|
- Trích từ
http://hanoi.vnn.vn/chuyen_de/
- Đu bay
Chơi đu từ lâu đời đă trở thành tṛ chơi dân gian trong các lễ hội chốn
làng quê. Đại Việt sử kư toàn thư có ghi: "Vào thời lư, hàng năm cứ đến
mùa xuân, tháng giêng, con trai, con gái họp nhau đánh đu...". Chơi đu phổ
biến nhất ở vùng châu thổ Bắc Bộ, mà chủ yếu là dọc đôi bờ sông Đuống.
Trên đất Hà Nội, đó là ở các làng xă Cổ Loa, Dục Tú, Liên Hà, Ninh Hiệp,
Kim Sơn, Vĩnh Quỳnh, Tứ Hiệp, Mễ Tŕ...
Đu có nhiều loại, nhiều cách chơi, nhưng thông thường là đu bay. Gọi thế
v́ nó đưa người chơi bay bổng lên không trung, cao hàng chục mét, đến lúc
toàn thân như nằm ngang song song với mặt đất. Cây đu-có nơi gọi là đàn đu
- được dựng trên một vùng ruộng gần đ́nh, đă gặt hái chỉ c̣n chân rạ, khô
ráo, rộng, để người xem có thể quây cả bốn bề. Chọn tre đực bánh tẻ, trồng
4,6 hoặc 8 cột thành hai hàng theo thế h́nh vuông, chụm đầu lại nhau như
gọng vó, kết cấu bằng những then ngang. Đỉnh đu cột, đặt ngang một đoạn
tre thon thả rồi buộc chặt bằng dây thừng. Đó là xà đu, có hai cái gông để
nối với tay đu. Tay đu phải t́m hai cây tre thuôn, róc nhẵn mấu, vừa tay
nắm, độ dài vừa phải, cách mặt đất đủ cho người chơi nhảy được lên bàn đu.
Đẻ bảo đảm an toàn cho người đu, cây đu phải làm rất cẩn thận, chắc chắn;
tre đúng tuổi, non th́ yếu, già lại kém đàn hồi, không được có đốt kiến
pḥng gẫy. V́ vậy trồng xong cây đu phải niêm phong lại, mời một già làng
có kinh nghiệm kiểm tra chất lượng kỹ càng. Nếu thấy cây đu đă đủ tiêu
chuẩn, cụ gỡ niêm phong, một hồi trồng vang lên, cụ chấp tay vái bà con
rồi thay mặt cộng đồng lên khai đu, mở màn phấp phới gọi trai gái vào cuộc
đua.
Người chơi phải mặc áo hội hè, nai nịt gọn ghẽ. Con trai áo quan trang nhă,
lưng thắt bao điều. Con gái áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ giữ tóc khỏi
bung, mang bao xanh hoa lư.
Có thể chơi đu (một người) hoặc đu kép (hai người ), thường là một đôi
trai gái vừa sức nhau, có hẹn trước, mới tạo được thú vui sôi nổi, hào
hứng cho cả người "lên đánh", kẻ "ngồi xem".
Hai người bước lên bàn đu, mặt đối nhau, rồi nhún chân ḥa nhịp tạo nên sự
cộng lực đưa đu dao động từ thấp lên cao dần, cao dần như quả lắc đồng hồ
- tượng trưng cho nhịp tuần hoàn của vũ trụ. Càng nhấn mạnh, nhún đều th́
đu càng bay bổng, đúng như miêu tả trong thơ của Hồ Xuân Hương.
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa ḷng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song...
Có lúc đôi trai gái tưởng như chồng lên nhau làm người xem reo ḥ tán
thưởng ầm ĩ, rộn một góc trời. Nhún thêm cho đến lúc tay đu nằm thẳng
ngang, đạt độ cao tột đỉnh, họ vừa hăm tốc độ, vừa buông một tay ra khỏi
đu giật giải thưởng của làng buộc trên đầu cần câu ở đỉnh cột đu. Lấy giải
là giai đoạn "thắt nút" căng thẳng nhất của cuộc chơi, đ̣i hỏi phải b́nh
tĩnh, gan dạ, thông minh, phối hợp đồng bộ, làm sao giật chắc được giải,
v́ nếu đứt rơi dưới đất cũng không được. Phút giây ấy làm cho hàng trăm,
ngàn trái tim dưới đất cũng hồi hộp, lo lắng cho cặp đu, mong cho họ đạt
kết quả sau bao ngày bền bỉ rèn luyện để có sức khoẻ dẻo dai mà lên đu
cùng bạn. Những ai thần kinh không vững, chóng mắt đều không thể tham gia
tṛ chơi này.
Trống hội xuân đang giục giă. Cờ hội bay lượn trong gió. Những cây đu phấp
phới tà áo dài, thắt lưng xanh, đỏ như thôi thúc vẫy gọi chúng ta.
Dân Quang
|