|
Lễ hội Kỳ Yên
đình Tân Chánh – Long An
29/05/2013
8:21
Đình Tân Chánh
và Lăng mộ Nguyễn Khắc Tuấn (xã Tân Chánh, huyện Cần Đước) được xếp hạng
di tích lịch sử - văn hóa năm 2012, là một di tích có giá trị về lịch sử,
tư liệu, kiến trúc lăng mộ, đình làng, gắn liền với lịch sử khai phá đất
phương Nam của lưu dân người Việt trên vùng đất cận biển Cần Đước, Cần
Giuộc và nhân vật lịch sử Nguyễn Khắc Tuấn. Ngày mồng 5 mồng 6 tháng hai
(AL) hàng năm, nơi đây còn diễn ra lễ hội Kỳ Yên. Như bao lễ hội Kỳ Yên
khác ở Long An và Nam Bộ với các nghi lễ nông nghiệp truyền thống như
Tỉnh Sanh, Túc Yết, Đoàn Cả… để tạ Thần Thành Hoàng bổn cảnh, thể hiện
khát vọng cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, an cư lạc nghiệp…,
trong Lễ hội Kỳ Yên đình Tân Chánh còn có lễ Tống phong đậm phong cách
văn hóa của cư dân cận biển và lễ Thỉnh sắc từ Đình đến lăng Nguyễn Khắc
Tuấn. Xin giới thiệu loạt ảnh về lễ hội này trong lễ Kỳ Yên năm Quý Tỵ
vừa qua.

|
Chuẩn bị lễ Tống phong bắt đầu từ 8 giờ sáng
ngày mồng 5 tháng Hai (AL), từ sáng sớm, dân trong xã tập
trung trang trí chiếc tàu tống gió để thả trôi sông. Xưa,
tàu thường làm bằng bẹ chuối, dán giấy. Ở Đình Tân Chánh
người chăm chút và thể hiện tàu bằng thiết, hình dáng là một
chiếc xà lan, khá qui mô. |

Lễ vật cũng chuẩn bị sẵn sàng, gồm 1 con heo
sống đã thọc huyết và đủ cả lòng huyết, lục phủ ngũ tạng,
xôi, gà luộc, 3 hũ gạo, muối, nước, vàng mã… |

Sau nghi thức niệm hương, đốt vàng mã, lễ vật
mỗi thứ được cắt một ít để đưa vào trong tàu, trong đó riêng
con heo sống là cái đuôi , 4 cái móng và lỗ mũi |

|

|

|

|

|
Sau nghi thức múa lân, đám rước có ban nhạc
lễ đi kèm cùng Ban hội hương Đình và nhân dân được tiến hành,
đưa thuyền và lễ vật từ đình ra sông Vàm Cỏ.
|
.
|

|
Xưa đám rước đi bộ, nay chỉ đi bộ từ Đình ra
lộ rồi dùng xe đưa thuyền đến sông Vàm Cỏ ở ấp Hòa Quới cách
đó 5 km |
.
|
Thuyền được đưa xuống phà ra sông Vàm Cỏ  |
.  |

|
Đưa thuyền xuống sông, kết thúc nghi lễ tống
phong |
. |
Sau lễ Tống phong, ban hội hương tập trung
đình làm lễ rước sắc Thần vào lúc 11 giờ |

|
Sắc phong Minh Mạng năm thứ 4 (1823) phong
Nguyễn Khắc Tuấn chức Khâm
sai Chưởng cơ thống quản Trung quân, Chấn Định Thập Cơ đựng
trong một cái hộp được đặt trong khánh thờ được đưa ra tiền
đình để làm lễ rước sắc. |

Đoàn rước có nhạc lễ, lân, trống, chiêng, Ban
hội hương đình, binh gia, đào thài và đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia


.
Đến Lăng, sắc được thỉnh đưa vào trước bia mộ
Nguyễn Khắc Tuấn |
. |



Sau các nghi thức mở sắc, niệm hương bái lạy,
đoàn rước đưa sắc trở lại đình để tiến hành các nghi lễ
chính thức tiếp theo sau đó. |

|
18 giờ, Lễ xây chầu - đại bội được tiến hành
tại Võ ca để xây dựng và khai mạc một chầu hát bội với quan
niệm dịch lý Nho gia: thuận đạo trời, an đạo đất, hòa đạo
người, mong cho vạn vật trong trời đất hanh thông, tốt đẹp. |

|
Thủ cổ và chấp sự thực hiện các nghi thức Tẩy
trước chú., cầm roi khắc trống chầu, Trịch mộc chú và Điểm
mặt trống. |
 
|
Lễ Đại bội diễn ra ngay sau lễ xây chầu có ý
nghĩa khai thông thái cực với các nghi thức Điềm hương, Xang
nhật nguyệt, Tam tài, Tứ thiên vương, Đứng cái, Bát tiên,
Gia quan tấn tước. |

|
12 giờ đêm, Lễ Tỉnh sanh được tiến hành để
giết một con vật sống tế thần linh trong ngày lễ Kỳ Yên. |

|
Giám đao lễ trước bàn thờ trước khi yết heo
tế. |
|
 |
Người ta lấy một ít huyết và lông gáy con vật
đặt trước bàn tiền án để làm sau đó làm lễ Ế mao huyết, tức
chon lông và huyết xuống đất phía sau đình, có ý nghĩa phục
hồi sinh khí, cầu mong cho cây lành trái ngọt, ruộng vườn
tốt tươi. |
|

|
Lễ vật là con heo sống và toàn bộ lòng huyết,
lục phủ ngữ tạng được đặt trước bàn tiền án cùng xôi, trái
cây để lễ thần. |

|
 |
Lễ Túc yết diễn ra ngay sau khi Ế mao huyết
để tế thần với các nghi thức dâng hương, dâng đèn, dâng rượu,
dâng hoa, dâng trà và đọc chúc văn, ca ngợi công đức Thần,
mời thần về hưởng.
|

|
Suốt ngày hôm sau đó, mồng 6 tháng Hai, nhân
dân địa phương và khách thập phương đi viếng lăng, niệm
hương và xem hát bội ở Đình. |

|
|

|
13 giờ, lễ Đoàn cả được tiến hành để tạ Thần
là lễ sau cùng kết thúc lễ hội. |
Bài và
ảnh Nguyễn Tấn Quốc
- Lễ Kỳ Yên (Lễ
Thượng Điền) –
Đình Bình Thủy Cần Thơ
-
- Lễ Kỳ Yên được các ngôi đình ở thành phố Cần Thơ tổ chức cúng
vào 3 ngày khoảng giữa tháng ba, tháng 4 âm lịch. Cá biệt có nơi
cúng vào tháng Bảy âm lịch, như đình thần Vĩnh Trinh. Còn lễ Kỳ yên
Thượng Điền được tổ chức vào khoảng 2 hoặc 3 ngày giữa tháng 11 âm
lịch.
-
- Thỉnh Sắc Thần Lễ Kỳ Yên Bình Thủy Cần Thơ
-
- Kỳ yên tức là cầu an, mỗi đình tổ chức lễ cúng vào một ngày khác
nhau. Lễ cúng thần dâng lễ vật để tỏ lòng tôn kính đối với Thành
Hoàng. Thượng điền và Hạ điền là hai kỳ lễ lớn trong năm. Lễ Hạ điền
tổ chức vào đầu mùa mưa, có ý nghĩa như là lễ xuống đồng, khai
trương việc cày cấy. Lễ Thượng điền cử hành vào cuối mùa mưa, lúc đã
thu hoạch các sản phẩm nông nghiệp. Do lễ Kỳ yên và lễ Thượng điền,
Hạ điền có nghi thức cúng tế gần giống nhau nên các ngôi đình ở Cần
Thơ đã nhập hai kỳ lễ này thành một, gộp
lại để cúng chung. Trong các dịp cúng đình, ban tế tự thường ghi
trên thiệp mời là lễ Kỳ yên Thượng điền hoặc lễ Kỳ yên Hạ điền.
-
- Trịnh Hoài Đức ghi lại trong “Gia Định thành thông chí” như sau:
“Tế xã: mỗi làng xây dựng một ngôi đình, kỳ tế phải trước lựa ngày
tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm lại đình, suốt đêm ấy
gọi là túc yết sáng sớm ngày mai áo mão trống chiêng làm lễ chính
tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về.
Dùng ngày giờ cúng tế tùy theo hương tục không đồng nhau, hoặc chỗ
dùng tháng giêng là thủ nghĩa Xuân kỳ, hoặc chỗ dùng tháng 8, 9 là
thủ nghĩa thu báo, hoặc chỗ dùng trong 3 tháng mùa đông, thủ nghĩa
là trọn năm thành công, tế chưng tế lạp là đáp tạ ơn thần, sự tế có
chủ ý, đều gọi là Cầu an. Ngoài hương lệ, tọa thứ có nghi tiết thứ
tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có người
học thức làm theo lễ “Hương ẩm tửu”, giảng quốc luật và hương ước,
ấy gọi là làng có phong tục tốt. Đồng thời trong ngày ấy xét sổ sách
trong làng coi một năm ấy thâu nạp thuế khóa, diêu dịch, lúa tiền dư
thiếu thế nào, nông điền được mất thế nào, giữa hội đồng trình bày
tính toán; cùng bầu cử người chức sự coi làm Việc làng cũng bàn giao
trong ngày ấy”.
-
-

-
- Lễ vật cúng thần Thành Hoàng trong dịp này tùy tình hình tài
chính của đình, cũng như tùy vụ mùa hàng năm, trúng mùa
hay thất mùa mà có sự gia giảm khác nhau, nhưng nhất thiết trên
bàn lễ vật phải có một con
heo quay, có nơi thì cúng thêm ngỗng, vịt. Ngoài ra, còn có bánh
trái, trà rượu và một thứ nữa cũng không thể thiếu trong dịp này đó
là xôi. Xôi này phần lớn do dân làng ở địa phương nấu sẵn đem vào
cúng. Ngày xưa, đất đai của đình rộng nên thường cho dân làng mướn
làm lúa để đình thu huê lợi. Cho nên, trong những dịp cúng đình,
những người mướn đất của đình để canh tác mới nấu xôi đem vào đình
để cúng, nhằm tạ ơn thần đã cho họ được no ấm, mùa màng tốt tươi.
Những người không mướn đất của đình cũng đem hoa quả trong vườn của
mình, cũng đem xôi, thịt đến đình để cúng thần Thành Hoàng làng
mình. Bởi họ cho rằng, chính vị Thành Hoàng làng này trong năm đã
che chở cho dân làng, phù hộ cho dân làng được yên ổn làm ăn, có
cuộc sống no đủ. Truyền thống này ngày nay vẫn còn được duy trì
trong mỗi dịp cúng đình ở Cần Thơ.
-
-
-
- Trong lễ hội Kỳ yên này, hầu hết các ngôi đình ở Cần Thơ đều có
tổ chức lễ rước sắc thần và lễ hồi sắc.
-
- “Sắc thần là một tờ giấy súc khá tốt, dai, khổ giấy từ 1m20 đến
1m50 với chiều dài, từ 0,50m đến 0,60m với chiều rộng, dày, màu
vàng. Mặt giấy có in nền chìm bằng dụ ngân hình rồng ẩn trong mây,
chung quanh có khung hồi văn chữ vạn, nên gọi long đằng chỉ (giấy
hình rồng dùng để sao chép), hoặc chữ đinh
hay hoa lá dây chéo nhau. Mỗi sắc thần thường có từ 5 đến 11
hàng dọc, chép từ phải qua trái. Dòng cuối cùng đề niên hiệu, tháng,
ngày cấp sắc. Ấn vàng của nhà vua dùng son phụng màu đỏ đóng lên
hàng chữ đề niên hiệu, ngay giữa dòng chữ này, kể từ chữ (niên) trở
xuống, ấn hình vuông, có bốn chữ viết theo lối triện là Sắc Mệnh Chi
Bửu”2.
-
- Cúng Đình
-
- Ngày xưa, sắc thần thường để ở nhà các hương chức cất giữ, hoặc
để trong nhà của những người trong ban tế tự. Đó là những người đủ
uy tín, phẩm hạnh mới được giao giữ sắc thần. Bởi vì ngày xưa, thỉnh
thoảng có xảy ra hiện tượng mất cắp sắc thần nên sau này người ta
không dám cất sắc thần trong đình. Sắc thần là thiêng liêng cho nên
đình nào có sắc thần là xem như sự công nhận hợp pháp của nhà nước
đối với đình thần làng mình. Còn đình nào không có sắc thì chẳng
khác nào “đình chui”, không đủ uy tín để mọi người tin tưởng đến
cúng bái và cũng không đủ hiển linh để người ta đến cầu nguyện. Cho
nên có những đình không có sắc thần thường tìm cách mua lại sắc thần
của những kẻ trộm. Sắc thần ở Cần Thơ phong cho các vị Bổn Cảnh
Thành Hoàng phần lớn là những vị thần trong ý niệm, hữu danh vô thực
cho nên việc đình này mua lại sắc thần của đình kia cũng chẳng
phương hại gì. Cái nào cũng là “Sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng” chứ
không hề có danh tánh cụ thể. Theo niềm tin của người xưa, sắc thần
là thiêng liêng nên phải cất kỹ, không thể tùy tiện mở, nên không dễ
mấy ai nhìn kỹ sắc thần. Một số ngôi đình ở Cần Thơ còn có lệ phơi
sắc thần. Lệ phơi sắc này gồm hai mục đích: Thứ nhất, sắc thần được
để trong hộp, cất kỹ suốt năm nên rất dễ bị ẩm ướt, mối mọt nên
trong lễ cúng đình người ta đem sắc ra phơi là để kiểm tra xem sắc
có bị hư hỏng không và cũng là để cho sắc có sự thông thoáng tránh
bị ẩm ướt. Thứ hai, phơi sắc cũng là sự tự hào của đình làng mình vì
đình mình có sắc. Điều này cũng để cho mọi người thấy đình làng mình
là “đình chính thức” có sắc hẳn hoi, có sự công nhận đàng hoàng.
-
-
- Nghi lễ thỉnh sắc thường bắt đầu bằng một hồi trống để báo cho
dân làng biết để đến cùng đi thỉnh sắc và cũng là một cách báo cho
dân làng biết để bày hương án hai bên đường cúng tạ ơn thần (Lệ bày
hương án hai bên đường ở Cần Thơ ngày nay đã không còn). Kế tiếp là
chiêng, trống
gióng lên báo hiệu cho cuộc rước bắt đầu. Đi đầu đám rước thường
là chiêng, trống, kèn, kế đó là các vị chức sắc, những người trong
Ban tế tự – những người này có nhiệm vụ như là những người dẫn đầu
đám rước. Kế đó là hai viên chức trong làng. Một ôm ấn kiếm – kiếm
của thần và một ông kia bưng dàn lỗ bộ nhỏ.
-
-
- Diễn tuồng trong lễ hội Kỳ Yên
-
-
- Tiếp sau là những người ăn mặc như lính hầu đi hai bên, mỗi bên
khoảng 4 đến 5 người, tay cầm cờ phướn, đao, kiếm, thương… sau đó là
bè thủy lục dùng để rước sắc thần nếu rước bằng đường thủy, hoặc
long đình nếu rước bằng đường bộ.
-
- Bè thủy lục được ghép từ 2,3 chiếc ghe lại thành một bè, trên bè
đặt kiệu đỏ, trang trí đèn lồng, múa lân biểu diễn trên bè. Trên bè
có để hộp sắc thần, có các viên quan hương chức áo trang nghiêm hầu
sắc thần, có thêm lễ nhạc ở trước, sau và hai bên. Dân làng ngồi cầm
dầm để bơi bè.
-
- Một cái bè nhỏ khác cũng được trang hoàng đẹp đẽ, nghiêm trang
đi trước cái bè lớn khoảng 30 thước. Trong bè để trống chiêng, dàn
đồ bắc cấu trổi điệu nhạc. Các chấp sự và hương chức có phận sự đi
tiên phong ở trên bè nhỏ này. Khi đi rước, trống chiêng, bắc cấu
đánh lên rập ràng, inh ỏi. Hai bên bờ sông, mỗi nhà đặt trước cửa
một bàn hương án, đèn nhang nghiêm chỉnh, để tỏ lòng thành kính của
mình đối với thần linh. Dưới sông ghe xuồng của hương chức đi hầu hạ
đông nghẹt và những người hiếu kỳ
chèo ghe theo để xem chật ních cả khúc sông. Sắc thần sẽ được để
vào Long đình là ngôi đình thu nhỏ, thường làm bằng gỗ, chạm trổ và
sơn son thếp vàng – qua một cửa nhỏ ở bên hông, để rước về đình.
Long đình đặt trên bàn do bốn người ăn mặc như lính hầu khiêng kiệu.
- Đi sau bè thủy lục hoặc long đình là những người theo kiệu, các
thành viên trong hội đình hoặc dân làng đi theo để thỉnh sắc.
-
- “Khi đám rước đến nơi giữ sắc thần thì các vị chức việc vào tế
một tuần hương, ba tuần rượu, đọc một bài văn tế (hay
khấn cũng được), gọi là lòng văn nghinh, ngắn gọn, rồi chức việc
đứng đầu bưng hộp đựng sắc trao cho chánh hội (hay chánh ban quí
tế…) để ông đem ra đặt vào long đình, để đưa sắc về đình.
- Đến đình, cử hành một nghi thức an vị: tế một tuần hương, ba
tuần rượu và một tuần trà. Sau lễ này, các chức việc dâng hương ra
mắt thần theo sự chỉ đạo của lễ sinh xướng. Trong thời gian sắc thần
để ở đình, dân chúng đến lễ bái và dâng hoa quả, bánh trái và tiền
bạc góp phần tài chính cho việc tế lễ kỳ yên.
-
- Sắc thần được để tại đình ba ngày lễ và đến chiều ngày cuối cùng
lại đưa sắc thần về nơi cất giữ gọi là lễ hồi sắc. Nghi hồi sắc: tế
một tuần hương, ba tuần rượu, một tuần trà, đọc một bài văn tế gọi
là lòng văn tống. Nghi trượng hồi sắc giống như nghi trượng thỉnh
sắc. Khi sắc tới nơi cất giữ cũ lại cử hành lễ an vị: một tuần hương,
ba tuần rượu, một tuần trà. Sau đó đám rước tự giải tán để cử hành
nghi lễ cúng đưa khách, nếu có”.
-
- Ngày nay, nghi thức thỉnh sắc thần vẫn còn. Ở Cần Thơ, một số
địa phương vẫn để sắc thần tại đình. Đến kỳ tế lễ, người ta có lệ
thỉnh sắc thần đi “du ngoạn”. Trong buổi cúng, người ta dâng phẩm
vật cùng trà rượu, dâng hương khấn vái xin phép thần ngay bàn thờ
thờ Thần, sau đó lấy hộp sắc ra để vào xe rước, gọi là long xa phụng
tán, rồi đưa Thần đi một vòng quanh các phố chợ. Mục đích của chuyến
“du ngoạn” này là để Thần thưởng ngoạn khắp nơi, đồng thời xem xét
cuộc sống của dân tình để Thần có những biện pháp bảo trợ cho phù
hợp. Sau đó quay về làm lễ an vị sắc thần, coi như đám rước đã xong./.
TRẦN PHỎNG DIỀU
Lễ hội Kỳ yên Thượng điển
hút khách thập phương

(Ảnh minh họa: Thanh Tùng/TTXVN)
Lễ hội Kỳ yên Thượng điền - một trong những lễ
hội đình lớn nhất tại Cần Thơ và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long -
sẽ diễn ra trong ba ngày từ 21-23/5 (nhằm ngày 12-13-14 tháng Tư âm
lịch).
Đình Bình Thủy còn có tên là "Long Tuyền Cổ Miếu" tọa lạc tại
phường Bình Thủy, quận Ninh Kiều, cách thành phố Cần Thơ 4km
trên quốc lộ 1A Cần Thơ đi An Giang.
Đình được xây dựng cách đây 161 năm, được sắc vua Tự Đức ban là
"Bổn Cảnh Thành Hoàng" vào năm 1852, hiện xếp vào hàng cổ
kính của Đình chùa Việt Nam, có mỹ quan kiến trúc nghệ thuật
đặc sắc.
Trong ba ngày diễn ra Lễ hội Kỳ yên Thượng điền, khách thập
phương và nhân dân trong thành phố Cần Thơ tấp nập lễ vật, hương
đăng, cờ hoa rực rỡ về dự lễ cúng đình rất đông vui.
Toàn bộ kinh phí tổ chức lễ hội đều được xã hội hóa. Chín lễ và chín
hội diễn ra trong suốt ba ngày đêm như lễ đưa sắc thần du ngoạn,
lễ tếthần nông, lễ thay khăn sắc thần, lễ dâng tế, lễ túc yết,
hội hát xếp, hát tuồng, cải lương, múa rồng, ẩm thực và các trò
chơi dân gian, thu hút hàng chục ngàn lượt người đến dự hội.
Lễ hội Kỳ yên Thượng điền ở Đình Bình Thủy Cần Thơ được duy trì
thường niên, là một trong nhiều lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa
truyền thống của miền đất Nam Bộ Việt Nam.
Lễ hội năm nay do Sở Văn hóa Thông tin thành phố Cần Thơ, Ban quản lý
di tích văn hóa lịch sử thành phố, Ban quản trị Đình Bình Thủy
phối hợp với nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương long trọng tổ chức./.
Trần Khánh Linh (TTXVN)
-
Đình Phú Lễ cúng Kỳ yên năm
2013
- Ngày đăng: T5, 02/05/2013
-
- Trong 2 ngày 27 và 28/4/2013 (nhằm ngày 18 và 19 tháng 3 năm Quý
Tỵ) Đình Phú lễ (Ấp Phú Khương, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri) đã tổ chức
lễ hội kỳ yên, cầu quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, vạn gia
thịnh vượng,..
-
- Đình Phú Lễ được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826), trên
cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá, được sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5
(1851). Thềm và móng được cấu trúc bằng đá xanh, bên trên xây gạch.
Đình gồm 10 gian: 6 gian chính và 4 gian phụ bố trí theo lối chữ “Đinh”.
Đình chính gồm võ ca, viên đường, thính đường, chánh đường và hậu
đường. Cột đình bằng gỗ lim, đường kính 40cm, mái lợp ngói vảy
cá.Căn cứ vào bia còn lưu lại tại đình cho biết niên đại xây đình
vào năm Minh Mạng thứ 7(1826) trên cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá, được
sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5(1851). Thềm và móng được cấu trúc
bằng đá xanh, bên trên xây gạch. Đình gồm tất cả 10 gian: 6 gian
chính dính liền với mái và 4 gian phụ bố trí theo lối chữ “Đinh”.
Đình chính gồm võ ca, viên đường, thính đường, chánh đường và hậu
đường. Cột đình bằng gỗ lim, đường kính 40cm, mái lợp ngói vảy cá.
-
- Đình Phú Lễ là đình có quy mô lớn (diện tích 7.929m2) và đẹp vào
bậc nhất của các làng quê ven biển Bến Tre. Đình nằm trong khuôn
viên rộng, dưới bóng mát của nhiều cây cổ thụ làm tôn lên vẻ uy
nghiêm trầm mặc vốn có của đình. Qua thời gian và chiến tranh các
công trình và hiện vật bài trí bên trong đình như hương án, hoành
phi, cuốn thư, bình phong, bao lam,… đã bị xuống cấp và hư hỏng
nhiều. Tuy nhiên, những phần cơ bản về kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn
không bị bom đạn tàn phá, đặc biệt những tác phẩm nghệ thuật điêu
khắc gỗ sơn son, thếp vàng còn lưu giữ được đến hôm nay.

Ban Khánh tiết đình Phú Lễ đang thực hiện nghi thức
cúng Kỳ yên. Ảnh T.H.H.
Ngày 07/01/1993, đình Phú Lễ được Bộ văn hóa Thông
tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích kiến
trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hàng năm, lễ hội tại đình Phú Lễ diễn ra
hai lần: Lễ Kỳ yên vào 18-19 tháng 3 âm lịch để cầu mưa thuận gió hòa,
và lễ Cầu bông vào ngày 9 - 10 tháng 11 âm lịch cầu cho mùa màng tươi
tốt. Lễ hội có rước sắc thần, lễ tế Thành Hoàng, tế Tiền hiền, Hậu hiền
(khai khẩn, khai cơ), các gian hàng trưng bày sản phẩm và tổ chức các
trò chơi dân gian. Đêm hội có hát bội, ca nhạc tài tử và hát cải lương.
Trần Hoàng Huấn
Lễ kỳ yên đình Phú Nhuận – TP HCM
 |
Ảnh: Internet |
(Cinet) - Lễ kỳ yên đình Phú Nhuận, được tổ chức
vào khoảng 16-18 tháng 01 âm lịch hàng năm, tại 18 đường Mai Văn Ngọc
phường 10, Phú Nhuận TP Hồ Chí Minh. Trong lễ có các nghi thức tụng kinh
cầu an, lễ tế, nghi thức tôn vương và hồi chầu nhằm suy tôn Phật, thần,
các vị tiền hiền, hậu hiền.
Hiện nay, còn nhiều ý kiến khác nhau, về thời gian
thành lập đình Phú Nhuận, nhưng ý kiến được nhiều người ủng hộ nhất, là
đình được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Qua các tài liệu Hán Nôm trong
đình cho thấy, mốc thời gian sớm nhất, mà đình được ghi chép bằng văn tự
là sắc phong của vua Tự Đức ban cho vào năm 1852. Đó là văn bản cổ xưa
nhất, xác định danh tánh ngôi đình, chính vì vậy, nhiều người đã lấy mốc
xây dựng đình là năm 1852, bởi họ chưa tìm thấy một bằng chứng nào chắc
chắn hơn.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến khác cho rằng: Đình Phú
Nhuận được tái thiết vào năm 1852, nghĩa là đình đã có từ trước đó. Theo
di tích còn lại hiện nay, là một cây đòn võng trên nóc đình có khắc chữ
Hán " Tự Đức ngũ niên ", nghĩa là năm Tự Đức thứ năm - tức năm 1852.
Đình được tái thiết, vì lúc đầu, nằm ở vị trí khác, bên bờ một con kinh
đào (đã lấp), bên cạnh chùa Cây Sai (chùa Phú Thạnh) trên con đường
Huỳnh Văn Bánh hiện nay. Vào khoảng giữa thế kỷ 19, dân cư bắt đầu quy
tụ về vùng Phú Nhuận, phần lớn, họ thuộc gia đình binh sĩ vào đóng ở
trấn Phiên An, hoặc di dân từ "đàng Ngoài" vào. Ông Lê Tự Tài, quê ở Bắc
Bộ vào Gia Ðịnh rất sớm, có công huy động dân khẩn hoang, lập ấp ở quanh
vùng cầu Kiệu. Ông Tài, từng là thôn trưởng thôn Phú Nhuận và trở thành
Xã trưởng, khi Phú Nhuận đổi thành xã, do đó, người ta quen gọi ông là
xã Tài. Nhận thấy đình Phú Nhuận, trước kia nằm ở vị trí vùng trũng, gần
rạch Thị Nghè, thường bị lầy lội vào mùa mưa nên xã Tài hiến cho làng
Phú Nhuận hai mẫu đất trên gò Kim Qui, để dời đình về vị trí hiện nay.
Theo các tài liệu hiện có ở đình, năm 1852 khi mới
tái thiết, đình Phú Nhuận, do hội tề làng Phú Nhuận quản trị, kinh phí
xây dựng do quỹ làng xuất ra và một phần do dân làng tự ngyện đóng góp.
Lễ Kỳ yên bắt đầu bằng nghi thức tụng kinh cầu an
của Phật giáo, tiếp theo là phần múa lân và biểu diễn võ thuật cổ truyền,
các nghi thức tế thần, tế tiền hiền, hậu hiền. Buổi tối có phần xây chầu,
đại bội và hát bội. Ngày thứ hai và thứ ba có nghi thức tế nam quan, nữ
quan theo truyền thống Bắc bộ. Chấm dứt lễ hội là nghi thức tôn vương và
hồi chầu theo truyền thống các đình Nam bộ./.
Cinet tổng hợp
Lễ Hội Kỳ Yên Vĩnh Long

Lễ Hội Kỳ Yên: Chương trình lễ kỳ yên thường kéo
dài hai ngày một đêm, gồm có các nghi lễ chính là: lễ thỉnh sắc thần; lễ
tế Thần Nông, cúng miễu, liệt sĩ; lễ Túc yết; lễ Chánh tế; lễ cúng Tiền
hiền, Hậu hiền, Hội viên quá vãng; lễ đưa sắc thần. Mục đích của lễ kỳ
yên là tế thần thành hoàng để cầu quốc thái dân an, xóm làng thịnh vượng,
no ấm.
Các đình đều thờ Tiền hiền, Hậu hiền là những người có công quy dân lập
làng hoặc bỏ tiền của xây dựng các công trình phúc lợi công cộng đầu
tiên để lại gương soi cho đời sau. Cho nên nói chung, lễ kỳ yên mang ý
nghĩa là ngày giỗ hội của làng.
Các nghi lễ thường giống nhau, gồm một tiết mục dâng hương, ba lần dâng
rượu, một lần dâng trà. Cuối một nghi lễ đều có một bài văn tế thay cho
lời khấn, nội dung gồm những lời tán dương thần thánh và lời cầu nguyện
của dân làng. Khi tế lễ phải có dàn nhạc cụ gõ nhịp gồm: mõ, chiêng,
trống, chuông.
Trong thực tế, ở lễ kỳ yên thì phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần
“hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ
riêng có thần Thành hoàng bổn cảnh.
Lễ kỳ yên là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện gia đình yên ấm, vui
chơi. Xưa kia, ở các đình còn có tục cứ ba năm đáo lệ tổ chức hát bội,
cúng thần giúp vui bá gia, bá tánh. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình
cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ kỳ yên không phải là văn nghệ
bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội
dung đạo lý, kết thúc có hậu.
Lễ kỳ yên còn là dịp để các nghệ nhân thể hiện sự khéo léo như chưng hoa,
kết quả. Buổi lễ cũng là dịp cho người làm vườn giới thiệu các loại cây
trái mới, người làm ruộng giới thiệu các giống nếp ngon qua tài nữ công
của chị em phụ nữ. Tuy nhiên, tiệc tùng trong ngày lễ kỳ yên chỉ mang
tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu
dưới” nhậu nhẹt say sưa. (internet)
Lễ hội Kỳ Yên ở đình Gia Lộc
– Tây Ninh
Theo Địa chí Tây Ninh, cách đây trên 300 năm, những
người dân Việt đầu tiên đã tiến về phương Nam, khai phá đất đai ở lưu
vực sông Vàm Cỏ Đông, lập nên những khu dân cư mới. Khu Bình Tịnh –
Phước Lộc là khu đất đầu tiên của Tây Ninh được khai phá và làng Bình
Tịnh, xã An Tịnh, làng Gia Lộc, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng là
2 làng cổ nhất của Tây Ninh.

Trong tiến trình khai hoang, lập ấp ở Trảng Bàng,
ông cả Đặng Văn Trước là người có công lớn. Để ghi nhớ ơn ông, nhân dân
trong làng đã xây đền thờ ông, rồi tôn ông làm Thành hoàng làng, thờ tại
đình Gia Lộc, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng. Hàng năm, nhân dân
tổ chức lễ hội tại đình, hay còn gọi là lễ cúng đình, lễ Kỳ Yên, từ ngày
14 đến 16 tháng 3 (Âm lịch), để cầu nguyện cho mưa thuận gió hoà, một
năm an lành, mùa màng bội thu, cũng là để kỷ niệm ngày ngày mất của ông.
Theo các bậc cao niên, từ năm 1926, sau khi đình
được trùng tu, lễ kỳ yên ở đình Gia Lộc đã được tổ chức liên tục cho đến
ngày nay, trở thành nề nếp sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của người dân
đất Trảng.
Lễ hội được tổ chức tại đền Ông cả Đặng Văn Trước
và đình Gia Lộc. Vào 6 giờ sáng ngày 14 tháng 3, dân làng tiến hành làm
lễ thỉnh sắc thần từ đền Ông cả về đình Gia Lộc. Sau khi Trưởng ban nghi
lễ niệm hương xin thỉnh hàm ấn, Chánh lễ lấy sắc thần được bọc bằng vải
hay lụa đỏ đựng trong một chiếc ống thiếc có nắp đậy, trải sắc ra, bọc
cuốn lại bằng khăn điều mới, rồi đặt lên kiệu. Kiệu trang hoàng lộng lẫy,
sơn son thếp vàng, do 4 lính thú khiêng. Đi theo kiệu có 2 Đào thài, 2
Trò lễ, dàn nhạc, quân hầu cầm 16 binh khí, tàn, lọng. Việc thỉnh sắc
thần thể hiện lòng tôn kính, niềm tự hào của dân làng đối với Thành
hoàng làng. Đoàn người tham gia lễ thỉnh sắc thần kéo dài hàng cây số.
Dẫn đầu là lân, rồng, kế đến là ngựa có đai, yên phủ vải đỏ, có lính thú
dẫn đường.
Sắc thần được rước vào đình, tiến hành cúng an vị,
cúng tiền vãng (cúng những vị có công xây dựng đình).
Sau cúng tiền vãng là lễ túc yết (lễ xin ra mắt,
yết kiến, một trong những nghi lễ không thể thiếu trong lễ kỳ yên). Phẩm
vật chính bao gồm : 2 con heo quay, 1 con heo sống để tưởng nhớ thời ông
cha ăn lông, ở lỗ, xôi, bánh trà, hoa, rượu… Sau khi trống đổ ‘tiếp giá
nghinh thiêng’, trên nền nhạc Nam xuân, Nam ai, Đảo ngũ cung, có Đào
thài, 14 học trò lễ lần lượt dâng cúng 3 tuần rượu, 1 tuần hương, 4 tuần
trà. Học trò lễ cung kính dâng lên các vị thần lễ vật bày tỏ lòng tri ân
của nhân dân đối với Thành hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền, những người có
công mở mang bờ cõi, có công xây dựng đình như hôm nay. Trong lễ túc yết,
lễ thức quan trọng là phần khấn nguyện, ngưỡng vọng linh thần, Thành
hoàng bản cảnh xã Gia Lộc - Ông cả Đặng Văn Trước. Tiếp đến là nghi lễ
ẩm phước, phân phát lộc của các vị thần đến các ông Chánh tế, Bồi tề,
Đông hiến, Tây hiến.
Trong lễ kỳ yên, lễ xây chầu - đại bội (chầu hát
cầu mùa màng bội thu) là lễ thức quan trọng. Xây chầu không thể thiếu
trống chầu. Người xây chầu là người cao tuổi, thể hiện sự trường thọ,
người có đạo đức và nắm rõ nghi thức hành lễ. Trống chầu ở đình Gia Lộc
là loại trống đại, có từ lâu đời. Cụ Nguyễn Văn Kềm, 88 tuổi, đã trông
nom đình 45 năm cho biết, lúc nhỏ đến chơi ở đình đã thấy trống chầu này.
Trống chầu phải được đặt đúng hướng, đúng luồng sinh khí để tránh những
điều kỵ với chủ tế. Trống trở thành thái cực linh thiêng. Vì vậy, không
ai được bước lên sân khấu, hoặc trải chiếu dưới trống. Người ta tin rằng,
tiếng trống thái cực đêm khuya chẳng những làm cho thông thiên triệt địa,
khiến cho hoàng thiên hậu thổ, thánh thần cảm ứng, mà còn tiêu diệt
phiền não và khổ ải, đem lại sự an lạc, hòa ái. Tiếng trống sẽ xua tà
ma, yêu quái tránh xa, biến mất. Tiếng trống còn có một sinh lực thức
tỉnh con người, tránh xa những điều xấu, đoàn kết làm những điều lành
cho quốc thái dân an.
Lễ cúng đình thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn,
sự gắn kết cộng đồng, không chỉ trên địa bàn của xã Gia Lộc, của huyện
Trảng Bàng, mà còn có ảnh hưởng lan toả trong và ngoài tỉnh. Lễ hội còn
lưu giữ được các lễ thức xưa, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc; nhiều trò chơi dân gian, trò diễn của đình Nam Bộ được lưu giữ như:
hát bội, chọi gà, kéo co, nhảy bao bố, thi kết hoa, trái, làm bánh tráng
phơi sương, nấu bánh canh Trảng Bàng… Với những giá trị lịch sử, văn hóa
và khoa học đặc sắc của lễ hội, năm 2012, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch đã quyết định đưa Lễ hội Kỳ yên ở đình Gia Lộc vào Danh mục
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Lễ hội truyền thống.
Dương Anh (Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di
sản văn hóa)
Lễ Kỳ Yên
ĐÌNH LONG THÀNH – Tây Ninh
1. Tên di tích: Đình long thành
2. Loại công trình: Đình
3. Loại di tích: Lịch sử
4. Quyết định: Đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia
theo quyết định số 1430 QĐ/ BT ngày 12 tháng 10 năm 1993
5. Địa chỉ: Xã Long Thành Nam - Huyện Hòa Thành - Tỉnh
Tây Ninh.
6. Thông tin về di tích
Cách đây 161 năm, vùng đất “ Ngũ Long”: Long Giang, Long Khánh, Long
Chư,õ Long Thuận, Long Thành, được cha ông khai phá lập nên những ruộng
lúa, vườn rau. Trãi qua các thế hệ nối tiếp nhau đã xây dựng nên vùng
đất Long Thành trù phú, sầm uất, dân cư đông đúc, xây dựng cuộc sống an
bình thịnh vượng như ngày nay.
Hôm nay đứng trước đình thần uy nghi trầm mặc chúng ta kính cẩn nghiêng
mình dâng hương trong Lễ Kỳ Yên tưởng nhớ và ghi ơn ông cha ta đã một
thời đầu trần chân đất, khai phá rừng hoang, đặt dấu ấn đầu tiên của
người Việt bằng cách xây dựng ngôi đình làng. “Đình Long Thành” được
khởi công vào năm 1883 (năm Tự Đức thứ 36) thờ vị tiền hiền có công cùng
nhân dân khai hoang mở đất (cụ Trần Văn Thiện và những người đương thời).
Cụ Trần Văn Thiện sanh năm Ất Mão (1795) tại làng Trung Lập, phủ Bình
Long, tỉnh Gia Định. Vào năm Thiệu Trị nguyên niên 1841 cụ làm thôn
trưởng Thôn Trung Lập. Đến năm 1844 cụ xin thôi làm Trưởng Thôn và cùng
thân sinh là Trần Văn Quế đi kinh lý vùng đất Tây Ninh. Ngược sông Vàm
Cỏ Đông, thấy đất hoang rừng rậm nhiều, không người khai phá, cụ dừng
lại vùng Bến Cầu và di dân lập ấp, vì nơi đây tiện sông nước kênh rạch,
đất đai màu mỡ. Trãi qua năm tháng cần mẫn phá rừng, khai hoang, tháo
chua, rửa mặn, dân cư ngày càng đông đúc. Bến cầu còn gọi là chợ Cầu là
trung tâm giao dịch, buôn bán trao đổi sản vật, chợ họp trên sông, tấùp
nập trên vùng đất mới gồm 04 xã Long Giang, Long Khánh, Long Chử, Long
Thuận.
Sau khi cụ thân sinh qua đời năm 1844. Cụ Trần Văn Thiện và một số người
cùng chí hướng tiếp tục khai phá vùng đất mới. Cụ tập họp dân mở đất từ
Rạch Rể đến rạch Cái Răng. Sau nhiều năm diệt thú dữ, đốn cây rừng lấy
củi, lấy dầu chai và lâm sản đóng thuyền, ghe một vùng đất mới Long
Thành được mở rộng. Những ruộng lúa vươn dài từ Bàu Sen (phía Đông), Bàu
Đưng (phía Tây), Bàu Cây Cám phía Bắc).
Vào năm Thiệu Trị thứ 4 ngày 11–07–1844 Long Đình Thôn ( nay là Long
Thành)Thái Định Long Thôn (nay là Hiệp Ninh) được thành lập. Hai năm sau
–năm 1846- Long Thới Thôn, Thái Bình Thôn, Thái Hiệp Thôn là 3 làng xung
quanh Phủ Tây Ninh được lập ra. Trong vòng 10 năm sau, từ Ngũ Long, đến
Thái Đình, Thái Bình, Thái Hiệp, Long Thới đã có trên 08 làng nữa được
lập ra.
Để giữ gìn biên cương cụ Trần Văn Thiện đã qui tụ dân nam lên ngã ba Vàm
Trảng Trâu – Lò Gò lập nên Long Phú Thôn, vừa lao động khai hoang, vừa
chiến đấu với giặc để giữ đất. Nhân dân trong vùng dưới sự chỉ huy của
cụ Trần Văn Thiện lập ra một đội dân binh với gươm, giáo… cùng với tinh
thần thượng võ đă đánh tan nhiều trận cướp phá của thổ dân Cao Miên……
Đội dân binh thường xuyên luyện tập võ nghệ, phân tán nhỏ, vừa sản xuất
vừa chiến đấu ( tịnh vi nông, động vi binh ) để giữ gìn an ninh cho dân
thôn xóm.
Dân chúng công cử và được quan tri huyện cử cụ Trần Văn Thiện giữ chức
cai tổng Hòa- Ninh từ ngày 08 tháng 10 năm Mậu Thân 1848 ( năm Tự Đức
nguyên niên). Cụ chống lại sưu cao, thuế nặng và phản đối quan lại địa
phương chuyên quyền, bốc lột, đàn áp dân chúng. Nhiều lần đệ đơn xin ân
xá các tội phạm trong ngục tù, khuyến khích tội phạm ra đầu thú, rồi tổ
chức họ mưu sinh, lập nghiệp lương thiện làm ăn.
Tuy tuổi đã cao, cụ vẫn một lòng giúp dân khai khẩn đất đai lập nghiệp
và giữ đất. Suốt 40 năm cùng nhân dân khai phá đất Tây Ninh tạo nên một
vùng đất đai bên bờ sông Vàm Cỏ chạy dài từ Cẩm Giang qua phủ Tây Ninh
dọc theo đường xuống đến Vàm Trảng Trâu – Lò Gò. Cụ đã để lại cho đời
sau biết bao công đức, tính kiên trì, nhẫn nại, vượt bao khó khăn hiểm
nguy.
Cụ qui tiên ngày 18-09-1883 ( thọ 89 tuổi)- năm Tự Đức thứ 36, nhân dân
dịa phương vô cùng thương tiếc, chôn cất cụ tại Bến Kéo và lập ngôi đền
thờ tại nơi đây.
Một sự kiện lịch sử lớn lao cũng đã xảy ra nơi đây, đó là vị anh hùng
dân tộc Trương Quyền. Năm 1886 nghĩa binh của Bình Tây Đại Nguyên Soái
dưới sự chỉ huy của Trương Quyền đã tiến quân đánh thẳng vào Đồn Thuận
Kiều ( Chợ Lớn), đánh tan quân Pháp ở Bà Điểm-Hóc Môn, vượt lên phá giăc
ở Củ Chi, Trảng Bàng, rồi lập căn cứ kháng chiến ở An Cơ. Tại đây trong
tháng 6 năm 1886 nghĩa quân Trương Quyền đánh 3 trận lớn, giết tỉnh
trưởng Laccơ Laugiơ, quan năm Macse Giơ và thừa thắng đánh thẳng vào
tỉnh lỵ Tây Ninh, phá nhiều công sở, trại lính Pháp. Sau đó ông phân tán
nghĩa quân hoạt đông khắp miền đông và miền tây Nam Bộ. Trương Quyền trở
về Bến Kéo ( Long Thành) dưỡng bệnh và tạ thế ở đây vào ngày 20-08-1871.
Suốt gần 150 năm, sinh phần cụ Trần Văn Thiện và Trương Quyền được nhân
dân chăm sóc hương hoa, gìn giữ nơi an nghỉ của hai vị có công lớn với
dân, với nước.
Đình Long Thành (xã Long Thành Nam, Huyện Hòa Thành ) đã được Bộ Văn Hóa
Thông Tin công nhận là “ Di tích lịch sử văn hóa”. Mong rằng nhân dân
chúng ta hãy xứng đáng với Tổ Tiên ngày trước, bảo vệ và phát huy truyền
thống lao động để xây dựng cuộc sống mới ngày càng phồn vinh, hạnh phúc,
an khang và thịnh vương.
Nguồn:
ditichlichsuquocgia.violet.vn/
Nguồn: Internet |