Lễ hội
Đống Đa:
Đây là lễ hội lớn nhất trong
nước để tưởng nhớ các thủ lĩnh
của phong trào Tây Sơn, đặc biệt
là người anh hùng áo vải Quang
Trung và kỷ niệm chiến thắng
Ngọc Hồi - Đống Đa (năm 1789),
đánh thắng 29 vạn quân Thanh xâm
lược. Lễ hội được tổ chức trọng
thể, hoành tráng vào ngày mùng 5
tháng giêng Âm lịch hàng năm,
Ngoài nghi lễ truyền thống,
trong lễ hội c̣n tổ chức nhiều
hoạt động văn hóa dân gian như:
Biểu diễn vơ thuật Tây Sơn,
trống trận Tây Sơn, đua thuyền,
các tṛ chơi dân gian, hát tuồng...
thu hút hàng vạn người từ khắp
mọi miền đất nước tham dự.
Lễ
hội Đống Đa được tổ chức
từ năm 1960, địa điểm hành
lễ là Điện thờ Tam Kiệt
Tây Sơn, tại làng Kiên Mỹ (đất
Tây Sơn cũ) xă B́nh Thành quận
B́nh Khê (nay là huyện Tây Sơn)
vào ngày mồng 5 tết. Đây là
lễ hội truyền thống lớn
nhất tỉnh B́nh Định.
Lần giở lại trang sử oai hùng
của dân tộc, cuối năm 1788 vua
Kiền Long nhà Thanh sai Tôn Sĩ
Nghị đem 20 vạn quân sang chiếm
nước ta. Trước khí thế
mạnh như vũ băo của giặc, ngày
21 tháng 11 năm Mậu Thân (18-12-1788)
Tư mă Ngô Văn Sở nghe theo lời
bàn của Ngô Thời Nhậm, cho
chuyển quân từ Thăng Long về Tam
Điệp để bảo toàn lực lượng.
Hội tết Đống Đa – Tây Sơn –
B́nh Định là một trong những
lễ hội lớn nhất cả nước
những ngày đầu xuân
Hằng năm vào ngày mùng 4 và
mùng 5 tết âm lịch người dân
B́nh Định và Du khách cả
nước lại náo nức du xuân lễ
hội tết Đống Đa tại Bảo tàng
Quang Trung, thị trấn Phú
Phong - Tây Sơn - B́nh Định
để tưởng nhớ tới công tích
lẫy lừng các thủ lĩnh của
phong trào Tây Sơn, đặc biệt
là người anh hùng áo vải
Quang Trung – Nguyễn Huệ và
kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi
– Đống Đa, đánh thắng 29 vạn
quân Thanh xâm lược.
Hội tết Đống Đa – Tây Sơn –
B́nh Định là một trong những
lễ hội lớn nhất cả nước
những ngày đầu xuân. Lễ hội
được tổ chức trọng thể,
hoành tráng từ ngày mùng 4
đến ngày mùng 5 tháng giêng
âm lịch. Ngoài nghi lễ
truyền thống, lễ hội c̣n tổ
chức nhiều hoạt động văn hóa
dân gian như biểu diễn vơ
thuật Tây Sơn, trống trận
Tây Sơn, đua thuyền, tṛ
chơi dân gian, hát tuồng...
diễn lại trận đánh lịch sử
với những y phục, voi trận
như ngày xưa vua Quang Trung
ra trận... thu hút đông đảo
khách nước ngoài, nhân dân
cả nước và đặc biệt là người
dân đất vơ tham dự.
Chương tŕnh tế lễ Đống Đa
diễn ra từ trưa mồng 4 tết
với nhiều nghi lễ cổ truyền
đặc sắc được tổ chức tại
điện Tây Sơn. Lễ tế được tổ
chức tôn nghiêm, cả khu vực
rộng lớn, cờ lọng, nghi
trượng rợp trời, chiêng
trống rền vang... Người dự
lễ như cảm thấy ḷng ḿnh
ḥa nhập vào hồn thiêng sông
núi địa linh nhân kiệt.
Chương tŕnh hội ngày mồng 5
tuy có thay đổi hằng năm
nhưng các mục chính th́ năm
nào cũng có, đó là diễn văn
ôn lại lịch sử Tây Sơn với
cuộc đại phá quân Thanh,
biểu diễn vơ thuật, trống
trận Tây Sơn và thao diễn
trận pháp. Tiết mục vơ thuật
Tây Sơn được các vơ sư, vơ
sĩ, nghệ nhân tên tuổi hàng
đầu B́nh Định biểu diễn các
bài quyền truyền thống nổi
tiếng của nhà Tây Sơn như:
Lăo mai độc thọ, Ngọc trản
quyền, Hùng kê quyền; các
bài vơ sử dụng binh khí: Lôi
long đao, Song phượng kiếm,
Tuyết hoa song kiếm và Lôi
phong tuỳ h́nh kiếm, hay các
bài roi như Roi Thái sơn,
Roi Hắc đảnh ô sơn … được
người xem tán thưởng nhiệt
liệt.
Tiết mục nhạc vơ Tây Sơn là
môn nghệ thuật độc đáo của
tỉnh B́nh Định, người biểu
diễn vừa phải có tâm hồn
nghệ sĩ, vừa là bậc vơ sĩ
siêu đẳng và luyện đôi tay
thần diệu để tác dụng lên
ḷng trống, vành trống và
thân trống bằng cả hai bàn
tay, cổ tay, khuỷu tay, cánh
tay, tiếp xúc vào một bộ
trống gồm 12 chiếc lớn nhỏ
khác nhau gọi là "Song thủ
đả thập nhị cổ", tạo nên
những âm thanh hùng tráng
khác lạ khiến người xem như
bị lôi cuốn, thúc giục. Tiết
mục biểu diễn chiến trận
Đống Đa lại càng hào hứng và
hấp dẫn hơn nữa, được tổ
chức trên địa thế qui mô,
dàn dựng công phu, tập dượt
công phu, có cả ngàn người
thao diễn với cờ xí, chiêng
trống, sắc phục, đồn lũy...
y như thật, có năm c̣n có
bốn, năm con voi trận tham
gia.
Màn biểu diễn Nhạc vơ Tây
Sơn làm cho người xem dễ
dàng cảm nhận những tiếng
gươm khua, tiếng binh khí,
tiếng ḥ reo của quân sĩ,
tiếng súng nổ, tiếng voi gầm,
ngựa hí hoà lẫn vào tiếng
trống. Người xem có cảm giác
như đang đứng giữa trận
tuyến, không gian như vang
vọng hồn thiêng sông núi, và
được trở về với lịch sử,
chứng kiến một thế trận thần
tốc, táo bạo. Tiếng trống
như giục giă, như thôi thúc,
người xem có thể bị kích
động và sẵn sàng xông lên
sống mái.
Ngày nay, đi dự lễ hội tết
Đống Đa đối với người dân
đất vơ đă trở thành niềm tự
hào và cũng là một nhu cầu
tinh thần không thể thiếu
được trong những ngày đầu
xuân.
Lễ hội Chợ G̣:
HỘI
TẾT CHỢ G̉: Người ta quen gọi là
Chợ G̣, thật ra chẳng thấy chợ
búa đâu cả. Không một túp lều,
các ngày trong tháng không thấy
một ngày nào nhóm chơ, dù chỉ
vài mươi người, mua bán nho nhỏ
như chợ xổm cũng không có. Nơi
đó chỉ là một băi đất bằng phẳng,
cao ráo, rộng chừng hai mẫu tây,
thời Minh Mạng thuộc thôn Phong
Đăng tổng Tuy Hà, huyện Tuy
Phước phủ An Nhơn tỉnh B́nh Định,
nay là thôn Phong Thạnh thuộc
thị trấn Tuy Phước. Nơi đây, địa
thế hiểm yếu, phong cảnh lại hữu
t́nh; phía đông và nam có núi
Trường Úc ôm choàng, phía tây
giáp quốc lộ 1 cũ, phía bắc có
nhánh sông Tọc, thuộc nguồn Hà
Thanh, chảy qua với bờ cao dốc,
có hàng cây san sát ḷa x̣a soi
bóng. Nếu không muốn nói là đất
thiêng th́ ít ra trên thực tế
nơi đây là băi đất bất khả xâm
phạm v́ tuy gần khu dân cư đông
đúc nhưng xưa nay chưa ai lấn
chiếm cất nhà hay trồng tỉa hoa
màu
Tương tuyền thời Tây Sơn, nơi
đây dùng làm chỗ tập trận của
quân đội. Bộ binh đóng đồn trên
núi Trường Úc, thủy quân từ đầm
Thị Nại vào cửa Làng Sông rồi
ngược ḍng sông Tọc đổ bộ lên
Trường Úc, hai bên thủy bộ giáp
chiến. Để khuây khỏa nỗi nhớ nhà
trong dịp tết, các tướng Tây Sơn
tổ chức cuộc vui ngay trên băi
thao trường vào sáng mồng 1 và
mồng 2 tết, nhưng khi trời vừa
xế bóng thân nhân phải ra về để
binh sĩ chuẩn bị canh pḥng
nghiêm nhặt về đêm. V́ vậy, hàng
năm các gia đ́nh binh sĩ theo lệ
đến nơi đây thăm chồng con. Dân
địa phương mang hoa quả, thức ăn,
nước uống ra bán, lâu năm thành
lệ. Khi quân Tây Sơn tan ră, nơi
đây trở thành Hội Tết Chợ G̣,
mỗi năm chỉ hội hai ngày mồng 1
và mồng 2 tháng giêng và cũng
quen lệ tan chợ vào lúc xế trưa.
Chợ G̣ có tính cách hội vui xuân
dân gian hơn là phiên chợ. Từ
người bán đến khách hàng đều mặc
quần áo mới, nói cười vui vẻ,
mặt tươi như hoa, các bà các cô
phấn son trang sức lộng lẫy như
dự lễ cưới. Từ mờ sáng ngày đầu
năm chợ đă nhóm, ai đến trước
bày hàng trước, ai đến sau kế
tiếp thành dăy. Không ai đứng ra
xếp đặt, tổ chức thế mà vẫn trật
tự, không hề tranh giành bán
buôn theo lối kẻ chợ thông
thường. Người bán là những dân
cư quanh vùng thu góp trong vườn
mớ trái cây, gánh rau cải, vài
buồng cau, vài xấp trầu họ đem
đến bán lấy hên đầu năm. Người
mua không phải là thiếu thức ăn
nhưng muốn đem về một cái lộc
đầu năm, nhất là gian hàng trầu
cau, các cô thường mua cầu may
cho năm mới gặp duyên thắm t́nh
nồng.
Vui vẻ nhất là các gian hàng
pháo, bán đủ loại nào pháo tre,
pháo tống, pháo điển, pháo chuột,
pháo dây, pháo thăng thiên, pháo
bông... Đó đây, giọng lái buông
chào hàng ngân nga câu vè (3)
theo điệu bài cḥi:
Mời chư vị giai nhần tài
tử
Tới đây nghe tôi thử pháo tre
Của bán ra không phải nói khoe
Thời thực vật sắm vừa túc dụng
Có pháo nhiều đốt mới vui t́nh
Từ cựu thời bộc trước nhi thinh
Có pháo mới văn minh xuân nhựt
Dưới con cháu cũng vui cũng ức
Trên ông bà khỏi bực khỏi phiền
Nếu như mà cứ giữ tiếc tiền
Lấy ǵ đặng minh niên hỉ hả...
Năm mới, người ta kiêng cữ nhất
là mua phải pháo điếc, đốt không
nổ, gây xui xẻo cho cả năm. Khai
thác tâm lư ấy, người bán pháo
cao giọng quảng cáo hàng:...
Mua pháo này về đốt
Vốn tôi không nói tốt
Hay thật t́nh có một ḿnh tôi
Nhiều người bán xảo làm mồi
Đốt đây khá về rồi lại dở
Có kẻ làm kêu cũng đỡ
Vấn nhiều tay tôi sợ không đều
Của bán ra là biết bao nhiêu
Một ḿnh vấn nên kêu đều đặn
Mười như chục tiếng kêu đúng đắn
Đốt cả trăm cũng chẳng điếc câm
Tiếng nổ lên chuyển động sơn lâm
Như đại bác vang gầm trời đất
Hễ đốt th́ xác tan bay mất
Không khi nào gió phất ngún hừng
Của tôi làm tôi đă biết chừng
Xin quí vị mua đừng có ngại
Các gian hàng bán đồ chơi trẻ em
cũng vui nhộn không kém. Đặc
biệt nhất, những sản phẩm làm
bằng vật liệu địa phương, thuần
túy Việt Nam như gà cồ chút chít
nặn bằng đất sét, rỗng ruột, sơn
phết xanh đỏ, có lỗ thổi ra
tiếng kêu o... o..; trống rung (trống
bỏi) thành và cán bằng tre phất
bong bóng heo hay da ếch có tra
hai cây đính cục ch́ nhỏ mỗi lần
rung tạo âm thanh thật vui tai:
thằng nhào lộ; cối xay lúa; cối
giă gạo; tướng quân múa vơ đều
làm bằng tre và gỗ cây g̣n. Từ
cuối thập niên 60, có xen những
đồ chơi bằng nhựa hoặc bằng kim
loại như búp bê, xe tăng, tàu
bay, súng lục..., có lẽ v́ đắt
giá hay chưa quen với thị hiếu
nên ít thông dụng.
Những gian hàng thức ăn, nước
giải khát cũng góp mặt không kém.
Các món đặc sản địa phương được
khách hàng ưa thích như nem Chợ
Huyện của bảy Ù, chim mía ở Lộc
Lễ, rượu nếp và rượu gạo ở
Trường Thuế (dân chúng quen gọi
là Trường Thế) đă măi măi đi vào
ca dao của dân tộc:
Rượu ngon Trường Úc mê ly
Gặp nem Chợ Huyện bỏ đi không
đành
Đến với Chợ G̣ không những để ăn
uống, mua rau quả để lấy lộc,
mua pháo để lấy hên đâu năm,
hoặc để thưởng thức tài viết chữ
"phượng múa rồng bay" trên liễn
đối, mà đến với Chợ G̣ c̣n có đủ
các tṛ vui chơi mang màu sắc
dân gian như đánh bài cḥi, chơi
lô tô, giải đáp câu thai, đánh
cờ tướng, đá gà... Nếu ai nặng
máu đỏ đen th́ tha hồ sát phạt ở
các ṣng bài như xóc dĩa, bầu
cua tôm cá, x́ lác... nhưng phần
lớn họ đến đây để gặp gỡ bạn bè,
trao nhau những lời chúc tụng,
kéo nhau đi xem chợ và khi mặt
trời đứng bóng th́ chia tay ra
về.
Hội tết Chợ G̣ đơn giản chỉ có
thế nhưng rất vui, đậm đà t́nh
bạn, t́nh quê hương; năm nào bận
việc không đến được vẫn thấy
tiếc. V́ thế, từ sáng sớm đoạn
đường quốc lộ 1 cũ từ ngả tư Phủ
Mới đến ngả ba Chợ Dinh (khoảng
5 cây số) đông nghệt người đi,
xe chở hành khách không thể qua
lại được. Muốn đến Chợ G̣ phải
xuống xe, đi bộ vài cây số, có
thể dùng xe đạp hay xe gắn máy
đến gần địa điểm, rồi t́m chỗ
gửi xe an toàn, mới rảnh tay vào
cuộc vui xuân. (internet)
Lễ hội Cầu Ngư:
Là một h́nh thức sinh hoạt văn
hóa tín ngưỡng phổ biến của cư
dân ven biển, hải đảo B́nh Định,
được tổ chức thường xuyên vào
mùa xuân và mua thu hàng năm.
Vào các ngày hội có đầy đủ kiệu
rước, đội trống chiên, ban nhạc,
đội chèo bả trạo, hát tuồng,
diễn xướng theo nghi lễ, thu hút
hàng ngh́n người tham dự
Cầu Ngư là
lễ hội hàng năm của dân
chài chuyên nghề đánh bắt cá
biển. Làng Xương Lư, quen gọi là
Vũng Nồm (4) tổ chúc
lễ vào mồng 10 tháng
giêng âm lịch, c̣n làng Hưng
Lương (4) quen gọi là Vũng Bấc
lại chọn ngày mồng 6 tháng 3 âm
lịch và đây là
lễ hội lớn nhất trong năm
của hai làng này.
Buổi chiều trước ngày hành
lễ, tất cả dân chài, chỉ
trừ phự nữ đang có kinh nguyệt
không được bén mảng đến, c̣n bao
nhiêu đều phải có mặt tại lăng
thờ ông Nam Hải (cá voi) và đợi
quá nửa đêm, cuối giờ Tí đầu giờ
Sửu (1 giờ sáng) mới cữ hành
lễ.
Ban tế
lễ gồm vị chánh tế đứng
giữa chiếu tế trực diện với
chánh điện, vị bồi tế đứng sau
các một bước sải chân (khoảng 1
mét). Ngoài ra c̣n bốn học tṛ
gia lễ mang trống chiến (mặt
trống gần bằng trống chầu nhưng
thân trống ngắn bằng một phần ba),
từng cặp đối xứng đứng hầu hai
bên án trong và hai bên tiến
đường. Ban nhă nhạc gồm một
người đánh trống chầu đứng bên
tả và một người đánh chiêng đứng
bên hữu sân tế.
Lễ vật gồm có ḅ, heo. Các
con vật chịu lễ bị trói chặt,
tắm rửa sạch sẽ, đật nằm trên
sạp trước sân tế.
Đứng đầu ban tổ chức là vị hương
lễ tuyên bố khai mạc, tức th́ ba
hồi chín tiếng trống chầu gióng
lên rồi đến ba hồi chín tiếng
chiêng vang dậy. Trên bàn thờ
hương trầm nghi ngút, tăng thêm
vẻ uy nghiêm. Bốn học tṛ gia lễ
vừa đi vừa đánh nhịp trống, từ
từ tiến vào vị trí đă định sẵn.
Rồi đến hai vị chánh tế và bồi
tế, mặc áo rộng xanh, đội mũ lễ,
đi giày hia, hai tay chắp lại,
cung kính tiến vào chiếu tế
trước chánh điện, theo nhịp
trống của bốn học tṛ lễ.
Các đồ tể mặc áo gọn gàng, buộc
thắt lưng đỏ, cầm dao phang bén
nhọn, đứng bên sạp đợi lệnh. Một
lần nữa ức và cổ con vật chịu lễ
được chùi sạch bằng khăn ướt và
lau lại bằng khăn khô, rối cắt
tiết, máu tươi được hứng vào
thau sạch, đem dâng tế Thủy thần.
Bốn học tṛ gia lễ đồng loạt
xướng hưng, bái. Khi xướng "hưng"
th́ hai vị chánh tế bồi tế đứng
thẳng người, chắp tay trước ngực.
Khi xướng "bái" th́ cả hai qùy
xuống, đầu cúi sát cho trán chạm
đất. Lạy đúng ba lần, học tṛ lễ
xướng "hưng, b́nh thân".
Xong tiết mục lễ bái, vị Hương
lễ đọc văn tế với đại ư cầu xin
thủy thần Đông Hải pḥ hộ cho
trời yên bể lặng, năm mới được
mùa cá. Sau đó, màn hát bả trạo
(hát có cầm mái chèo) tượng
trưng cho con thuyền ra khơi
đánh cá. Đây là loại dân ca nghi
lễ ở vùng ven biển miền nam
Trung Việt, tŕnh bày hoạt cảnh
bơi thuyền qua nghệ thuật diễn
tuồng. Diễn viên toàn là đàn ông,
vừa hát vừa múa nhịp nhàng theo
động tác chèo lái. Đội h́nh hát
bả trạo gồm một Tổng tiền (tức
Tổng mũi) đứng trước, tiếp theo
có 8 hay 12 hoặc 16 con trạo (tức
bạn chèo) xếp thành hai hàng dọc,
một Tổng thương (tức Tổng khoang)
đứng giữa hàng bạn chèo và sau
cùng là Tổng hậu (tức Tổng lái).
Về trang phục và trang cụ, Tổng
mũi và Tổng lái mặc lễ phục cổ
truyền nhưng Tổng mũi hóa trang
rực rỡ, nai nịt oai vệ như một
vị tướng, tay cầm cặp sênh, mặt
quay về phía bạn chèo, gơ nhịp
điều khiển; c̣n Tổng lái tay cầm
chèo dài khoảng 2 mét, múa động
tác lái thuyền. Các bạn chèo
đồng phục trắng, đầu chít khăn,
thắt lưng đỏ, chân đi bít tất có
quấn xà cạp, tay cầm mái chèo
ngắn độ 1,2 mét múa động tác
chèo thuyền. Về nghệ thuật, có
sự phối hợp nhịp nhàng giữa âm
nhạc, lời ca và động tác. Về
nhạc cụ, ngoài cặp sênh của Tổng
mũi c̣n có đàn c̣, trống kèn đệm
âm. Về diễn xuất, Tổng mũi phải
là một nghệ sĩ biết đủ các làn
điệu dân gian từ ca, ngâm, lư,
hát bài cḥi, phú, ḥ đến các
làn điệu hát tuồng như nói lối,
tán, oán, thán, xướng, hát nam...
Xong màn hát bả trạo, đến lượt
hát bội, hát đến sáng. V́ hát lễ
nên phải chọn tuồng cho hợp với
sự cung nghiêm như Hoa Dung Lộ (Quan
Công tha Tào Tháo), Cổ Thành (Quan
Công quá quan)...
Tiếp sau đêm tế ở lăng ông Nam
Hải, dân làng c̣n tổ chức hát
bội ba đêm liền nhưng dời sân
khấu ra băi cát rộng bên ngoài
lăng cho mọi người xem, tránh sự
xâm nhập tà tạp, mang ô uế đến
nơi thờ phượng. (internet)
LỄ HỘI
ĐÂM TRÂU
LỄ
HỘI ĐÂM TRÂU: Theo tài liệu
thống kê và nhân chứng, đồng bào
Bania (Bahnar, Bana) hiện nay có
136.859 người ở rải từ Kontum,
Pleiku, An Túc và phía tây hai
tỉnh B́nh Định, Phú Bổn (nay
thuộc Phú Yên). Dân tộc thiểu số
Bana có bảy chi nhánh nhưng chỉ
có ba nhánh: Alakông, Tơ lô và
Bơ Nam (B.Mơ Nam) là tập trung ở
An Túc, dọc biên giới phía tây
tỉnh B́nh Định và đông đảo ở
huyện Vĩnh Thạnh
Hàng năm, từ tháng chạp đến
tháng ba âm lịch, dân tộc Bana
theo truyền thống mở lễ hội tạ
ơn Giàng (Yang) là đấng thần
linh tối cao của họ. Người Bana
gọi lễ ấy là Koh Kpô hay Groong
Kpô Tonơi, tiếng Việt gọi là Lễ
Hội Đâm Trâu.
Theo Đặc sản Văn hóa B́nh
Định (ấn hành tại Qui Nhơn,
1992) và các tài liệu khác, già
làng chọn băi đất rộng, bằng
phẳng thuộc địa phận buôn làng
ḿnh để dựng giàn tế (gưng) là
một quân thể gồm: Một cây tre
cao, thẳng, c̣n nguyên ngọn, gốc
được chôn vững vàng gọi là nêu,
sát bên cây nêu là một cột lớn
rắn chắc bằng cây muôn hay cây
plang, cũng được chôn chặt để đỡ
cây nêu và dùng vào việc buộc
trâu; nhưng nếu chọn được cây
săn thẳng, đủ vững chắc để làm
nêu th́ không cần trụ buộc trâu
nữa. Và quanh cây nêu c̣n trồng
4 hay 8 trụ gỗ tṛn, cao độ 3
mét, đường kính khoảng 15cm. Các
trụ gỗ này được bố trí theo h́nh
hoa thị đối xứng từng cặp và
trang trí thành những vành
khuyên sơn màu đen, trắng, xanh,
đỏ xen kẽ nhau. Ở đầu các trụ gỗ
có các thanh ngang buộc nối hai
trụ lại với nhau, cấu kết theo
thế liên hoàn vững chắc. Dọc
theo chân cây nêu có các dây
buông dài, tết bằng lạt tre buộc
những tấm nan h́nh tam giác và
các ống tiêu gió bằng cây lồ ô
đưa vi vu trước gió. Trên cùng
cây nêu có treo túi thiêng, tiếp
theo là cánh phướng đan bằng lạt
giang, biểu tượng cho chim đại
bàng (kring), h́nh ảnh của sức
mạnh và trí tuệ (5).
Lễ hội Đâm Trâu được tổ chức
trong ba ngày, hai ngày đầu tại
giàn tế (gưng), ngày cuối ở sân
Nhà Làng (nhà Rông). Ngày thứ
nhất, người ta dắt một con trâu
to béo, đầy sức lực đến giàn tế,
nối cổ trâu vào cột tế (Plang
Kpô) bằng một dây thừng bện thật
chắc, dài độ 2 mét tây. Dân
trong buôn và người xem đứng bao
quanh giàn tế thành một ṿng
tṛn rộng.
Giờ hành lễ bắt đầu, dàn cồng
rộn ră nổi lên chen lẫn âm thanh
của bộ chiêng rền vang, kết hợp
với bộ trống lớn (Bnưng) dồn dập,
dậy lên bản giao hưởng hùng
tráng như tiếng gọi từ hồn
thiêng ngày hội.
Các thanh niên nam nữ xếp hàng
dọc, tay cầm gậy múa Kơ tếch (điệu
múa dành riêng cho lễ hội Đâm
Trâu), đi ṿng quanh giàn tế
theo chiều ngược kim đồng hồ, vị
tù trưởng đứng vai chủ tế dẫn
đầu các vị bô lăo (chừng 5, 6
người), mặc lễ phục sặc sỡ từ từ
tiến đến giàn tế, quỳ rạo khấn
vái thần Giàng (Yang). Tiếp theo
bài khấn là lễ Hiến tế, một bô
lăo mạnh mẽ nhất trong ban tế lễ,
tay cầm giáo, tay cầm khiên bước
ra khỏi hàng, lựa thế đâm một
nhát vào con vật tế thần. Tuy bị
thương nhưng trâu vẫn c̣n sức
mạnh, cố bứt dây chạy thoát
nhưng không được, đành chạy ṿng
quanh giàn tế. Mọi người trong
buôn đồng loạt hú lên, rung
chuyển cả núi rừng và đi quanh
giàn tế đánh cồng, múa hát đến
chiều tối mới măn.
Ngày thứ hai, cả buôn tập trung
bao quanh giàn tế để làm lễ hiến
sinh. Lần này trai tráng trong
buôn vào cuộc. Họ cầm vũ khí và
khiên, la hét, dồn đuổi con trâu
chạy quanh giàn tế. Họ thi nhau
bắn cung, phóng lao, đâm giáo
vào con vật tế thần. Ḷng dũng
cảm và sự khôn khéo của họ được
thể hiện qua cách săn đuổi con
mồi, và phần thưởng chiến thắng
dành cho chàng trai nào lựa được
thế, đâm thẳng tim con vật gục
xuống chết ngay. Già làng cầm
bát đồng hứng máu tươi, ḥa với
rượu dâng thần linh. Tiếng hú
mừng chiến thắng lại một lần nữa
vang trời dậy đất.
Trâu được xẻ thịt ngay tại chỗ,
chọn thịt ngon và toàn bộ lá gan
chia đều cho năm nhóm rồi vảy
máu đă ḥa rượu, cung kính đật
trên bàn thờ thần Giàng. Già
làng đứng ra khấn bái. Xong lễ,
gan trâu được chia đều cho tất
cả trai tráng trong buôn. Họ tin
rằng ăn gan đó sẽ tăng cường sức
mạnh và ḷng dũng cảm v́ đă có
thần Giàng chứng nhận.
Ngày thứ ba, túi thiêng trên cây
nêu được rước về thờ ở nhà Rông,
đặt ngay chỗ để ṿ rượu chính.
Già làng làm lễ khấn xong, gọi
mọi người đến uống rượu này v́
tin rằng ảnh hưởng của túi
thiêng đă ḥa trong rượu, uống
vào sẽ tiêu trừ những rủi ro
bệnh tật. Họ c̣n tổ chức những
tṛ chơi thượng vơ ngay trước
sân nhà Rông như bắn cung, đấu
kiếm, phóng lao, đấu vơ... cuộc
vui suốt ngày và kéo dài đến
thâu đêm suốt sáng.
Lễ hội ngày xuân ở B́nh Định c̣n
nhiều lắm, v́ bài viết giới hạn
trong khuôn khổ trang báo, không
thể nêu lên hết được. Ngày nay,
các lễ hội như Chợ Tết G̣ Chàm,
Hội Tết Chợ G̣, Lễ Hội Đống Đa
vẫn c̣n đó, tuy có thay đổi ít
nhiều cho phù hợp với hoàn cảnh
của mỗi thời đại. Hội Hát Xuân
đă tắt lịm từ lâu, nhưng dân
chúng vẫn c̣n nuối tiếc. Mỗi dịp
xuân về, ở một vài nơi c̣n gắng
gượng tổ chưc đám hát nho nhỏ
tại địa phương. Dĩ nhiên không
thể nào có được cái huy hoàng
ngày cũ và cũng không thể giữ lệ
đều đặn hàng năm. Lễ Hội Cầu Ngư
tuy vẫn c̣n nhưng thu gọn lại
nhiều, màn diễn bả trạo đă vắng
bóng, c̣n hát bội th́ năm có năm
không, lệ cắt tiết các con vật
trước sân tế đă bỏ hẳn v́ không
ai muốn đem vào cuộc vui cảnh
lưu huyết thương tâm.
C̣n Lễ Hội Đâm Trâu của người
Bana đă rút ngắn c̣n một ngày
đêm, con vật chịu lễ được các
tay thiện nghệ nhanh chóng đâm
chết, không c̣n cảnh săn đuổi
kéo dài sự hăi hùng đau đớn và
người dự lễ hội đỡ bị căng thẳng
thần kinh v́ thương cảm.
(internet)
HỘI
HÁT XUÂN
Hội
Hát Xuân có từ lâu, có lẽ phát
xuất từ lúc tỉnh thành B́nh Định
được xây dựng năm Mậu Th́n
(1808),
Gia Long thứ 7, khi khánh
thành có hát mừng và từ ấy năm
nào cũng tổ chức, lâu năm thành
lệ.
Hàng năm, sau tết Nguyên đán,
trong tháng giêng âm lịch có lệ
hát bội tại B́nh Định, quen gọi
là Hát Xuân, do quan đầu tỉnh tổ
chức, đám hát này lớn nhất, được
tổ chức chu đáo nhất, diễn xuất
hay nhất và khán giả cũng đông
đảo nhất , so với các cuộc hát
xướng trong năm ấy tại tỉnh nhà.
Con hát được lựa chọn, toàn
đào kép thượng thặng, rút ra từ
các gánh hát trong tỉnh, nên gọi
là "hát rút". Hát Xuân cũng chỉ
diễn lại các tuồng nổi tiếng như
"Sơn Hậu, Phụng Nghi Đ́nh, Ngũ
Hổ B́nh Tây, Hộ Sanh Đàn, Diễn
Vơ Đ́nh, Tân Dă Đốn, Tam Nữ Đồ
Vương..." nhưng rất hấp dẫn v́
đào kép xuất sắc đảm nhận từ vai
chính đến các vai phụ, nên diễn
xuất hoàn hảo từ đầu tới cuối.
Mặc dù sân khấu đặt trong sảnh
đường rộng lớn, nhưng quan lại
và dân chúng từ các nơi đổ về
đông nghẹt, phải cất nhà tạm
bằng tranh tre để dung nạp quan
khách có chỗ ăn uống và nghỉ
ngơi. Tuy là nhà tạm nhưng cũng
xén cắt mái tranh ngay thẳng,
trần thiết kỹ lưỡng, cũng trướng
rũ màn che, liễn hoành rực rỡ.
Tỉnh có đội lính dàn chào để đón
quan khách, cờ lọng rợp trời,
gươm tuốt trần, súng cầm tay
trông thật long trọng. Ngày khai
mạc có đủ mặt các quan lớn nhỏ
trong tỉnh và có nhiều đại biểu
từ các tỉnh khác đến dự. Hàng
ghế đầu, ngồi giữa là quan Tổng
Đốc, bên tả có quan Bố Chánh,
bên hữu có quan Án Sát, ngoài ra
c̣n có các vị thượng khách, các
quan đại thần về hưu. Thường th́
quan đầu tỉnh lănh vinh dự cầm
chầu điều khiển cuộc hát, tuy
nhiên cũng có khi nhường lại roi
chầu cho một vị quan khác v́
không rành hát bội. Các hàng ghế
kế tiếp lần lượt dành cho các
tri phủ, tri huyện, các quan hưu
trí, thân hào nhân sĩ, các viên
thơ lại, rồi đến Chánh, Phó tổng,
các chức sắc làng xă, sau cùng
là dân chúng đứng xem trong trật
tự, yên lặng. Mọi người từ già
trẻ lớn bé đều phải mặc áo dài,
sang th́ bận áo cặp trong trắng
ngoài đen, hèn th́ cũng phải áo
đơn, đàn ông đội khăn đóng, đàn
bà chít khăn hay đội nón.
Đám hát kéo dài suốt hai ngày
hai đêm, diễn hết tuồng này đến
tuồng khác, đào kép thay phiên
nhau tŕnh diễn liên tục. Sáng
bắt đầu từ 7 giờ đến 11 giờ,
chiều hát từ 1 giờ đến 5 giờ,
tối tiếp tục từ 7 giờ đến quá
nửa đêm và phải tŕnh diễn cho
hết tuồng mới thôi. Ban ẩm thực
làm việc suốt ngày đêm, sẵn sàng
cỗ bàn, mỗi ngày ba bữa chu đáo.
Ḅ, heo, dê, gà vịt nhốt sẵn,
cần th́ đem ra xẻ thịt ngay.
Gánh hát nào có nhiều đào kép
được quan tỉnh chọn vào đám Hát
Xuân th́ được nổi tiếng. Riêng
cá nhân của diễn viên cũng có
nhiều quyền lợi, được các quan
thưởng tiền trong những pha độc
đáo, nếu rất xuất sắc được xét
ban cho phẩm hàm trong làng nghệ
sĩ như chức danh Chánh ca (hàm
Chánh Cửu phẩm rồi lên Tùng Bát
phẩm), Phó Chánh ca, Quản ca...
v́ thế, các diễn viên thi nhau
trổ tài, đem hết ngón nghề ra
cống hiến.
Năm 1934, dinh quan tỉnh dời về
Qui Nhơn, thành B́nh Định giao
lại cho quan Phủ, tuy nhiên hàng
năm quan Tổng đốc vẫn về đây chủ
tŕ việc Hát Xuân. Lần hát cuối
cùng vào xuân Ất Dậu (1945), sau
đó là thời kỳ Việt Minh, thành
B́nh Định bị san bằng và Hội Hát
Xuân cũng chấm dứt vĩnh viễn.
(internet)
CHỢ
TẾT G̉ CHÀM
Cách
thị trấn B́nh Định chừng hai cây
số về phía bắc, chợ G̣ Chàm tọa
lạc trên một khoảnh đất cao,
rộng chừng hai mẫu tây, phía bắc
giáp sông cầu Chàm, phía tây sát
quốc lộ 1. Ngày nay, nơi ấy nhà
cửa mọc lên san sát lại có một
bệnh xá, không c̣n dấu vết ǵ
một ngôi chợ lớn nhất tỉnh,
nhưng địa giới là cây cầu bắc
qua quốc lộ 1 vẫn c̣n đó và vẫn
giữ nguyên cái tên "Cầu Chàm"
như thuở nào. Theo các vị bô lăo,
ngày xưa chợ này tên chữ là Lam
Kiều thị, có dựng trụ ngay trước
chợ khắc ba chữ ấy và vùng này
gọi là xứ Lam Kiều, thời Minh
Mạng thuộc làng An Ngăi tổng
Thời Đôn huyện Tuy Viễn phủ An
Nhơn. Mang tên xứ Lam Kiều v́
xưa kia trồng nhiều cây chàm để
nhuộm vải, thế th́ đúng ra phải
gọi là chợ Cầu Chàm nhưng dân
chúng lại quen gọi là chợ G̣
Chàm. Bởi đó, có người c̣n cho
rằng chợ được lập trên vùng đất
g̣ có nhiều mồ mả người Chàm nên
mới gọi là chợ G̣ Chàm.
Năm
1940, chợ G̣ Chàm dời vào khu
đất phía đông bắc bên ngoài
thành B́nh Định, sát với khu phố
của thị trấn và đổi danh hiệu là
chợ B́nh Định, nhưng dân chúng
vẫn quen gọi tên cũ. Chợ mới vẫn
giữ vai tṛ lớn nhất tỉnh, nhóm
chợ mỗi ngày và mỗi tháng có sáu
phiên vào các ngày mồng 3, 8,
13, 18, 23, 28. Ngoài ra, xưa
nay vẫn giữ lệ phiên chợ 23, 28
tháng chạp âm lịch nhóm suốt
ngày đêm và đông hơn các phiên
chợ khác trong năm.
Phiên chợ tết khác với phiên
thường v́ có nhiều người đến chợ
để dạo chơi, ăn uống, thết đăi
bạn bè và càng về đêm người dạo
càng đông. Người đi chợ để mua
bán cũng tăng lên gấp nhiều lần
v́ phiên chợ này không thiếu món
sơn hào hải vị nào cần mua sắm
làm cỗ dọn tết. Họ réo gọi nhau
tốp năm tốp ba cùng đến chợ cho
vui, trong bài vè chợ G̣ Chàm đă
diễn tả quang cảnh rộn rịp ấy:
Bớ chị em ơi! Đi chợ
Chợ nào bằng chợ G̣ Chàm
Tôm tươi cá trụng thịt ḅ thịt
heo
C̣n thêm bánh đúc bánh xèo
Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u
Những con cá chép cá thu
Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon
Người cần mua sắm quần áo, nữ
trang để chưng diện trong dịp
tết, đến chợ G̣ Chàm tha hồ lựa
chọn cho vừa ư:
Những c̣n hàng giép hàng
giày
Nón ngựa nón chóp bán rày liên
thiên
Lại c̣n những món nhiều tiền
Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu
thơm...
Chợ G̣ Chàm c̣n có riêng một khu
chuyên bán súc vật, quen gọi là
chợ Ḅ. Tuy đặt tên như vậy
nhưng người ta đem bán đủ loại
gia súc: từ trâu, ḅ, heo, dê,
cừu đến gà vịt, ngỗng, chim chóc...
và có cả thú rừng mới vừa săn
bắt hay đă thuần hóa; cứ đến chợ
G̣ Chàm, nhất là phiên chợ tết
là có ngay. Một đặc điểm nữa,
phiên chợ tết có bán gà thiến,
cho thịt thơm ngon mềm và béo,
dùng vào việc làm lễ vật rất
thông dụng. Dân trong vùng có
tục lệ "mồng một tết cha, mồng
ba tết thầy" Nào là chàng rể lễ
tết cha mẹ vợ, tân gia đi tết
thầy địa và thợ cả dựng nhà,
tang gia lễ tết thầy liệm, thầy
cúng, vơ sinh lễ tết sư phụ, học
tṛ lễ tết thầy cô giáo... rầm
rộ thành phong trào lễ tết hàng
năm.
Trong hai phiên chợ tết G̣ Chàm,
phiên 23 lớn hơn và vui hơn v́
ngày tết tương đối c̣n xa, đủ
thời gian kịp mua kịp bán. Nhiều
thương nhân từ các tỉnh khác chở
hàng hóa đến bán:
Xem ra chẳng thiếu hàng nào
Quảng Nam, Quảng Ngăi cũng vào
cũng vô ...
Có cả những lái buôn từ miền núi
chở lâm sản xuống và mua sỉ hàng
hóa, thực phẩm ở đồng bằng đem
về xứ bán lại kiếm lời:
Buôn mọi bán rợ
Mấy chú An Khê
Ở trển đem về
Xấp trần nài rể
Phiên chợ 23 c̣n một điểm thuận
tiện nữa, vừa lúc các trường thi
xong kỳ đệ nhất lục cá nguyệt,
chuẩn bị liên hoan, chia tay về
nghỉ tết. Những năm cuối thập
niên 60 và đầu thập niên 70, ở
thị trấn B́nh Định có ba trường
trung học đệ nhị cấp: một công
lập, một bán công và một tư thục,
có thêm môt trường tiểu học; các
thầy cô và học sinh đều rảnh rỗi,
họ rủ nhau dạo chợ đêm, mua vài
món hàng đặc sản đem về xứ làm
quà tết, cả nhân viên của các
ngành của quận An Nhơn cũng tham
gia. Nhờ thế, chợ tết càng đông
đúc khách dạo chen chúc với kẻ
bán người mua, suốt đêm dập d́u
tấp nập, vui không xiết kể.
Phiên chợ 28, cận ngày tết quá,
nhất là những năm gặp phải tháng
thiếu (chỉ có 29 ngày) nên vắng
khách phương xa nhưng bù lại
phiên cuối năm đặc biệt có thêm
chợ hoa:
Đường cát Dương An
Đĩa bàn nội phủ
Thêm đủ hàng hoa...
Người ta đến xem hoa, mua hoa,
nơi hội ngộ của nghệ nhân trong
vùng và tao nhân mặc khách. Ở
đây có đủ loại hoa kiểng, từ
những cội mai núi h́nh thù kỳ dị
đến những cành mai vườn đầy ắp
nụ. Chỉ cần mua vài chậu hoa lạ
đem về tô điểm cho giàn cây
kiểng (2) sẵn có là thấy cảnh
nhà hực hở lên rồi.
Sau phiên chợ 28, hầu như trong
tỉnh không c̣n phiên chợ nào
đáng kể nữa, dân chúng cũng cần
ở nhà lo làm cỗ cúng rước ông bà
và chuẩn bị đón giao thừa.
(internet)
Lễ
Hội Tây Sơn
Lễ hội long trọng và qui
mô lớn nhất của B́nh Định là
lễ hội Tây Sơn được tổ
chức tại nhiều làng của huyện
B́nh Khê cũ, nay đổi tên là
huyện Tây Sơn. Đông đảo và tưng
bừng nhất là
lễ hội tổ chức tại làng
Kiên Mỹ, quê hương và cũng là
nơi dấy binh của ba anh em nhà
Tây Sơn.
Lễ hội diễn ra trong
nhiều ngày, mồng 5 tháng Giêng (kỷ
niệm chiến thắng Đống Đa) là
ngày
lễ chính. Trước sân điện
thờ và nhà bảo tàng Tây Sơn,
tiếng trống đại vang lên trong
không khí trang nghiêm thơm ngát
mùi trầm; vị chánh tế đọc bài
văn tế ôn lại sự nghiệp của
phong trào Tây Sơn và những
thành tựu của triều đại Tây Sơn
(1770-1802),
các đoàn đại biểu đến từ nhiều
miền của đất
nước dâng hương trước
điện thờ. Dàn nhạc vơ 12 trống
vang lên từ khúc thúc quân đến
khúc khải hoàn.
Từ vùng đất này đă ra đời một
phái vơ làm rạng danh truyền
thống vơ nghệ Việt Nam từ nhiều
thế kỷ nay : phái vơ Tây Sơn.
Hàng năm phái vơ này sống lại
rạng rỡ trong lễ hội Tây Sơn, và
hàng trăm ngàn người hành hương
về đây để được nghe lại âm hưởng
của khúc nhạc trống trận, được
chiêm ngưỡng những thế vơ, bài
quyền bất hủ, nào là long quyền,
hổ quyền, kê quyền, quyền gà
chọi... gắn liền với tên tuổi
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ là những
vơ sĩ đă góp phần cách tân, nâng
cao vơ thuật Tây Sơn ở các môn
côn, quyền, song kiếm, đại đao...
Vơ thuật Tây
Sơn cũng đă thăng hoa thành nghệ
thuật âm nhạc. Đó là điệu
múa-nhạc trống vơ Tây Sơn mà
mười mấy năm nay, những người dự
lễ hội Tây Sơn tại B́nh Định
được thưởng thức qua tài nghệ
của một thiếu nữ - cháu bảy đời
của ḍng tộc Nguyễn Huệ - mặc áo
chẽn đỏ (hay trắng), quần màu
hồng nhạt, lưng thắt đai xanh,
hai tay múa cặp dùi lướt chớp
nhoáng trên cả 12 mặt của bộ
trống trận Tây Sơn, với một
phong thái làm chủ oai phong vô
cùng điệu nghệ, lại được tiếng
kèn và nhịp chập chơa phụ họa,
tạo nên một ấn tượng hùng tráng
tuyệt vời.
Nguồn: Saigontoserco