|
Lễ hội cầu trâu ở Hương Nha, Phú Thọ
Làng Hương Nha nằm ở huyện Tam Nông, hữu ngạn sông Hồng, cách Đền Hùng
chưa đầy 10km về phía tây nam. Tương truyền vào nửa đầu thế kỷ thứ nhất
sau Công nguyên, Tô Định sang đánh nước ta, lúc đó ở châu Đại Man có
người con gái tên gọi là Xuân Nương tài sắc vẹn toàn, thùy mị, nết na,
tinh thông vơ nghệ, viết chữ, tính toán đều giỏi, lại có đức độ, các bậc
"tu mi nam tử" không ai sánh kịp. Cha mẹ mất sớm, anh trai bị Tô Định
sát hại, trong ḷng căm giận, nàng nguyện báo thù nhà. Nàng cắt tóc giả
làm ni cô đi đến các phủ, huyện để chiêu tập binh hùng tướng mạnh. Hai
Bà Trưng nghe tiếng Xuân Nương bèn truyền hịch nghênh đón về, lại cho
nàng thống lĩnh quân Nội thị nữ tốt bên tả.
Ngày nay, nhân dân trong vùng tổ chức lễ cầu trâu để tưởng nhớ công đức
của bà. Lễ cầu trâu được tổ chức vào ngày mồng 2 tháng giêng âm lịch
hằng năm để nhớ câu chuyện xưa nhân dân đă dâng trâu để Bà khao quân
tướng khi thắng trận trở về. Từ 20 tháng Chạp, dân làng đă họp bàn để
chọn mua trâu. Trâu phải là trâu đực béo khỏe. Người được nhận nuôi trâu
gọi là "chứa lềnh", nhất thiết phải ăn chay từ khi rước trâu về. Lán của
trâu phải làm bằng các vật liệu mới, mỗi buổi chiều, "chứa lềnh" phải
đem trâu ra bến tắm, sau đó tắm cho ḿnh. Đến 7 giờ tối ngày 2 tháng
Giêng, nhà "chứa lềnh" phải làm một cỗ gà và một cỗ chay gồm: củ mài,
mía ngọt, chè lam, chè kho, hoa quả và một hũ rượu mộng. Tối đến, dân
làng đến nhà "chứa lềnh" rước trâu ra đền Hạ (c̣n gọi là Miếu Ông) nơi
thờ thập bộ thần quan là những tướng sĩ khi nghe tin bà mất đă nhảy
xuống hồ trẫm ḿnh để chứng tỏ ḷng trung nghĩa. Trước khi làm lễ cầu
trâu, người ta đốt bên cạnh cột buộc trâu hai bó đuốc bằng nứa khô. Sau
đó, nhà sát trói trâu vào cọc bằng dây tre, rồi làm lễ mật khẩn xin âm
dương. Khi trâu ngă gục và chết, người dân đem lột da, chôn 4 cọc rồi
căng da trâu làm "nồi da nấu thịt", tái hiện cảnh mổ trâu khao quân của
nữ tướng Xuân Nương khi xưa. Người ta c̣n cắt 12 miếng thịt ngon ở bắp
làm 12 quả đài xinh để tế thần. Sáng mồng 3 âm lịch, người dân tổ chức
lễ "chạy chài". Lễ gồm có thịt và ḷng trâu đặt trên mâm tre. Sau đó nhà
sát đội ra bến Giếnh, trên đường về người dân thi nhau tranh cướp lễ vật.
Ai cướp được lễ vật th́ năm đó làm ăn phát đạt, con cháu thuận ḥa, gặp
nhiều may mắn.
Nguồn tin: Hà Nội mới
Lễ hội vật trâu giằng búa (Phú Thọ)
Lễ hội
vật trâu giằng búa của thôn Bến Bây, xă Chí Chủ xưa (nay là xă Chí Tiên,
huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ). Làng Chí Chủ trước đây có 3 thôn, mỗi
thôn thờ một ông thành hoàng, đều có sắc phong của các triều đại phong
kiến xưa. Do chiến tranh nhiều năm đ́nh làng không c̣n nữa, ngày nay chỉ
c̣n lại 7 sắc phong của triều Nguyễn. Sắc phong vị thành hoàng Đào tướng
quân của vua Minh Mạng (1820 - 1840).
Dân thôn Bến Bây tâm
niệm: Đào tướng quân là vị thần rất linh thiêng. Mọi người phải tránh
tên huư của thần, lễ hội giằng búa là để nhớ lại tục lệ luyện và khao
quân của Đào tướng quân thuở xưa. Tương truyền Đào tướng quân là vị
tướng to cao lẫm liệt, sức khỏe phi thường, đa mưu, đa kế, vào trận tả
xung hữu đột, trí dũng thông minh, phi thường. Sau các trận đánh thắng,
tướng quân thường khao quân, cho quân lính giằng búa đập đầu trâu rồi
giết mổ, đồng thời ban thưởng cho ai giằng được búa.
Đ́nh làng Bến Bây tổ
chức lễ hội giằng búa vào sáng mồng hai Tết Nguyên Đán hàng năm. Để có
ngày lễ hội này, cả dân làng phải chuẩn bị rất công phu với những quy
định chặt chẽ. Trước hết là việc đi tậu trâu, chăm sóc trâu. Thôn Bến
Bây chia làm bốn dâu, người cao tuổi nhất trong thôn được đứng dâu nhất.
Dâu nhất năm ấy được đăng cai cho mọi việc lễ hội trong năm, việc mua
giữ trâu, đến mua sắm mọi lễ vật từ rằm tháng chạp năm trước đến sáng
ngày mồng hai Tết Nguyên Đán là ngày cầu chính.
Trâu được tậu về nhà
ông "đăng cai" đúng vào ngày rằm tháng chạp. Gia đ́nh ông "đăng cai" làm
ván lễ, lễ thành hoàng và cầu mong cùng gia đ́nh trông nom, ǵn giữ trâu
thờ được mạnh khỏe béo tốt. Cúng lễ xong ông đăng cai nổi chiêng trống
báo cho dâu làng đến chiêm ngưỡng trâu thờ. Hàng ngày theo thứ tự đă
được định trước, các gia đ́nh lần lượt cắt cỏ, lấy rơm sạch, nước uống
và tắm rửa cho trâu bóng nhẫy, ngày này qua ngày khác cho đến sáng mông
hai Tết.
Dắt trâu ra đ́nh làm
lễ cúng thành hoàng. Cũng giờ này mọi gia đ́nh đều dạy sớm, ăn mặc chỉnh
tề, đến nhà ông đăng cai để tham gia vui hội cầu trâu thờ thần. Dắt trâu
ra đ́nh thờ gồm có 8 người trai tráng tuổi từ 18 đến 30 tuổi, gia đ́nh
không có tang ma, bản thân không có khuyết tật, có đạo đức phẩm chất tốt.
Họ không chỉ là trai trẻ, khoẻ mạnh mà h́nh thể phải nở nang, cân đối,
trông như một dũng sĩ. Họ phải được kiêng kỵ sạch sẽ từ những ngày trước,
không được nói năng khiếm nhă, tṛng ghẹo phụ nữ. Sáng ngày mồng hai Tết,
mặc dù có những năm vào ngày mưa rét lạnh, 8 trai tráng này phải tắm rửa
sạch sẽ tại giếng của làng. Những trai này phải cởi trần, quần dài trắng
sắn ống quần thật cao, chân đất, đầu đội khăn xanh bỏ mối - sau gáy,
lưng thắt bao xanh có mối bỏ bên phải. Để chống rét họ phải xoa các bắp
thịt cho nhau, vỗ ngực, làm những động tác cho người hồng hào, có người
phải uống nước mắm để chống rét. Họ tập trung ở nhà ông đăng cai để ăn
bánh lọc trước khi đi cầu. Ông đăng cai đă chuẩn bị hai mâm sà có sơn
son thiếp vàng. Một mâm để ván thờ gồm có sôi nếp trắng, một con gà
thiến chín, một mâm rượu, một bát nước, đĩa trầu cau, hương nhang, đèn
nến, có người cầm tàn che. Một mâm đựng trầu cau do các gia đ́nh trong
thôn góp lại. Mâm này cũng có người cầm tàn che. Mọi việc chuẩn bị xong,
ông chủ tế mặc áo thụng xanh quần dài trắng chỉnh tề vào xin đem trâu ra
đ́nh làm lễ.
Từ nhà đăng cai đoàn
người dắt trâu ra đ́nh, người đi đầu tiên là người đứng tuổi, cao đẹp
thuộc người dâu nhất, cầm đóm bằng những cây cỏng (cây chít) được chẻ
làm đôi, bỏ ruột, bóc bẹ nhẵn nhụi, được chuẩn bị ngâm phơi từ trước.
Người thứ hai thuộc dâu hai cầm gươm. Người thứ ba thuộc dâu ba cầm búa.
Búa thờ có cán dài 70cm, người đi thứ tư thuộc dâu tư cầm trống khẩu.
Trống có hai mặt bằng da, đường kính mặt trống 30cm, tang trống làm bằng
gỗ mít, sơn son vẽ rồng tất cả những người này đều ăn mặc thống nhất,
khăn đội đầu bằng vải đen bỏ mối phía sau, áo the mặc ngoài áo dài trắng,
ngoài cùng là áo nỉ đỏ có rồng chầu, hổ phục, thắt lưng xanh bỏ mối phía
phải, quần trắng, chân đất, kế đến là vị chủ tế, rồi đến ông đăng cai,
tiếp đến là người đội các mâm cỗ thờ; các quan viên mặc quần áo chỉnh tề,
tiếp theo là 8 người dắt trâu, mỗi bên chạc bốn thanh niên đối diện nhau.
Đi đầu cầm chạc trâu là hai thanh niên dâu tử. Khi ra khỏi nhà đăng cai,
tất cả hàng ngũ được chấn chỉnh lại thành một hàng dọc thẳng tắp với
quần áo đủ mầu. Đến cửa giữa đại bát người cầm đóm đạp mạnh vào cửa đ́nh,
cửa mở toang ra, các cửa khác được trai tráng trực sẵn nhắc ra xếp gọn
vào một chỗ. Người cầm đóm đi tiếp vào hậu cung, cửa cung đ́nh được mở
hết, các mâm thờ được đặt lên sập thờ. Các công việc chuẩn bị cho lễ cầu
đă xong, các quan viên vào chiếu tế. Đoàn dắt trâu đứng nghiêm trang
giữa sân đ́nh, dân làng vây quanh, đông chật hai bên tả mạc. Tất cả chờ
tế xong sẽ đắt trâu ra băi vật.
Cuộc tế lễ bắt đầu,
ông chủ tế vào tế, các quan viên cũng lễ theo, sau đó lần lượt bốn người
cầm đóm, gươm, búa, trống vào lễ, cuối cùng là 8 trai tráng dắt trâu
thay nhau vào lễ. Sau khi lễ xong, ông chủ tế cầm bát rượu từ trong hậu
cung ra, dừng bước trước đầu trâu khấn vái rồi đổ rượu vào đầu trâu. 8
người được lệnh dắt trâu ra băi vật. Người ta dùng hai tḥng lọng to cho
trâu bước vào tṛng rồi cùng nhau hô to vật đổ trâu.
1 tráng sĩ trong số 8
người này được cử vào lĩnh búa thờ tại cung đ́nh. Lễ tạ thành hoàng xong,
ông chủ tế trao búa thờ, người lĩnh búa chạy một mạch ra băi vật. Ra
giữa băi vật, búa được tung lên cao, thế là hội giằng búa bắt đầu. Một
cuộc giằng co, dượt đuổi, trèo kéo, tiếng trống, với tiếng ḥ reo cổ vũ
của người dân vang lên từng hồi. Sau một hồi lâu giằng búa, ban tổ chức
nổi chiêng chấm dứt cuộc chơi này và cho mổ trâu để sắm cỗ thờ vào sáng
ngày mông ba Tết.
Nguồn:
dulichvn.org.vn
|