằng tây ở tù, với cuộc đảo chánh Nhật 9.3.1945.
Câu:
Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
Ông Bút Ch́ ở ṭa soạn đă giải thích (Làng Văn 26, trang 94), tôi xin đi
sâu vào chi tiết hơn nữa:
Sách Việt Nam Phong Sử của Nguyễn Văn Mại (tủ sách Cổ Văn, phủ Văn Hóa,
Sài G̣n 1972, trang 126), do Tạ Quang Phát phiên dịch, ghi như sau:
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
"Thơ phong sử này thuộc tỷ. Cải rau cải có thể làm dưa, tháng mùa đông
bắt đầu gieo hột mà trồng. Trời, thiên triều, triều nhà Thanh bên Tàu.
Nước ta trải các đời đều chịu triều đ́nh Trung Quốc phong cho, cho nên
gọi Trung Quốc là thiên triều. Răm, thứ rau có vị cay, mọc ở chỗ đất
thấp. Theo Sử kư, Nguyễn Thị Kim, người ở làng Tỳ Bà, huyện Lương Tài,
là cung phi của vua Lê Mẫn Đế.
Lúc ấy quân Tây Sơn chiếm cứ thành Thăng Long, vua Lê Chiêu Thống và
Hoàng Thái Hậu với cung phi chạy lên Cao Bằng, nếm mọi nỗi đắng cay.
"Đến khi vua Chiêu Thống sai người sang cầu cứu với nhà Thanh th́ trước
hết bí mật khiến người hộ tống Thái Hậu và Nguyên Tử (con trai trưởng
của vua) đi sang Tàu.
"C̣n Cung Phi Nguyễn Thị Kim đi theo không kịp, phải buồn hận trở về, âm
thầm ẩn tránh trong dân gian lo việc làm ruộng nuôi tằm, dệt vải để sống
bằng sức lực của ḿnh.
"Ngày xưa sống với phấn sáp cung trang, ngày nay nàng trở thành người
đàn bà quê với áo vải hoa gai, vua th́ chạy đi, nước th́ tan mất, nỗi
đắng cay không xiết được, cho nên làm thơ phong dao để tự ví ḿnh.
Cải, là thứ rau có vị đắng, ví với Thái Hậu
Rau răm cũng có vị đắng, ví với Cung Phi
“Ư nói là Thái Hậu đi xa sang Thiên Triều chưa biết kham khổ ra sao. Một
ḿnh Cung Phi ở lại trong đất giặc chiếm đóng phải chịu những nỗi cay
đắng ấy. Đấy cũng là lời than thở.
“Về sau vua Chiêu Thống ở Yên Kinh bị bịnh mà chết.
Sau khi lấy được nước và định quốc đô, Triều Nguyễn ta xin nhà Thanh đưa
linh cữu vua Lê Chiêu Thống về nước.
"Cung Phi Nguyễn Thị Kim đến trước linh cữu lạy khóc rồi uống thuốc độc
mà chết. Thương thay! Trung thần liệt nữ từ xưa đều thế” (trích dẫn
nguyên văn).
Nhà văn học Tạ Quang Phát giải thích cách khác: Cây cải ám chỉ hoàng tử
Cải, con chúa Nguyễn Ánh. Rau răm ám chỉ Cung Phi Lê Thị Răm của chúa
Nguyễn Ánh. Hoàng tử Cải không vui ḷng đi theo giám mục Bá Đa Lộc làm
con tin để cầu viện, bị chúa Nguyễn ném xuống biển. Cung Phi Lê Thị Răm
không vui ḷng cho đứa con trai duy nhất đi xa, cứ than khóc, bị chúa
Nguyễn cho điệu lên bờ, bỏ lại Côn Đảo và sau cùng bị tên Biện làm nhục
phải tự tử (Tập san Văn Hóa, số 1, 1976, trang 36).
Có người biên thư cho Phùng Lăo Hữu ở Anh Cát Lợi, hỏi ư nghĩa câu tục
ngữ:
Thứ nhất phạm pḥng
Thứ nh́ ḷng lợn.
Cụ Phùng chuyển sang Paris để tôi đáp giải. Vậy tôi cũng cố gắng giăi
bày như sau:
Từ xưa, có hai điều nguy hiểm và độc địa nhất là phạm
pḥng và ḷng lợn.
Phạm pḥng là nhập pḥng làm t́nh, th́nh ĺnh bị đứng tim tắt thở. Tây y
gọi là colapsus cardiaque (thượng mă phong). Muốn cứu chữa, phải kịp
thời lấy kim chích nơi huyệt hội âm (hui-in). Theo BS Minh Tân, chuyên
gia châm cứu ở Paris, huyệt hội âm ở giữa đường nối liền hậu môn và các
gốc hai ḥn (scrotum) nơi vùng bàn đít (périnée). Huyệt này thuộc hệ
thống nhâm mạch (ren-mai, vaiseau conception).
Gặp trường hợp nguy biến đó, người đàn bà phải nhanh trí, lấy kim chích
gấp hội âm. Cho nên ngày xưa, người đàn bà nào cũng có sẵn một cái trâm
ghim búi tóc để pḥng hờ làm cái việc giải nguy đó. Theo tục lệ xưa, các
bà mẹ gói sẵn cho con gái đi lấy chồng một bao nhỏ đựng 3 cây kim, nhét
vào lai áo, để dùng trong ba việc: may vá, chích lễ lúc đau đầu và châm
vào hội âm chồng lúc
nguy cấp.
Cái nguy hại thứ hai là ḷng lợn. Ḷng lợn ăn ngon lắm, nhưng phải rửa
và luộc thật lâu và thật chín, v́ lắm vi trùng đă nằm sẵn trong ấy, nhất
là trong ruột non, ruột giữa và ruột già. Nếu ăn nhằm và ḷng xấu, đă hư
hôi, sẽ bị nhiễm độc, sinh ra lắm chứng bệnh nguy hiểm, v́ sự công phá
của vi trùng và chất độc ptomaine do thịt hư thối sinh ra. Hơn nữa, có
nhiều thứ vi trùng bị nấu lên trên 100 độ C mà vẫn chưa chết, cho nên
phải hết sức thận trọng trong khi ăn cháo ḷng, tiết canh, ḷng lợn...
Trong thư của Phùng Lăo Hữu, c̣n một câu hỏi nữa: "Măo, ta gọi là mèo:
Tàu lại gọi là thỏ, là tại sao?"
Theo tôi, lịch Tàu, lịch ta ngày xưa đều công nhận con thỏ là biểu trưng
cho năm Măo, nhưng đến một thời kỳ nào đó, có lẽ là từ thời Pháp thuộc,
chữ Hán (đă mất dần ảnh hưởng, nhường chỗ cho chữ quốc ngữ. Người dân
Việt hiểu biết chữ Hán rất ít, họ bèn Việt hóa chữ Măo thành Mẹo, thành
Mèo, do âm hưởng (onomatpée), đinh ninh Măo là Mẹo, là Mèo. Hơn nữa, họ
thấy có con chó biểu trưng cho năm Tuất, tại sao năm Măo lại không có
con mèo? Vốn là giống gia súc cần thiết để bắt chuột, nhà nào mà chẳng
nuôi chó, mèo, heo, gà? C̣n giống thỏ, người Việt rất ít nuôi, cho nên
không cho là thiết yếu, và từ đó, họ đem con mèo vào
trong lịch ta, thay cho con thỏ. Nên thêm rằng trong Hán tự, miêu là
mèo, măo không phải là mèo, con thố là con thỏ.
Ṭa soạn cũng chuyển cho tôi thư của BS Trần Tí Thư ở Forestville, tỉnh
Québec, Gia Nă Đại, hỏi về các loài hoa với tên khoa học của mỗi loài:
hoa nhài, hải đường, phù dung, ngọc lan, tầm xuân, thiên lư, dạ lư, hoa
giấy, hoa quỳ, hoa quỳnh. Phần nhiều các loài hoa này đều có mùi thơm và
màu sắc rực rỡ.
Lư là một loại cây có trái, trong trái có nhiều hột lớn, cho nên chữ lư
viết theo lối hội ư: mộc và tử tên Pháp là jambosier. Tên khoa học là
eugenia jambos lin hay euginia malaccenis lour, thuộc họ myrtacées.
Hoa Lài, (Nhài-): jasminum sambac Ait, họ Oléacées (camélia).
Hoa Phù Dung: Hibiscus mutabilis Lin., họ Malvacées (Cotton-rose,
confederate-rose)
Hoa Ngọc Lan: Michelia champaca Lin., họ Illiciacées (Ylang).
Hoa Tầm Xuân: Rose chinesis Jacp., họ Rosacées (Egiantier).
Hoa Thiên Lư: Pergularia minor Andr., họ Asclépiadascées.
Hoa Dạ Lư: Cestrum nocturnum lin., họ Solanacées.
Hoa Giấy: Bougainvillea spectabilis willd, họ Nyctaginacées.
Hoa Qú: Hélianthus annuus Lin., họ Astéracées (Tournesol)
Hướng Dương (hélianthe Sun Flower Héliotrope).
Hoa Quỳnh: Zygocactus truncata Haw. Moran, họ Catacées (long cốt, xương
rồng), rose dễ minuite.
Hoa Quỳnh mọc từ lá mà ra hoa, hoa to và thơng, dài 30-35 phân, phiến
hoa nhiều, ṿi trắng. Hoa đẹp lộng lẫy, rất thơm, mọc ở xứ nóng và lạnh.
Thường thường, hoa nở lúc nửa đêm. Người yêu hoa thức khuya uống trà,
ngắm hoa Quỳnh nở.
Như thế hoa Qú và hoa Quỳnh hoàn toàn khác nhau. Trong Cây Cỏ Miền Nam,
tập 1, trang 477, GS Phạm Hoàng Hộ ghi nhằm Quỳnh Thành Huỳnh (theo
giọng đọc miền Nam)
Hoa Hải Đường không thơm, đỏ thắm, hữu sắc vô hương thuộc họ trà
(Théacées).
Sau hết, là "mười hai bến nước". Bốn chữ này xuất hiện trong Lục Vân
Tiên của Nguyễn Đ́nh Chiểu:
Linh đinh một chiếc thuyền t́nh,
Mười hai bến nước
biết ḿnh về đâu.
(Câu 1583, 1584)
Mười hai bến nước, là những bến nào. Trên Làng Văn (số 25, trang 93),
ông Bút Ch́ đă giải thích là mười hai hạng người trong xă hội: sĩ, nông,
công, thương, ngư, tiều, canh, mục, công, hầu, bá, tử. Lời giải thích
này căn cứ theo Thuyết Văn. Vào thời đó, chỉ có bốn tước quan là công,
hầu, bá, tử (hay công, hầu, khanh, tướng) mà thôi. Bà Bố Định (nữ sĩ Kim
Khuê) cũng hỏi tôi về nguyên ủy thành ngữ "mười hai bến nước". Nay tôi
mạo muội bàn góp như sau: đây là nói tới số phận người con gái, lấy
chồng như thuyền cập bến, bến trong th́ nhờ. Bến đục th́ chịu, không
định trước được, mà cũng không lựa chọn được bến nào.
Đặt vào khung cảnh nước ta, mười hai bến nước cũng có thể là mười hai
cửa biển, cửa sông, nếu căn cứ vào thơ Lê Quát đời Trần:
Hải môn thập nhị ngă hoàn sơn
(Một
vùng mười hai cửa biển, ta về núi ẩn)
Hiểu rộng hơn nữa, chúng ta cũng có thể liên tưởng 12 tháng trong năm,
hay 12 năm trong một Giáp (Thật ra phải nói là một Tí) v́ chữ giáp khởi
đầu thập can; c̣n chữ Tí khởi ngộ thập nhị chi. Mỗi chi biểu trưng một
con vật khác nhau.
Tại nước ta, có năm tước (tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt, Nguyễn
Công Trứ) là: thượng đại phu, hạ đại phu, thượng sĩ, trung sĩ, hạ sĩ.
Dân có bốn nghề (không phải là giai cấp): sĩ, nông, công, thương (Dân
hữu tứ, sĩ chi vi tiên, Nguyễn
Công Trứ).