Home T́m Ca Dao Trợ Giúp T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
   
Tṛ chơi ngày tết ở Huế xưa

Nguồn: Việt Nam Cây Đa

Tết Nguyên đán là dịp để người ta tổ chức hội hè, tiêu khiển. Ở Huế xưa cũng vậy. Vốn là kinh đô của cả nước, vùng đất này cũng là nơi sinh ra nhiều tṛ vui, thú tiêu khiển tao nhă, thanh lịch và thú vị như thả thơ, đố thơ, đầu hồ, thưởng thức ca Huế...

Nhiều tṛ diễn ra quanh năm, nhưng cũng có những tṛ chỉ xuất hiện trong những thời điểm nhất định như dịp Tết. Bài viết này xin giới thiệu vài tṛ vui thường được người Huế tổ chức trong các dịp tết Nguyên đán.

1 - Đua ghe:

Đua ghe, đua chải là một trong những là tṛ giải trí lâu đời, có mặt ở Thuận Hóa (Huế) từ buổi đầu người Việt theo chân các chúa Nguyễn vào Nam mở cơi và vẫn tiếp diễn trong các lễ Tết hàng năm hiện nay. Người dân Thuận Hóa xưa thường tổ chức đua ghe trong các dịp xuân về hay trong các mùa lễ hội; hoặc do phủ chúa đứng ra tổ chức nhân một dịp đại lễ nào đó. Về sau, đua ghe Huế thường gắn với các lễ hội nông nghiệp hay ngư nghiệp, như là một phần của những hoạt động mang tính tâm linh, nhằm cầu cho mưa thuận gió ḥa, cho mùa màng được phong đăng ḥa cốc.

 

Chiếc ghe đua ở Thừa Thiên Huế thường là loại ghe thân dài, lườn ghe đan bằng cật tre, mũi và lái cong vút. Ban đầu, thân ghe chỉ được phủ lớp dầu rái màu nâu để chống thấm nước. Về sau, chiếc ghe đua được sơn vẽ nhiều màu hơn. Hầu như mỗi thôn, làng đều có chiếc ghe đua và một đội đua tuyển chọn từ những tráng đinh khoẻ mạnh, dẻo dai nhất. Người ta thường chọn ngày mồng 2 Tết để tổ chức cuộc đua. Bấy giờ, những chiếc ghe đủ màu sắc, từ các thôn làng tập hợp về một quăng sông, cùng những đội đua mặc đồng phục, sẵn sàng bước vào cuộc tranh tài. Hai bên bờ sông, dân chúng tụ tập đông đúc, luôn miệng ḥ reo cổ vũ cho đội nhà trong tiếng trống dồn dập, náo nức. Cuộc đua thường diễn ra từ sáng sớm, đến giữa chiều mới chấm dứt. Mỗi lượt tranh tài, đội đua phải bơi đủ “ba ṿng sáu tráo” trên một khúc sông được giới hạn bởi 3 cọc tre tươi, gọi là 3 vè: Rốn - thượng - hạ, trước khi lái chính tháo mái chèo mang lên nộp cho ban giám khảo ở bàn quan. Mỗi cuộc đua thường có bốn giải thưởng:

- Giải cúng: Là giải thưởng cho đội thắng trong lượt đua đầu tiên vào buổi sáng. Phần thưởng của giải cúng là một mâm cau trầu và chai rượu.

- Giải phá: Là giải thưởng cho đội thắng trong lượt đua cuối cùng vào buổi chiều. Phần thưởng của giải là một lá cờ đỏ, không có hiện vật kèm theo. Lá cờ này là biểu tượng của cuộc đua, sẽ được đội thắng mang về treo trong đ́nh làng như một niềm vinh dự của đội đua làng ấy.

- Giải tam liên thắng: Là giải thưởng dành cho đội nào về nhất ba lần trong một cuộc đua. Phần thưởng thường là một con ḅ để xẻ thịt ăn mừng.

- Giải nhất, nh́, ba: Là giải thưởng dành cho 3 đội có thành tích cao nhất trong cuộc đua. Phần thưởng bằng tiền mặt, tuỳ theo thứ hạng mà số tiền mặt được thưởng nhiều hay ít.

2 - Vật vơ:

Một trong những nơi có truyền thống vật vơ nổi tiếng nhất ở Thừa Thiên Huế là làng Śnh (tên chữ là Lại Ân, thuộc xă Phú Mậu, huyện Phú Vang). Làng Śnh nằm bên ngă ba sông, nơi con sông Bồ hợp lưu với sông Hương trước khi xuôi về phá Tam Giang để thông ra biển. Đây là một làng nghề, chuyên làm tranh mộc bản để thờ cúng. Đối diện làng Śnh, bên kia sông là làng Thanh Phước, nơi có một ngôi đền, thờ một phù điêu Chămpa, từng được triều Nguyễn sắc phong là Kỳ Thạch phu nhân chi thần. Nơi đây c̣n có vết tích một trại thủy quân thời các chúa Nguyễn. Khi mới đến Đàng Trong, để tăng cường sự pḥng thủ mặt Đông cho thủ phủ, chúa Nguyễn đă lập nơi đây một xưởng đóng thuyền và một trại thuỷ binh đêm ngày luyện tập vơ nghệ và nghề sông nước. Những hoạt động của trại thuỷ binh đă mang đến cho vùng này một truyền thống vật vơ c̣n lưu truyền đến nay. Trước tiên, người ta tổ chức đấu vật trong lực lượng thủy binh, tuyển chọn những người có sức khoẻ, để lên rừng t́m gỗ đóng thuyền, nhằm đương đầu với kẻ thù lúc cận chiến. Sau thời các chúa Nguyễn, các sới vật ở làng Śnh được tổ chức hàng năm nhằm tuyển chọn và tưởng thưởng những thanh niên có ḷng can đảm, sức mạnh và mưu trí, để lên rừng lấy cây vang, cây ḥe về chế màu; xuống biển lấy vỏ ṣ, vỏ điệp về nung thành hồ điệp phủ lên giấy dó để in tranh.

ội vật tổ chức ngày 10 tháng Giêng hàng năm. Sới vật được đắp bằng đất, ngay trước sân đ́nh. Tuy diễn ra ở làng Śnh, nhưng hội vật thu hút nhiều vơ sĩ đến từ những vùng phụ cận như: Vĩnh Lại, Quy Lai, Dương Nỗ, Thanh Phước... Có cả những vơ sĩ từ các làng quê ven biển như Thuận An, Hải Dương... đến đua tài. Sau khi vị tiên chỉ trong làng đọc lời khai cuộc và công bố luật lệ hội vật, người ta đốt lửa trong một chiếc lồng đèn làm bằng vải, kiểu khinh khí cầu, rồi thả nó bay lên trời, báo hiệu hội vật bắt đầu.

Hội vật diễn ra trong một ngày. Đầu tiên là cuộc đua tài của thiếu nhi, kế đến mới là các cuộc đấu của người lớn. Người nào thắng liên tiếp ba đối thủ th́ được dự ṿng bán kết (diễn ra vào buổi chiều). Buổi chiều ai thắng được ba trận th́ sẽ được vào ṿng chung kết. Người vật bị đối phương nhấc bổng lên hoặc làm cho lấm lưng trắng bụng th́ thua trận và bị loại trực tiếp, không được tham dự trận đấu thứ hai, mà phải đợi đến sang năm mới được so tài trở lại.

Hội vật làng Śnh là hội vật duy nhất c̣n lại trên địa bàn Thừa Thiên Huế và vẫn quy tụ khá nhiều tay vật từ các địa phương khác đến dự. Mỗi địa phương đều có một phong cách, miếng đánh độc đáo, chứng tỏ Thừa Thiên Huế là một tỉnh giàu truyền thống vật vơ. Truyền thống đó vẫn được duy tŕ tới nay, như là một hoạt động thể thao và là tṛ giải trí được công chúng ưa thích.

3 - Đu tiên:

Đu tiên là một tṛ vui có gốc gác từ miền Bắc, được du nhập vào xứ Thuận Hoá từ rất sớm. Sách Đại Việt sử kư toàn thư cho biết: “ất Tị, năm thứ tám niên hiệu Đại Trị đời Trần Dụ Tông (1363)..., mùa xuân, tháng Giêng, người Chiêm Thành đến bắt dân ở châu Hóa. Hàng năm, cứ đến mùa xuân tháng Giêng, con trai, con gái họp nhau đánh đu ở Bà Dương. Người Chiêm Thành khoảng tháng 12 năm trước, nấp sẵn ở nơi đầu nguồn của châu Hóa, đến khi ấy ụp đến cướp bắt lấy người đem về”. Chuyện này xảy ra chỉ sau khi người Chiêm cắt đất Ô, Lư cho Đại Việt chưa đầy 60 năm, mà lại thành lệ đến nỗi người Chiêm biết mà phục sẵn chờ bắt người mang về, chứng tỏ tṛ chơi này rất hấp dẫn dân chúng và được tổ chức thường xuyên ngay từ buổi đầu họ đặt chân đến đây.

Thuở trước, nhiều vùng nông thôn ngoại vi vùng Huế - như Phước Yên, Pḥ Trạch, đánh đu là một tṛ chơi phổ biến trong những ngày Tết, được tổ chức từ ngày 26 tháng Chạp và kéo dài cho đến mồng 7 tháng Giêng, với rất nhiều loại cây đu và lối chơi đu khác nhau. Phổ biến nhất vẫn là h́nh thức đu đôi, vẫn được gọi là đu tiên, với từng cặp (một nam, một nữ) thanh niên cùng lên đu so tài. Bên cạnh cây đu, người ta treo một chiếc khăn hồng ở độ cao xấp xỉ chiều cao giá đu. Người dự cuộc phải đưa cánh đu bay cao, giật cho được chiếc khăn kia, mới được coi là thắng cuộc. Ngoài việc đu cao, họ c̣n phải nhún sao cho đẹp mắt, th́ mới được tán thưởng, như trong câu ca:

Nhún ḿnh như thể nhún đu.
Càng nhún càng dẻo, càng đu càng mềm


Những cuộc đu tiên ở Huế vẫn được tổ chức cho đến trước năm 1945. Tuy nhiên, các tay đu thời nay chủ yếu là nam giới, hiếm khi có nữ giới tham gia, v́ phụ nữ Huế lúc ấy đă theo nếp gia phong Nho giáo, khác với phụ nữ thời các chúa Nguyễn, say tṛ đu tiên đến độ bị người Chămpa đến ŕnh bắt mà không hay biết. Do đấy, tính chất lăng mạn, quyến rũ của tṛ đu tiên đă phôi pha dần.

4 - Bài cḥi:

Bài cḥi có mặt ở nhiều tỉnh miền Trung trong những ngày Tết và mỗi nơi có một lối chơi riêng, mang truyền thống của từng vùng đất. ở Huế, lối chơi bài cḥi có nét khác biệt so với lối chơi bài cḥi ở B́nh Định và Quảng Nam. Sự khác biệt ấy thể hiện ở nội dung câu ḥ, điệu ḥ, ở số người tham dự và số lần chơi trong một cuộc bài.

 

Tṛ chơi bài cḥi dựa trên một bộ bài gồm 30 cặp quân bài mà người Huế quen gọi là bài tới. Cũng như những nơi khác ở miền Trung, bộ bài tới ở Huế có ba pho: Văn, vạn, sách, và ba cặp bài yêu. Pho văn gồm các con bài: Gối, trường hai, trường ba, voi, rún, sáu tiền, liễu, tám tiền, xe. Pho vạn có các con bài: Học tṛ, tám cảng, ba đấu, xơ, quăn, nhọn, bồng, thầy. Pho sách có các con bài: Nọc đượng, nghèo, gà, gióng, dày, sáu hột, sưa, tám giây, đỏ mỏ. Ba cặp bài yêu là: Ông ầm, thái tử, bạch tuyết. Các con bài được in trên giấy bản, dài 12 cm, rộng 3 cm, rồi phết lên giấy cứng đă nhuộm một mặt màu xanh hoặc đỏ. Tên gọi cũng như h́nh vẽ các con bài rất lạ lùng và kỳ bí. Có người cho là các h́nh vẽ này vừa mang dấu ấn của bùa chú, vừa phảng phất nét văn hóa Chămpa, lại vừa pha phách những kiểu thức trang trí của người Thượng. Người ta khắc h́nh lên khuôn gỗ, bôi mực lên và in. Đó cũng là một lối in tranh trên giấy dó mà người dân ở làng Śnh, một làng ngoại ô ở phía Đông Bắc kinh thành Huế, dùng để in tranh thờ cúng, bán trong các dịp lễ Tết, cúng giỗ.

Để chuẩn bị cho cuộc chơi, người ta dựng lên mười một cái cḥi bằng tranh tre, trên khoảng sân rộng trước đ́nh làng hay ở nơi họp chợ của một làng quê. Chính giữa là một cḥi lớn, h́nh lục giác, dành cho những người tổ chức cuộc chơi, gọi là cḥi trung ương. Hai bên cḥi trung ương có mười cḥi nhỏ, mỗi phía năm cḥi, là nơi các chân bài ngồi dự cuộc chơi. Vào cuộc, một người trong ban tổ chức giữ chân chạy cờ, thường được gọi là anh hiệu, gióng một hồi trống, dơng dạc mời các tay chơi lên cḥi. Cùng lúc, ban nhạc gồm kèn, trống, đàn nhị, sênh... cử một bản ḥa tấu mở đầu cuộc chơi. Anh hiệu buông dùi trống, vội vàng đem cờ ngân - cờ thay thế cho số tiền đặt cược trong một hội - đi bán cho mỗi chủ cḥi. Bán xong cờ ngân, đến lượt hai người phụ việc mang một ống tre đựng các con bài đến các cḥi để mời chủ cḥi lấy 5 con bài. Người ta dùng bộ bài tới gồm 56 con bài (không sử dụng hai cặp bạch tuyết và nọc đượng). Các con bài được dán vào một thẻ tre có phần trên to và dẹp, phần dưới nhỏ và tṛn. Mỗi cḥi, kể cả cḥi trung ương đều được 5 thẻ, c̣n một thẻ dùng cho anh hiệu đi chợ - mở đầu cuộc chơi. Phát bài xong, người chạy cờ đằng hắng một tiếng rồi hô: “Hai bên lẳng lặng mà nghe con bài đi chợ: Con...” - Anh ta xướng tên con bài đi chợ bằng tiếng ngân dài chen lẫn tiếng trống gơ, tiếng đàn nhị réo rắt. Người nào có con bài thứ hai đúng với tên con bài đi chợ vội vă hô lên và rút kèm một con bài khác đưa cho anh chạy cờ. Rồi một câu ḥ khác được vang lên. Cứ như thế cho đến khi có người gơ lên cái mơ tre treo cạnh cḥi ḿnh, miệng hô lớn: “Tới rồi! Tới rồi!”, để thông báo con bài mà anh hiệu vừa ḥ trùng với con bài cuối cùng trên tay ḿnh, nghĩa là đă có người thắng cuộc, th́ ván bài kết thúc. Người chạy cờ vội vă mang đến cho cḥi của người vừa tới một lá cờ đuôi nheo, giắt lên mái cḥi, để cho nó bay phần phật trong làn gió xuân ấm áp, rồi bắt đầu ván khác. Người ta chỉ chơi mười ván là xong một hội. Phần tiền của ván thứ mười một là phần thưởng cho ban tổ chức. Kết thúc một hội, người ta mang các lá cờ ngân đến bán lại cho cḥi trung ương để lấy tiền. Được một cờ coi như huề vốn. Hai, ba cờ trở lên coi như vận đỏ đầu năm đă đến gơ cửa. Cái hấp dẫn của thú chơi bài cḥi là ở giọng ḥ của anh hiệu. Đó phải là một người thật vui, thật tếu, giỏi ứng đối mới điều khiển nổi tṛ vui này. Anh ta là linh hồn của cuộc vui, vừa là người bày tṛ, kiêm luôn diễn viên hát tuồng để mua vui cho mọi người. V́ lẽ đó mà sân đ́nh khi có hội bài cḥi luôn đầy ắp tiếng cười, tiếng nhạc vang xa đến tận thôn cùng ngơ hẻm, đủ sức hấp dẫn các cụ ông, cụ bà, đám trẻ con, người lớn đến với cuộc vui này.

5 - Đổ xăm hường:

Đổ xăm hường là một tṛ chơi tao nhă, xuất phát từ Trung Hoa, rất được người Huế ưa chuộng. Xăm có nguồn gốc từ chữ Thiêm trong chữ Hán, nghĩa là cái thẻ. Hường là lối đọc trại từ chữ Hồng, nghĩa là màu hồng; do âm Hồng có trong chữ Hồng Nhậm, là tên của vua Tự Đức, nên phải kiêng, đọc chệch đi là Hường. Đổ xăm hường là tṛ chơi gieo con súc sắc (c̣n gọi là hột tào cáo, hột xí ngầu) để dành những chiếc thẻ khắc chữ màu đỏ, ghi các học vị trong hệ thống khoa cử thời xưa, gồm: Tú tài, cử nhân, tiến sĩ, hội nguyên, thám hoa, bảng nhăn và trạng nguyên. Ngay tên gọi của các quân cờ cũng đă thể hiện tính nho nhă của tṛ chơi cũng như tinh thần cầu học và ước vọng khoa bảng của người xưa.

Một bộ xăm hường gồm ba món chính: Những chiếc thẻ (xăm), sáu con súc sắc và chiếc tô sứ sâu ḷng để gieo súc sắc (đổ hột). Ngày trước, người chơi phải nhọc công để t́m cho được một chiếc tô sứ men lam làm từ đời Minh - Thanh bên Tàu để tiếng đổ hột mới thanh và vang xa. Riêng bộ thẻ th́ tùy mức độ sang hèn của chủ nhân mà được làm bằng ngà voi, xương thú hay cật tre. Mỗi bộ xăm hường gồm 63 chiếc thẻ. Thẻ cao nhất là trạng nguyên (1 thẻ), có giá trị là 32 điểm. Tiếp theo là 1 thẻ bảng nhăn và 1 thẻ thám hoa (16 điểm/thẻ); 4 thẻ hội nguyên (8 điểm/thẻ), 8 thẻ tiến sĩ (4 điểm/thẻ), 16 thẻ cử nhân (2 điểm/thẻ) và 32 thẻ tú tài (1 điểm/thẻ).

Tṛ chơi dùng 6 con súc sắc, mỗi con có 6 mặt khắc các dấu chấm theo thứ tự: Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, trong đó mặt nhất và mặt tứ tô màu đỏ (hường), các mặt khác được tô màu đen. Khi chơi, người ta gieo cả 6 con súc sắc vào chiếc tô sứ rồi căn cứ vào các mặt hiện ra mà tính điểm để nhận cho ḿnh chiếc thẻ thích hợp. Người chơi có thể là bốn, năm hay sáu người đều được. Tùy theo số người chơi mà định ra các lệ luật như “bán trạng”, “mua trạng” và định mức độ ăn thua. Thang điểm cơ bản dựa trên mặt tứ (hường) gồm: Nhất hường (có 1 mặt tứ trong 6 mặt súc sắc hiện ra, được nhận thẻ tú tài); nhị hường (2 mặt tứ: thẻ cử nhân); tam hường (3 mặt tứ: thẻ hội nguyên); tứ hường (4 mặt tứ: thẻ trạng nguyên); ngũ hường (5 mặt tứ: đoạt cả 3 thẻ trạng nguyên, bảng nhăn, thám hoa); lục phú hường (6 mặt tứ: đoạt tất cả các thẻ có trong cuộc chơi, kể cả thẻ đă thuộc về tay người khác và được thắng gấp đôi số điểm quy định cho các thẻ). Đây là trường hợp rất hiếm hoi, được coi là tột đỉnh của vận may. Và thường khi đạt được lục phú hường, người ta mừng ít, lo nhiều v́ cho rằng sau khi đạt được tột cùng của sự may mắn th́ sẽ gặp xui xẻo, nhất là những ai đổ xăm hường trong ngày đầu năm để đoán vận hên xui của ḿnh trong một năm sắp đến.

Ngoài ra c̣n có thang điểm thứ hai dựa vào các mặt màu đen: Tứ tự (có 4 mặt giống nhau trong 6 mặt, lấy thẻ tiến sĩ); tứ tự nhất hường (4 mặt giống nhau + 1 mặt tứ: 1 thẻ tiến sĩ + thẻ tú tài); tứ tự nhị hường (4 mặt giống nhau + hai mặt tứ: 1 thẻ tiến sĩ + 1 thẻ cử nhân); tứ tự cáp xiên (4 mặt giống nhau và 2 mặt kia có tổng số điểm bằng 1 trong 4 mặt giống nhau đó: thẻ bảng nhăn hay thám hoa); tứ tự cáp chính (4 mặt giống nhau, 2 mặt c̣n lại cũng như nhau và có tổng điểm bằng 1 trong 4 mặt kia: thẻ trạng nguyên); ngũ tử (5 mặt giống nhau: thẻ trạng nguyên); ngũ tử đại ấn: (5 mặt giống nhau + 1 mặt tứ: thẻ trạng nguyên); Lục phú (6 mặt giống nhau: thắng toàn bộ); Phân song (6 mặt chia làm hai nhóm, mỗi nhóm có 3 mặt giống nhau: thẻ bảng nhăn hay thám hoa); Phân song tam hường (3 mặt giống nhau + 3 mặt tứ: thẻ bảng nhăn hay thám hoa + thẻ hội nguyên); hạ mă (xuất hiện 3 cặp nhất, nhị, tam); thượng mă (xuất hiện 3 cặp tứ, ngũ, lục) và suốt (có số mặt tăng dần từ nhất đến lục). Tất cả các trường hợp này đều lấy thẻ bảng nhăn hay thám hoa. Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà định ra cách thức cướp trạng (khi thẻ này đă về tay người khác) hay cách lấy các thẻ tương ứng với một thẻ có số điểm cao hơn nhưng đă thuộc về người khác, trước khi người thứ hai đạt được thẻ đó. Khi số thẻ được lấy hết có nghĩa một ván cờ đă kết thúc và người ta dựa vào số thẻ có ở từng người để xác định kẻ thắng người thua.

Điều thú vị là hoàn toàn không có tính sát phạt trong tṛ chơi đổ xăm hường mà chủ yếu nhờ vào sự may rủi. Người Huế chơi xăm hường trong những dịp đầu xuân, vừa để giải trí trong ba ngày Tết, vừa để thử vận hên xui của ḿnh trong một năm, hơn là để thỏa măn thú đỏ đen như những tṛ cờ bạc khác. Điều này có lẽ phù hợp với tính cách của người Huế nên đổ xăm hường mới lan truyền sâu rộng nơi mảnh đất cố đô và vẫn tồn tại cho đến bây giờ.

TS. Trần Đức Anh Sơn
 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 03/12/18