|
Nghệ thuật trong nặn ṭ he
Nguồn: Việt Nam Cây Đa
Ai đă có một tuổi thơ gắn bó với Hà Nội, một tuổi thơ luôn luôn đầy ắp
những kỉ niệm của hàng sấu, của tiếng ve kêu, của hương hoa sữa và của
những buổi chiều cốm thu mát rượi th́ ắt hẳn cũng sẽ không bao giờ có
thể quên được Ṭ He. Trẻ con ai mà chẳng thích những con công, con
phượng đầy màu sắc, những ông Quan Công, Trương Phi sống động dưới bàn
tay của các ông nặn Ṭ He. HHGER lúc bé cũng rất thích mỗi khi bố mẹ mua
cho một cái que Ṭ He như thế. Chúc mọi người thật vui khi đọc bài viết
này, như là một món quà thật gần gũi với bất cứ những ai sinh ra và lớn
lên ở đất Thăng Long ngàn năm Văn Hiến.
Làng Xuân La, huyện Phú Xuyên (Hà Tây) là nơi có truyền thống nặn ṭ he.
Theo lời một cụ già trong làng, nghề nặn ṭ he có lịch sử hơn 300 năm.
Nhưng đến nay, không phải ai cũng biết rơ về cái nghề đă được không ít
bạn bè quốc tế biết đến này.
Trước kia làng Xuân La là cánh đồng chiêm trũng, một năm chỉ cấy được
một vụ lúa. Thời gian c̣n lại rỗi răi, một số người đă nặn những h́nh
con c̣, con chim, con gà... bằng đất, nung qua lửa rồi cắm vào đó chiếc
kèn và bán cho các cháu nhỏ làm đồ chơi. Khi cuộc sống nhà nông được no
đủ, có thóc gạo để dành, họ đă chuyển từ nặn bằng đất sang nặn bằng bột
gạo. H́nh dáng của những thứ được nặn cũng đa dạng hơn.
Từ những con vật cụ thể như voi, ngựa, chim, gà, lợn... đến những con
vật chỉ có trong trí tưởng tượng của con người như rồng, phượng, hạc...
rồi đến những h́nh người cụ thể như em bé, cụ già, cô gái..., những nhân
vật cổ tích, thần thoại như Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng, Bồ Tát
ngh́n tay... Đồ vật th́ có mâm xôi, mâm ngũ quả, phẩm oản, nải chuối,
buồng cau, thủ lợn... chủ yếu phục vụ việc lễ bái ở đền chùa của bà con.
Đặc biệt mỗi dịp trung thu tới, dưới ánh trăng vằng vặc, sản phẩm dân dă
ấy đă làm rạng niềm vui trên những khuôn mặt trẻ thơ nông thôn khi phá
cỗ. Trẻ con rất thích ṭ he. Bởi ṭ he có những h́nh dáng, mầu sắc bắt
mắt và khi chơi chán chúng có thể ăn được.
Người nặn ṭ he có một nguyên tắc của ḍng họ là chỉ truyền cho con trai
và con dâu. Nặn ṭ he có nguồn gốc lâu đời nhưng do tư liệu chép đă bị
cháy nên không t́m ra được ông tổ nghề. Hơn nữa, trong làng có rất nhiều
ḍng họ: Đặng, Nguyễn, Vũ, Lê, Chu, Trịnh... mà họ nào cũng biết nặn ṭ
he. V́ thế chức danh ông tổ nghề được phong cho ḍng họ nào cũng xứng
đáng cả.
Để nặn ra ṭ he chỉ cần những nguyên liệu rất đơn giản, gần gũi với cuộc
sống nông dân. Đó là những sản phẩm nông nghiệp do chính bàn tay họ làm
ra: bột gạo, phẩm mầu, que tre.
Giai đoạn làm bột là giai đoạn công phu nhất. Bột được làm từ gạo nếp
trộn với gạo tẻ nghiền nhỏ. Nhào bột với nước cho đến khi bột nhuyễn,
quyện dính vào nhau, vê thành cục. Cho cục bột vào nồi nước đang sôi để
một giờ đồng hồ đến khi bột nổi, ch́m rồi lại nổi th́ vớt ra, để nguội
bột, và nhuộm màu cho bột.
Màu sắc dùng để nhuộm bột cũng lấy từ cây nhà lá vườn: mầu xanh từ lá
cây, màu đỏ của gấc, mầu vàng từ nghệ, mầu đen từ tro bếp, màu tím từ
một loại lá của người dân tộc thiểu số... Điều đáng nói ở đây là mầu rất
bền, không bị loang ra. Màu nào vẫn giữ nguyên màu đó khi ta đem trộn
lẫn chúng vào nhau.
Những người làm nghề đều thừa nhận nặn ṭ he không phải là nghề có thể
làm giàu được. Muốn làm giàu th́ t́m nghề khác có thu nhập cao hơn. Ở
các vùng nông thôn, mỗi sản phẩm dù có được nặn công phu bằng mấy cũng
chỉ bán được với giá từ 500 đến 1.000 đồng. Ở các thành phố - nơi có mức
sống cao hơn th́ c̣n được từ 1.500 đồng đến 2.000 đồng một sản phẩm.
Những người c̣n hoạt động trong nghề thường không sống ở quê hương mà
phải đến các tỉnh, thành phố khác. Họ sống một cuộc sống nay đây mai đó
v́ muốn giữ nghề của tổ tiên.
Nghệ nhân cao tuổi nhất trong làng là cụ Đặng Văn Tố. Cụ được Bộ VH-TT
phong là nghệ nhân dân gian. Tháng 6 vừa qua, cụ đă vinh dự được mang
nghề truyền thống của quê hương đại diện cho Việt Nam tham gia "Những
ngày văn hóa Việt Nam" tại Nhật Bản. Nghề nặn ṭ he đă được đông đảo bạn
bè quốc tế biết đến.
Sưu Tầm
|