Những lễ tục thi dân
gian
|
Ðu |
|
Múa
Mộc |
|
Ném
Cầu |
|
Nu na nu nống |
|
Thả
đỉa ba ba |
|
. |
Nhún đu
Trong các ngày hội, các làng
thôn thường trồng một vài cây đu ở giữa thửa ruộng gần đình để trai gái
lên đu với nhau.
Cây đu được trồng bởi bốn,
sáu hay tám cây tre dài vững chắc để chịu đựng được sức nặng của hai
người cùng với lực đẩy quán tính. Hai cây tre làm cần đu nhỏ vừa tay cầm.
Lên đu có thể là một hay hai
người. Càng nhún mạnh, đu càng lên cao, cần đu đưa lên vun vút, bên nọ
sang bên kia. Cần đu lên ngang với ngọn đu là hay nhất, nhiều khi đu bay ngang
ngọn đu một vòng. Nhiều nơi treo giải thưởng ở ngang ngọn đu để người đu
giật giải.
Nhún đu cũng là một sinh
hoạt giao đãi tình cảm của trai gái.
Kéo co
Tục kéo co ở mỗi nơi có
những lối chơi khác nhau, nhưng bao giờ số người chơi cũng chia làm hai phe,
mỗi phe cùng dùng sức mạnh để kéo cho được bên kia ngã về phía mình. Có
khi cả hai bên đều là nam, có khi bên nam, bên nữ. Trong trường hợp bên nam
bên nữ, dân làng thường chọn những trai gái chưa vợ chưa chồng.
Một cột trụ để ở giữa sân
chơi, có dây thừng buộc dài hay dây song, dây tre hoặc cây tre, thường dài
khoảng 20m căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau nắm lấy dây thừng để kéo.
Một vị chức sắc hay bô lão cầm trịch ra hiệu lệnh. Hai bên ra sức kéo, sao
cho cột trụ kéo về bên mình là thắng. Bên ngoài dân làng cổ vũ hai bên
bằng tiếng "dô ta", "cố lên".
Có nơi người ta lấy tay
người, sức người trực tiếp kéo co. Hai người đứng đầu hai bên nắm lấy tay
nhau, còn các người sau ôm bụng người trước mà kéo. Ðang giữa cuộc, một
người bên nào bị đứt dây là thua bên kia. Kéo co cũng kéo ba keo, bên nào
thắng liền ba keo là bên ấy được.
Ðánh roi múa
mộc
Roi bằng tre vót nhẵn và dẻo,
đầu bịt vải đỏ, còn mộc đan bằng tre sơn đỏ. Các đấu thủ đấu tay đôi
với nhau: vừa dùng roi để đánh, dùng mộc để đỡ, ai đánh trúng địch thủ
vào chỗ hiểm và đánh trúng nhiều thì thắng, thường đánh trúng vào vai và
sườn mới được nhiều điểm.
Các hội lễ ở miền Bắc
thường được tổ chức thi đấu vào những ngày đầu tháng giêng.
Ném cầu
Xã Phú Sơn, Hà Tĩnh cử hành
hội mùa xuân tại chùa xã ngày 14 và ngày rằm tháng giêng. Khi trong chùa
đang lễ Phật, ngoài sân trai chưa vợ, gái chưa chồng tụ họp nhau dự trò
chơi ném cầu để "bói" hôn nhân. Hai quả cầu dùng để ném vào lồng
tre là hai quả chanh ngoài có lớp vỏ bện bằng mây bọc quanh: sơn màu xanh gọi
là âm cầu và sơn màu đỏ trắng gọi là dương cầu. Trai và gái chia làm hai
bên, mỗi bên có người cầm đầu. Hai bên hẹn ước với nhau rằng: "Trong
hai nhóm chúng ta, hễ ai đã kết hôn mà ném được quả cầu vào trong lồng
thì chỉ được thưởng; còn cặp nào chưa kết hôn mà ném trúng thì
không những được thưởng mà còn hẹn sẽ cưới nhau. Nếu ai sai lời sẽ có
Phật trời chứng giám". Giao hẹn xong, mấy cặp bắt đầu trò chơi. Trước
khi ném cầu, trai gai lần lượt hát:
Cầu này là
cầu thiên duyên
Ðôi ta mà trúng, kết nguyền cùng nhau
Trò vui kéo dài từ sáng đến
chiều. Tuy là trò chơi nhưng mỗi lần một cặp trai gái có tình ý mà cùng
ném trúng đều hứa hôn với nhau
Tập tầm vông
Bài đồng
dao này phổ biến khắp Bắc, Trung, Nam nhại theo âm trống tầm vông / tâm vinh
(gọi theo Nghệ An) tức trống cơm:
Tập tầm vông
Chị có chồng
Em ở vá
Chị ăn cá,
Em mút xương.
........................ |
Chị ăn kẹo,
Em ăn cốm
Chị ở Lò Gốm,
Em ở Bến Thành.
Chị trồng hành,
Em trồng hẹ.
Chi nuôi mẹ
Em nuôi cha |
Cách
chơi hiện nay của trò này là hai nguời chơi ngồi đối mặt nhau, vừa hát vừa
theo nhịp đập lòng bàn tay vào nhau: hoặc đập thẳng, hoặc đập chéo, hoặc
một cao một hạ thấp, hoặc kết hoẹp nhiều cách khác nhau. Nói chung, cách chơi
rất giống trò Thìa la thìa lảy đây.
Nu na nu nống
Nu
na nu nống
Cái cóng nằm trong
Cái ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Bụt ngồi bụt khóc |
Con cóc nhảy ra
Ông già ú ụ
Bà mụ thổi xôi
Nhà tôi nấu chè
Tè he chân rụt |
Ðám trẻ ngồi thành hàng ngang, duỗi hai chân ra trước. Một đứa ngồi
đối diện, lấy tay đập vào từng bàn chan theo nhịp từng từ một của bài hát
trên. Dứt bài, từ "rụt" đúng vào chân em nào thì phải rụt nhanh.
Nếu bị tay của cái đập vào chân thì em đó thua cuộc: ra làm cái ván chơi
kế tiếp, hoặc chịu hình phạt (nhảy lò cò một vòng, trồng chuối...) hay phải
đứng ra làm cái cho một trò chơi khác (bịt mắt bắt dê, ú tìm, cá sấu lên
bờ...)
Tùm nụ, tùm nịu
Tùm nụ, tùm nịu
Tay tí, tay tiên
Ðồng tiền, chiếc đũa
Hột lúa ba bông
ăn trộm, ăn cắp trứng gà
Bù xa, bù xít |
Con rắn, con rít trên trời
Ai mời mày xuống?
Bỏ ruộng ai coi?
Bỏ voi ai giữ?
Bỏ chữ ai đọc
................. |
Ðánh trống nhà rông
Tay nào có?
Tay nào không?
Hổng ông thì bà
Trái mít rụng
................... |
Căn
cứ vào hai câu "Tay nào có? Tay nào không?", đây là một trò đố:
nắm một vật vào đó trong một tay và chìa hai nắm tay. Mở tay ra: đúng sai,
có không....biết liền
Thả đỉa ba ba
Trò chơi
thể hiện việc qua sông, qua bưng, ruộng...ngập nước. ở dưới nước có đỉa.
Cả nhóm làm sao xuống nước mà đỉa không bắt chước.
Trước hết vẽ hai đường song song cách nhau độ 2m (hay qui định khoảng trống
nào đó) giả định là sông nước. Một em ra giữa vòng vừa hát vừa lấy tay ra
đập nhịp vào vai các bạn:
Thả
đỉa / ba ba
Chớ bắt / đàn bà
Tha tội / đàn ông
Cơm trắng / gạo trắng
Gạo thuyền như nước |
Ðổ
mắm / đổ muối
Ðổ chuối / hạt tiêu
Ðổ niêu / nước chè
Ðổ phải nhà nào
Nhà ấy.... chịu |
Từ
"chịu" trúng em nào thì em ấy xuống sông làm "đỉa". Bọn
trẻ đứa chạy đầu này, đứa băng qua sông góc nọ. "Ðỉa" rượt để
bắt. Bọn trẻ lại hát bài hát ghẹo
Sang sông / về sông / trồng cây / ăn quả / nhả hạt. "Ðỉa" rượt bên
này thì bên kia xuống sông. "Ðỉa" quay lại bên kia thì lũ bên nọ
lại réo lên: "ăn quả / nhả hạt" rồi ào xuống. Chẳng may ai bị
"đỉa" vớ phải thì trở thành "đỉa".
Thìa la thìa lảy
Là trò
chơi luyện tập sự nhịp nhàng. Giống như trò tập tầm vông, song bài ca lại
là bài vè Con gái hư - chê tật xấu của các cô gái lười:
Thìa la thìa lảy,
Con gái bảy "tài"
Ngồi lê là một,
Dựa cột là hai.
Thày lay là ba |
ăn
quả là bốn
Trốn việc là năm
Hay nằm là sáu
Láu táu là bảy
............... |
|