| 
				Lễ Hội Quảng B́nh 
				HỘI BƠI TRẢI 
				
								 Hội 
								bơi trải: Hội bơi trải truyền thống phổ biến 
								khắp các làng vùng sông nước để kĩ niệm những sự 
								kiện lịch sử có liên quan đến làng và các vị 
								thần thánh có công với làng. Lễ hội vừa mang màu 
								sắc tâm linh: lễ tế thần và cầu siêu cho vong 
								hồn người tử nạn trên sông nước, vừa là ngày hội 
								vui chơi (ḥ khoan, chèo cạn, múa bông....) dịp 
								để dân làng thi tài vật lộn với sông nước và 
								thao diễn kĩ thuật nghề sông nước, mang tinh 
								thần thượng vơ.  
								Hội bơi chải đă thành tập tục, một nhu cầu không 
								thể thiếu được trong đời sống văn hóa - tinh 
								thần của nhân dân ta, đặc biệt là bà con ngư dân 
								sinh sống dọc theo vùng sông nước trong dịp hội 
								hè hay các ngày lễ, tết. 
				
								Ở Quảng B́nh, hội bơi trải thường được tổ chức ở 
								những nơi gần biển, gần sông như làng Cảnh Dương. 
								Nhân dân Cảnh Dương thường tổ chức hội bơi trải 
								vào tháng khởi đầu của vụ cá Nam (tháng 4, tháng 
								5 Âm lịch). Tham gia cuộc bơi thi có 4 thuyền (4 
								trải), mang 4 màu cờ và khăn áo khác nhau: xanh, 
								đỏ, tím, vàng. Mỗi thuyền có từ 8 đến 12 tay cầm, 
								2 người chèo lái, một người đánh nhịp, một người 
								tát nước, một người chạy thẻ. Mở đầu cuộc thi là 
								cuộc chạy thẻ tiếp sức từ sân Đ́nh Lớn xuống bến 
								sông - nơi có thuyền đậu. Trải nào nhận được thẻ 
								trước th́ xuất bến trước. Hội thi bơi của làng 
								Cảnh Dương diễn ra trong một ngày, đường bơi cả 
								đi lẫn về chừng 2 km, dọc sông Ṛn, gần cửa lạch 
								ngược lên. Buổi sáng bơi một 1 ṿng, buổi chiều 
								bơi 4 ṿng, điểm tính chung cho cả cuộc bơi. 
								Người làng cho rằng: thuyền nào dành được giải 
								nhất th́ năm ấy chủ thuyền và bạn, lái làm ăn 
								phát đạt. Hội thi bơi thu hút hàng ngàn người 
								đến xem. Người xem đứng hai bên bờ sông, vẫy tay, 
								khoát nón, reo ḥ cổ vũ cho hội nhà. (internet)  
				LỄ HỘI CẦU MÙA BẢO NINH 
				
								 Lễ 
								hội Cầu mùa Bảo Ninh: Đây là lễ hội tiêu biểu 
								của người dân vùng ven biển Quảng B́nh. Lễ hội 
								diễn ra từ ngày 14 đến 16 tháng 4 Âm lịch hàng 
								năm tại làng biển Bảo Ninh - TP Đồng Hới.  
								Đ́nh làng Bảo Ninh thờ Nhân thần (Hai cha con 
								người đánh cá) và Cá Ông (cá Voi đă cứu dân làng 
								khỏi bị đắm thuyền trong các trận băo). Lễ hội 
								Cầu mùa Bảo Ninh có hai phần: Phần lễ mở đầu có 
								tục rước cốt Ông từ làng về đ́nh, có diễn “ḥ 
								khoan, chèo cạn, múa bông”. Tiếp theo là ngày 
								hội xuống biển, làm lễ cầu khấn của một làng 
								nghề đánh cá với những ước mơ về một vụ mùa bội 
								thu. (internet) 
				HỘI ĐUA THUYỀN 
				
								 Hội 
								đua thuyền: Con thuyền gắn bó với sinh hoạt, đời 
								sống, phong tục, lễ hội của người Việt Nam từ cổ 
								xưa đến nay. Văn hoá vùng sông, biển với những 
								tục lệ lâu đời đă thành phong tục đặc sắc là vốn 
								quư trong kho tàng văn hoá dân gian bản địa cổ 
								truyền. Mỗi vùng miền, hội đua thuyền đều có 
								những đặc trưng khác nhau.  
				
								Lễ hội đua thuyền ở sông Kiến Giang (Lệ Thuỷ - 
								Quảng B́nh) lại mang nét đặc sắc khác. Tương 
								truyền, vùng chiêm trũng Lệ Thủy ngày xưa thường 
								cầu mưa ’’lấy nước để uống, lấy ruộng để cày’’. 
								Mùa hạn, dân làng cúng lễ và ’’hô huầy’’ đẩy 
								thuyền xuống sông. Lâu dần tục lệ đă biến thành 
								ngày hội chung của cả huyện. Các làng xă thi 
								nhau việc chuẩn bị thuyền tốt, trai bơi tài, 
								người lái giỏi. Nếu chưa có thuyền dài gấp rưỡi 
								nấc ngang, phải t́m gỗ tốt, mời thợ đóng mới sao 
								cho thuyền thon nhẹ và lướt nhanh. Cùng với việc 
								tuyển chọn tay chầm, tiến hành bơi thử, t́m bạn 
								bơi thử nhằm kiểm tra sức dẻo dai với tốc độ cao 
								trên con đường ba ṿng sáu tao. Đường bơi trong 
								các cuộc đua thường trên dưới 20 km tùy theo 
								giải xă hay huyện. Tuyến độc nhất thường chọn từ 
								trước đến nay là thượng tiêu cầu Trạm (Mỹ Thủy) 
								qua chợ Thùi - Phú Thọ (An Thủy) và hạ tiêu mũi 
								Viết Thượng Phong (thị trấn Kiến Giang) cũng là 
								điểm buông phao.  
				
								Hàng năm cứ vào ngày Quốc khánh 2-9, hội đua 
								thuyền truyền thống lại diễn ra sôi nổi và hào 
								hứng trên sông Kiến Giang với sự tham gia của 
								nhiều xă trong huyện. Nhân dân xem đó là Tết độc 
								lập v́ sau "toóc nạp rơm khô" cả thời gian và 
								đời sống đều no đủ. Từ đó hội đua thuyền đông 
								vui náo nhiệt hơn kéo dài đến cả tháng mới đủ 
								cho công việc tập dượt, tranh giải thôn xă và 
								toàn huyện. Nhân dân náo nức chuẩn bị dụng cụ 
								cho hội, ’’khuấy động’’ một vùng sông nước Kiến 
								Giang. Khách thập phương đổ về huyện lỵ, trong 
								Nam ra, ngoài Bắc vào, cả những xă miền núi "cơm 
								đùm gạo bới’’ ngủ lại qua đêm chờ xem bơi ngày 
								tới. Có năm số đơn vị tham gia lên tới 36 thuyền 
								nam nữ khiến ban tổ chức phải t́m mọi cách mới 
								đảm bảo chương tŕnh.  
								Hội đua thuyền trở thành nét đẹp văn hóa thể 
								thao truyền thống từ ngàn xưa đáng trân trọng, 
								giữ ǵn và phát triển 
				LỄ HỘI ĐẬP TRỐNG THÁNG GIÊNG 
				
								 Tộc 
								người Ma Coong và lễ hội đập trống rằm tháng 
								Giêng: Sau Tết Nguyên đán của người Kinh, thường 
								đến đêm trăng trong 16 tháng Giêng âm lịch là 
								tộc người Ma Coong có Lễ hội đập trống. Đây là 
								lễ hội vô cùng độc đáo của tộc ít người ở phía 
								Tây Quảng B́nh cho đến nay c̣n giữ nguyên được 
								giá trị nguyên bản, nguyên sơ thu hút nhiều 
								khách du lịch tham quan trong và ngoài nước khi 
								về Quảng B́nh trúng dịp được tham dự.  
				
								Tộc người Ma Coong ở rải rác nhiều nơi của phía 
								Tây Quảng B́nh nhưng mật độ tập trung đông nhất 
								là vùng huyện Bố Trạch nên lễ hội thường được tổ 
								chức ở tại bản Cà Rọng xă Thượng Trạch. Đây là 
								lễ hội mà theo các nhà nghiên cứu văn hoá cho 
								biết, một lễ hội giàu tính bản địa với ư nghĩa 
								sâu sắc là sự cầu may, cầu sức mạnh, cầu vượt 
								qua tai hoạ, cầu sự phù hộ chung của Trời - Đất 
								cho người dân tộc ở khắp mọi nơi. 
				
								Cùng với biết bao lễ hội từ Bắc vào Nam, miền 
								ngược cũng như miền xuôi ở nước ta th́ Lễ hội 
								đập trống của tộc người Ma Coong tại nơi đây có 
								sự độc đáo của nét văn hoá đậm đà bản sắc dân 
								tộc nhất. Dù trong điều kiện núi rừng hoang sơ 
								cách trở, lại trải qua sự khác biệt của nhiều 
								cuộc chiến tranh và những điều kiện khó khăn, 
								khắc nghiệt khác nhưng cho đến nay người Ma 
								Coong họ vẫn bảo tồn, lưu giữ được giá trị di 
								sản văn hoá phi vật thể vô cùng qúy báu này.  
								Các già bản vẫn thường kể lại cho con cháu rằng: 
								Ngày xửa, ngày xưa ở bản Cà Rọng này dân sống 
								rất khổ, đàn ông vấn đăi ngày ngày vào rừng săn 
								bắn, đàn bà trùm mấn, ngực để trần ngày ngày lên 
								rẫy phơi sương, phơi gió vô cùng vất vưởng. 
								Quanh năm làm lụng tất bật nhưng không đủ trái 
								ngô, củ sắn để được no bữa. V́ đói kém, con 
								người, con vật tranh giành nhau mỗi khi vụ mùa 
								sắp thu hoạch. Nguy hại nhất là nhiều đàn khỉ 
								đông đến hàng ngh́n con kéo từ bốn phía núi cao 
								tới hoành hành. Trong mỗi đàn khỉ có một con 
								hung dữ, không chỉ đến cướp hoa trái mà c̣n doạ 
								bắt phụ nữ, trẻ em khi lên rẫy một ḿnh. Nỗi lo 
								sợ ấy luôn ám ảnh họ mà chưa có cách nào để đuổi 
								được đàn khỉ quái ác ấy đi. Một hôm có một vị 
								Già bản mang gùi lên rẫy đi hái củi đốt th́ trời 
								kéo mây đen sập xuống thấp. Bỗng có một tia chớp 
								rạch trời sáng loà rồi tiếng sấm bất th́nh ĺnh 
								đ́ đùng nổ ran dây chuyền inh tai, váng óc. Khi 
								nghe tiếng sấm, cả lũ khỉ đều hoảng sợ rầm rầm 
								xô nhau lúc nhúc chạy vào hang làn gần đó ẩn nấp 
								không dám ló mặt ra. Mấy con khỉ to v́ quấn dây 
								chằng chịt vào người để dắt trái cây quá nặng mà 
								phải chạy chậm ́ ạch liền bị tiếng sét đánh chết 
								ngay phía cửa hang, xác cháy đen thui đen thủi. 
								Kể từ đó lũ khỉ rất sợ mỗi khi tiếng sấm dậy 
								trời. Vậy là Già bản nghĩ ra được cách làm tiếng 
								sấm để hù doạ lũ khỉ mỗi khi chúng kéo đàn tràn 
								xuống phá rẫy. Đó là dùng da con nai bịt vào một 
								khúc cây gỗ rỗng ruột rồi dùng que gỗ đánh lên 
								mặt da phát ra tiếng đùng đùng như sấm. Và từ đó 
								mỗi khi trống đánh lên th́ lũ khỉ cũng khiếp hồn 
								bỏ rẫy chạy trốn. Nhờ Già bản sáng tạo ra chiếc 
								trống sấm ấy mà từ đó năm nào rẫy nương cũng 
								được bảo toàn, cây trái của rừng cũng thu hoạch 
								tốt, bản luôn được mùa no đủ và cuộc sống được 
								ấm êm hơn.  
				
								Để nhớ công lao vị Già bản tiên tổ người Ma 
								Coong và cầu cho quanh bốn mùa làm ăn thuận lợi, 
								hàng năm cứ đến ngày 16 tháng Giêng âm lịch, họ 
								tổ chức việc cúng tế linh đ́nh dâng lên Thần 
								linh những của ngon vật lạ sinh lợi được trên 
								vùng đất họ ở. Hoạt động ấy dần dần thành một lễ 
								hội lớn của dân tộc người Ma Coong ở đây.  
				
								Lễ thức của Lễ hội đập trống diễn ra theo những 
								quy định của dân bản rất nghiêm ngặt và chặt chẽ. 
								Bản trao quyền cho người Già bản già nhất tức là 
								người t́m ra miền đất đang ở (trước đây người 
								dân tộc này di trú 3 năm 1 lần do vị Già bản đi 
								t́m đất đẹp và yên ổn, thuận lợi). Trước khi lễ, 
								mỗi tộc họ được phân công chuẩn bị một mâm cỗ, 
								đồ lễ trong mâm gồm các thứ được quy định:  
								 
								- Thực vật gồm: Gạo nếp, bắp chuối rừng, đọt cây 
								mây, đọt cây đoác.  
								- Động vật gồm: Con gà trống, cá đánh nơi Suối 
								cấm.  
								- Đồ uống gồm: Rượu Hiêng (tinh rượu gạo nếp).
								 
								 
								Trống lễ được chuẩn bị như sau: Tang trống được 
								đẵn ra từ cây ’’Chi Cúp’’. Đây là cây có gỗ tốt, 
								nhiều xơ nhặng, mưa nắng không mục, không nứt vỡ, 
								ruột rỗng và sống nhiều năm tuổi ở rừng. Mặt 
								trống được bịt bằng da con nai săn bắn về. Nay 
								hiếm nai nên bịt bằng da trâu rừng. Đa trâu rừng 
								được căng phơi cẩn thận và khi khô th́ cuộn chặt 
								cất trên gác để luôn giữ được khô ráo.  
				
								Cách bịt trống: Tang trống được dùng dao sắc gọt 
								phẳng hai đầu, bọc da vào đầy hai mặt rồi lấy 
								dây mây ràng kín và dùng hàng trăm chiếc nêm tre 
								kéo rán, nêm chặt sao cho mặt căng là đạt yêu 
								câu. Khi trống căng ra cả hai đầu đứng xa trông 
								như một quả cầu gai thật to lớn. Dùng dùi mây 
								xoong dài 3 gang gọt nhẵn gơ lên, trống phát ra 
								một thứ âm thanh vang dội thật kỳ lạ. Âm thanh 
								ấy chính là tiếng nói, là hiện thân của vị Thần 
								linh nghiệm, thần kỳ của người Ma Coong không bị 
								thế lực hung dữ như mưa băo, núi lở, đất sập 
								khuất phục được. Theo tục lệ quy định th́ trống 
								chỉ được ghép trước một ngày trước khi lễ hội. 
								Làm trống phải chọn những người già làng giàu 
								kinh nghiệm và các chàng trai khoẻ mạnh, làm ăn 
								may mắn trong năm. Cũng theo tục lệ quy định, cá 
								suối để cúng Thần phải được đánh lưới về ở con 
								Suối cấm. Suối cấm mỗi năm chỉ được đánh một lần 
								và chỉ có Già làng mới được mang lưới xuống suối 
								đánh. Có như thế mới giữ được tinh sạch khi cúng 
								lễ và khi cúng Thần mới trưng dùng.  
				
								Cách hành lễ được tổ chức như sau: Tối 16 vào 
								lúc trăng vàng vừa chênh chếch ở phía Đông là 
								tính giờ bắt đầu lễ. Già bản vào làm chủ lễ. Chủ 
								lễ mặc váy áo màu đen có những hoạ tiết sặc sỡ, 
								đầu đội tóc dài xoả xuống vai, phủ xuống tận eo 
								lưng. Người đến lễ ăn mặc đẹp, kiểu phục trang 
								truyền thống dân tộc có gắn cúc bạc, cổ đeo ṿng 
								kiềng, tay nhiều ṿng bạc lấp lánh khi chuyển 
								động. Tất cả cùng xếp hàng quay mặt vào bàn lễ 
								trang nghiêm. Bàn lễ có năm mâm cỗ bày sẵn, 
								tượng trưng Ma Coong có năm nhánh họ chính. Chủ 
								lễ khấn lễ và làm phép đọc lời cầu khấn kéo dài 
								nửa canh giờ. Khi xong lễ, chủ lễ cầm dùi mây 
								tiến lại phía đặt trống đánh một hồi dài vang 
								lên chuyền rền khắp núi. Sau đó lần lượt đại 
								diện năm ḍng họ chính lên đánh trống rồi tiếp 
								tục là con cháu, gái trai, già trẻ... mỗi người 
								cầm một dùi trống chuẩn bị sẵn chen nhau vào 
								đánh lên mặt trống. Ai đến đánh trống cũng kêu 
								lên một câu ’’ Rao lữ Giàng ơi’’ (sướng quá trời 
								ơi) hoà với tiếng trống gơ inh tai, váng óc. Mọi 
								người theo nhau đánh trống cho đến khi trống 
								thủng mới thôi và lửa bếp cũng bắt đầu tàn, trả 
								lại cho rừng bóng đêm trùm xuống. Đây cũng là 
								điều kiện cho các đôi trai gái, các đôi bạn t́nh 
								được dịp t́m gặp nhau bằng những tín hiệu thiêng 
								liêng của con tim. Theo tục lệ người nào t́m 
								được bạn th́ năm mới làm ăn gặp được may mắn.  
				
								Cho đến khi từ bốn phía gà rừng gáy ran họ lại 
								chia tay nhau, không vướng bịu, không buồn nản, 
								không lời từ biệt, ai về bản nấy. Mỗi người cứ 
								vậy theo cuộc sống riêng của gia đ́nh làm nương, 
								phát rẫy với niềm hy vọng của sự may mắn mà lễ 
								hội thiêng liêng mang lại cho họ và chờ đợi lễ 
								hội năm sau. (internet)  
				
				LỄ HỘI ĐỀN THỜ PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG 
				
								 Lễ 
								hội đền thờ Phù Đổng Thiên Vương: Lèn Vịnh là 
								tên gọi từ xa xưa một ḥn núi ở xă Quảng Tiên, 
								huyện Quảng Trạch. Từ thuở khai thiên lập địa, 
								Lèn Vịnh mọc lên giữa làng Tiên Lệ như một tấm 
								b́nh phong lớn cao sừng sững. Những khi mây 
								xuống thấp tưởng như chạm đến đỉnh trời. Nơi đó 
								trở thành chốn thâm nghiêm và đầy sự uy linh. 
								Hàng năm cứ vào dịp sau giỗ Tổ Vua Hùng 10-3 một 
								tháng, đúng ngày 8-4 th́ nhân dân làng Tiên Lệ 
								lại cùng nhau tổ chức lễ hội đền Phù Đổng Thiên 
								Vương.  
				
								Người làng Tiên Lệ kể lại rằng: Trước đây rất 
								lâu người Tiên Lệ đời sống rất khổ cực. Cảnh mất 
								mùa đói kém luôn luôn xảy ra. Quanh năm chỉ lấy 
								nghề rừng rú làm nguồn chính cho cuộc sống. 
								Từ người già đến trẻ con ngày ngày lên rừng hái 
								các loại trái cây như thị, mít nài, hạt muồng, 
								hạt sót, hạt dẻ... chạy về Trung Thôn, Biểu Lệ 
								bán buôn ở phiên chợ Sải hoặc xuống tận Minh Lệ 
								dự phiên chợ Mới, xa hơn th́ phiên chợ Ba Đồn 
								rồi mua gạo mua khoai đem về cho gia đ́nh đắp 
								đổi qua ngày. Không hiểu nhờ trời phật phù hộ 
								thế nào mà liên tiếp mấy năm tự nhiên làng Tiên 
								Lệ được mùa to, trồng trọt cây ǵ cũng cho thu 
								hoạch khá, từ đó đời sống hết cảnh hắt hiu.  
								Một cụ già cao niên nhất trong làng nhân một 
								buổi hội đ́nh, cụ đem chuyện giấc mơ cụ gặp được 
								con Thần, con Thánh về hộ sức cho làng kể lại để 
								mọi người nghe. Cụ kể rằng: Vị Thần về giúp làng 
								đầu đội mũ kim ô ngồi trên con ngựa sắt, tay cầm 
								roi sắt rượt đuổi bọn giặc lân bang từ phương 
								Nam đến quậy phá. Sau khi đuổi được giặc chạy xa 
								rồi th́ vị Thần quay về trên đường đi ngang qua 
								vùng Tiên Lệ thấy cảnh đẹp sinh t́nh nên đă ghé 
								lại cùng binh sĩ nghỉ sức một đêm. Khi biết dân 
								Tiên Lệ c̣n nhiều khổ cực, vị thần xin Nhà Trời 
								ở lại dạy dân cày cấy, trồng trọt. Một thời gian 
								sau khi mọi công việc cấy hái người dân đă được 
								thuần thục th́ một ḿnh Thần cưỡi lên ḿnh ngựa 
								bỏ lại binh lính rồi bay ra phía bắc đến đậu 
								xuống vùng Nghĩa Lĩnh. Nhưng Thần cũng ở đấy chỉ 
								một thời gian rồi lại bay tít lên trời không 
								quay trở lại.  
				
								Sau khi nghe ông cụ kể lại giấc mơ đẹp, vị Tiên 
								chỉ làng liền bàn với chức sắc trong làng một kế 
								hoạch rồi cử một đoàn đinh tráng hai mươi người 
								khoẻ mạnh khuân theo gạo, nếp, lợn, ḅ trồng 
								nuôi trên đất Tiên Lệ đi bộ gần một tháng ra tận 
								Đền Hùng xin làm lễ tế. Sau lại đến đền thờ 
								Thánh Gióng tổ chức lễ tạ ơn và xin đất, xin lập 
								lư hương rước về làng thờ. Chỉ một thời gian rất 
								ngắn huy động người có công, người có của, làng 
								xây lên ngay giữa Lèn Vịnh một ngôi đền to đẹp 
								nhất vùng và rất trang nghiêm. Đền xây xong làng 
								tổ chức hội đền kéo dài ba ngày đêm đèn đuốc 
								thắp sáng trưng cả một góc núi. Người mọi vùng 
								nườm nượp kéo về cầu yên, cầu bổn mạng. Nh́n bức 
								phong chính giữa đền tạc h́nh Phù Đổng Thiên 
								Vương ngồi trên ngựa sắt tay cầm roi sắt hai bên 
								có hai vị tướng hộ tống ngước mắt nh́n Thần bay 
								lên trời làm cho người người đến đây đều tỏ ḷng 
								kính cẩn.  
				
								Từ đó cứ hàng năm đến ngày tế lễ dân hai giáp: 
								Giáp Đông và Giáp Đoài được chức sắc làng phân 
								công trực tiếp làm cỗ cúng thi. Các loại xôi, 
								các loại bánh phải lấy hạt gạo, hạt nếp tự làm 
								ra trên đồng làng mà chế biến mâm cỗ cúng. Để có 
								các loại xôi bánh tốt, khi mùa lúa chín sắp gặt 
								làng bắt những thanh niên ra ruộng chọn những 
								bông tốt nhiều hạt chắc lảy đem về cột chùm phơi 
								riêng rồi cất lên sàn nhà cả bồng chẹn. Khi nào 
								sắp lễ mới đem bồng chẹn xuống đạp ra lấy hạt 
								lúa xay giă thành gạo. Khi thành gạo rồi, làng 
								tuyển các cô gái giỏi giang một lần nữa chọn ra 
								những hạt gạo cật, trắng nguyên vẹn không vỡ mới 
								đem đồ xôi. Sau khi nếp ngâm vớt ra rồi, cách 
								hông cũng rất công kỹ. Khi hông xôi phải trải 
								qua ba bước, bước một hông hạt nếp đều hơi th́ 
								đổ ra nong quây mỏng cho nguội, khi hết hơi th́ 
								cho đổ vào hông lần hai lại làm như lần một, rồi 
								lại hông tiếp lần ba xôi mới đạt yêu cầu. Khi 
								xôi được rồi th́ một nửa cho đơm vào mâm, c̣n 
								một nửa bỏ vào cối giă, đầu chày giă phải bọc 
								bằng lụa mo cau. Cứ một lần giă có ba thanh niên 
								cầm chày nện nhíp ba, đến khi nào mệt th́ thay 
								kíp. Khi nếp đă nhuyễn thành bánh rồi th́ thôi 
								giă, lấy tiếp một người khoẻ dùng tay vắt cả nhả 
								bánh đă nhuyễn ném mạnh vào ḷng cối, ném cho 
								đến khi nào bánh không dính cối mới đạt yêu cầu. 
								Bánh đạt yêu cầu phải có ba tiêu chuẩn trắng, 
								dẻo, mượt. Đó là nh́n bằng mắt c̣n sau khi cúng 
								xong bưng mâm bánh xuống đem ra cho các chức sắc 
								chứng giám bằng cách một người cầm con dao thật 
								bén cắt đôi chiếc bánh ra. Mâm giáp nào mặt bánh 
								ĺ không có những lỗ hơi rỗng phía trong mới là 
								thắng cuộc và giáp đó được nhận phần thưởng của 
								làng. Có những năm, tháng tư trời đại hạn, lúa 
								đồng khô kiệt nước, cây cối rũ héo, th́ lễ tế 
								đền thờ Phù Đổng Thiên Vương c̣n kết hợp với lễ 
								cầu đảo để cầu mưa xuống. Lễ thường kéo dài ba 
								bốn ngày. Nhiều năm cứ sau lễ cầu đảo là trời đổ 
								mưa xuống ầm ầm thể hiện sự linh nghiệm, làm cho 
								dân làng vui sướng và lại càng tin vào sự thiêng 
								liêng của đền thờ.  
				
								Ngày trước, Tiên Lệ thượng xă nhập bảy xă lại 
								gọi là Lệ Trạch. Đó là: Quảng Trung, Quảng Tân, 
								Quảng Sơn, Quảng Thuỷ, Quảng Minh, Quảng Hoà. 
								Việc cúng lễ hàng năm thường là hai giáp Đông, 
								Đoài Tiên Lệ và ba mươi sáu phường ở vùng Tuyên 
								Hoá đảm trách.  
				
								Đền thờ Phù Đổng Thiên Vương Lèn Vịnh là một di 
								tích hiếm thấy ở Quảng B́nh. Việc ngày trước các 
								hương quan làng Tiên Lệ ra tận đền thờ Thánh 
								Gióng làm lễ tạ và xin đất lập lư hương cho đền 
								thờ làng là chứng tỏ cộng đồng dân cư nơi đây có 
								mối quan hệ với các bộ tộc người Việt từ rất sớm. 
								Cách thức hông xôi và cách thức làm bánh dày 
								cúng lễ cũng mang dấu tích các món ẩm thực quen 
								thuộc của người Việt lâu đời. Giấc mơ của lăo 
								làng với những chi tiết thánh thần dạy dân trồng 
								trọt cũng là điều chứng tỏ người dân nơi đây đă 
								biết sớm gieo trồng lúa nước. H́nh ảnh vị Thần 
								cưỡi ngựa sắt, tay cầm roi sắt cũng chứng tỏ 
								phương thức canh tác của người Tiên Lệ đă từ rất 
								sớm hoà nhập với cộng đồng người Việt cổ để được 
								phát triển cùng tiến tŕnh lịch sử chung cả nước. 
								Dù sống gần núi nhưng là nhóm người tiếp cận sớm 
								với văn minh phù hợp với nhận định chung: 
								’’Người Việt Quảng B́nh chiếm khoảng 98% dân số 
								toàn tỉnh. Họ sinh sống trên hầu khắp các địa 
								bàn của tỉnh, từ đồng bằng ven sông biển đến 
								vùng g̣ đồi trung du. Từ vùng thị xă, thị trấn 
								đến các vùng núi cao... Dân cư các làng xă Quảng 
								B́nh có nguồn từ nhiều địa phương khác nhau ở 
								phía Bắc di cư đến lập nghiệp. Các lớp dân cư 
								của làng cũng diễn ra hết sức phức tạp trong 
								suốt chiều dài lịch sử dân tộc, kể từ nửa thế kỷ 
								XI cho đến nửa đầu thế kỷ XIX".  
				
								Mỗi vùng quê Quảng B́nh đều có lễ hội của vùng 
								quê ḿnh mà lễ hội đền Phù Đổng Thiên Vương ở 
								Lèn Vịnh Tiên Lệ từ lâu nay chưa hề được nhắc 
								tới trong sách vở nào đang cần sự quan tâm của 
								các nhà nghiên cứu trong và ngoài tỉnh.  
				
								Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước 
								đây, Lèn Vịnh là nơi vùng Việt Minh và du kích 
								hoạt động, nơi bảo toàn lực lượng kháng chiến. 
								Giặc Pháp đă bao phen tổ chức những trận càn 
								quét và về đóng đồn Tiên Lệ để phong toả vùng du 
								kích cũng như để ngăn lực lượng Việt Minh tràn 
								về. Nhưng rồi chúng buộc phải rút lui sớm v́ 
								luôn bị lực lượng kháng chiến từ Lèn Vịnh đêm 
								ngày quấy rối và đốt cháy đồn.  
				
								Đền Thờ Phù Đổng Thiên Vương nơi Lèn Vịnh từ đó 
								bị hư hại và đến nay không c̣n vẹn nguyên, chỉ 
								lưu lại các khuôn nền cũng như các bậc cấp lên 
								xuống đền mà thôi. Những bậc cao niên của làng 
								Tiên Lệ khi nhắc đến đền thờ Phù Đổng Thiên 
								Vương thường tấm tắc và vô cùng nuối tiếc một di 
								tích lịch sử văn hoá hiếm của quê làng chỉ c̣n 
								trong chuyện kể. (internet)  
				LỄ HỘI CẦU MÙA 
				
								 Lễ 
								hội cầu mùa của người dân ven biển xă Nhân 
								Trạch: Đây là lễ hội dân gian truyền thống tồn 
								tại từ lâu đời thể hiện giá trị văn hóa tín 
								ngưỡng vô cùng độc đáo của ngư dân miền ven biển 
								Quảng B́nh. Lễ hội cầu mùa phản ánh đời sống văn 
								hoá tinh thần phong phú và những tín ngưỡng mang 
								màu sắc huyền bí trên sông nước được tổ chức 
								hàng năm nhằm cầu cho mưa thuận gió ḥa, trời 
								yên biển lặng, được mùa tôm cá cho những chuyến 
								biển b́nh yên, cầu cho cuộc sống người dân no đủ 
								và quốc thái dân an.  
				
								Trong không khí trang nghiêm của Lễ và sự náo 
								nhiệt nô nức của ngày hội cầu mùa, giá trị văn 
								hoá cổ truyền dân tộc càng được tôn vinh, nét 
								đẹp truyền thống ở làng biển Nhân Trạch được lưu 
								giữ. Lễ hội cầu mùa của ngư dân xă Nhân Trạch 
								gồm có các hoạt động chính như: múa hoa đăng, 
								múa quạt, múa chèo cạn, bơi trải và tổ chức cho 
								các ḍng họ tế lễ.  
				
								Biển b́nh yên, ḷng người b́nh yên, lễ hội cầu 
								mùa như động lực tăng thêm t́nh yêu quê hương, 
								yêu lao động của bà con ngư dân. Lễ hội cầu mùa 
								là nét chấm phá độc đáo mang tính nhân văn cao 
								đẹp, đă lưu giữ trong đời sống văn hoá tâm linh 
								của người dân làng nghề sông nước. (internet) 
				HỘI LÀNG CHÀI TRÊN SÔNG GIANH 
				
								 Hội 
								làng chài trên sông Gianh: Trên lưu vực phía nam 
								cửa lạch sông Gianh, có một làng vạn chài mà đại 
								đa số vốn gốc từ các làng Xuân Hồi, huyện Lệ 
								Thủy và vùng “Hạ Vực Tṛn chí Rọn Giang, hói mẹ 
								hói con vọng ư địa phận”, di cư đến.  
				
								Họ đến đây cùng với con cháu trên những chiếc 
								thuyền câu vừa là phương tiện hành nghề sinh 
								sống, vừa là nhà ở cho gia đ́nh.  
				
								Những chiếc “nhà thuyền” tuy bé nhỏ, nhưng cũng 
								đủ:  
				
								“Đủ tranh đủ tre  
								Chỉ thiếu hai hè  
								Đủ giường đủ chiếu  
								Chỉ thiếu màn the  
								Đủ dè đủ gót  
								Đủ thung đủ che  
								Đủ bàn thờ, chiếu trải  
								Chỉ thiếu sậy gụ tủ chè...”  
								 
								Những vạn chài du canh du cư này tuy phân tán 
								rất rộng nhưng hội tụ cũng rất nhanh. Sự phân 
								tán hay hội tụ của họ tùy theo lịch tŕnh con 
								nước, tùy theo từng nghề nghiệp một ở từng khúc 
								sông, khúc hói nào đó, cũng tùy theo thời tiết 
								mùa vụ. Bời lẽ, mỗi loại cá chực ăn mồi vào một 
								lúc nào đó nhất định trong khoảnh khắc trăng, 
								nước nào đó, mùa hè khác với mùa đông, tháng này 
								ngày nước triều lên xuống khác với tháng trước 
								v.v... Cho nên thời gian nhàn rỗi để gặp nhau 
								không nhất định được. Sự hội tụ hay phân tán của 
								người vạn chài cũng c̣n tùy thuộc mỗi “lối sống” 
								của mỗi loại cá.  
				
								Và, người vạn chài làm nghề theo đuôi con cá 
								trên sông hói không đủ sức để sắm nhiều thứ chài 
								lưới cho mọi thức cá để cùng nhau hàng loạt câu 
								kéo, cùng nhau hàng loạt vại chài, để rồi cùng 
								nhau nghỉ ngơi một lúc, hội làng với nhau một 
								lục. Mỗi người một cảnh: người nghỉ, kẻ làm. Khi 
								tụ, khi tán là vậy.  
				
								Người làm nghề câu, nhất là nghề câu cần, là 
								nghề khó kiếm ăn nhất, nghèo cực nhất, mặc dầu 
								nghề này cần rất ít vốn, chỉ vài cái cần câu, 
								vài cái ống câu, một số lưỡi câu tự tạo thế là 
								đủ vốn xuất nghề. Nhưng không dễ ǵ câu được 
								nhiều cá, nên đời sống rất khó khăn.  
				
								Trong khi đó, với nghề câu vàn, c̣n gọi là nghề 
								bủa câu th́ vàn câu càng dài, móc được nhiều 
								lưỡi câu một lúc và nhiều con cá cắn mồi cùng 
								một lúc, hoặc như kéo lưới cũng vậy, lưới càng 
								dài, càng rộng th́ vây được diện rộng nhiều loại, 
								nhiều con, nhiều loại cá sẽ bị mắc lưới một lúc. 
								Nghề chài cũng vậy, chỉ cần nắm được luồng cá 
								bất kỳ, ăn ở đâu, nhử mồi cho chúng tập trung, 
								rồi bất th́nh ĺnh tung chài ra chụp...  
								 
								Riêng với nghề câu cần th́ phải có cách “mời cá” 
								ăn mồi, phải có cách “gợi thèm” cho cá cắn câu 
								và khó nhất khi cá đă cắn câu rồi mà không “cao 
								tay nghề” cũng mất mồi không được ǵ. Nó đ̣i hỏi 
								người câu phải tùy mỗi “đối tượng” mà lựa chọn 
								con mồi, v́ một thứ cá có sở thích khác nhau, 
								đến cả thời tiết cũng thay đổi “khẩu vị”.  
				
								Cho nên, người làm nghề câu cần luôn luôn làm ăn 
								“riêng lẻ”, không thể cụm lại để cùng làm cùng 
								hưởng được.  
				
								Chúng ta thấy, mỗi thuyền câu, h́nh như họ sống 
								độc lập, “mỗi người một phương trời, một con 
								thuyền, một mái chèo, một cần câu, một bếp lửa” 
								bập bùng đó đây khắp vùng sông nước... Thế nhưng, 
								đôi khi, trên những băi vắng cồn hoang, có hàng 
								chục, có khi năm ba chục chiếc “nhà thuyền” tụ 
								họp thành xóm làng, một thứ làng xóm thầm lặng, 
								yên ấm không như các cuộc họp làng trên đất, 
								luôn rầm rộ, ồn ào tiếng trống, tiếng đánh mơ, 
								tiếng người kêu kẻ gọi, tiếng người đi kẻ chạy... 
								Làng chài tự phân, rồi tự nhập...  
				
								Ngày xưa, khi chưa có đất định cư, cuộc sống 
								người vạn chài ở phía bờ nam cửa lạch sông Gianh 
								c̣n “lênh đênh mạn thuyền” nhưng không v́ thế mà 
								quên gốc rễ của cha ông, nên cứ đến ngày giỗ tổ 
								khai canh làng Xuân Hồi vào dịp đầu năm, tất cả 
								mọi người đều trở về làng, viếng thăm mồ mả; 
								thắp hương cầu nguyện tổ tiên, nộp tiền công quỹ 
								gia tộc, rồi lại mỗi người một phương trời...  
				
								Rơ ràng, con chim kia bay măi cũng trở về rừng 
								về cội, con cá nọ bơi hoài cũng về nguồn về vịnh! 
								Cho nên người Quảng B́nh trước đây, mỗi khi xa 
								nhà, xa quê, làm ăn nơi xứ lạ đất người, hễ nh́n 
								gặp những chiếc thuyền câu trên sông hói, đều 
								thấy buồn, chạnh nhớ đến quê hương xứ sở? Đêm 
								đêm, những ngọn lửa thuyền chài lại gợi nên 
								những kỷ niệm cũ nơi chôn rau cắt rốn, nơi cội 
								nguồn gốc rễ...  
				
								Từ những ngọn lửa thuyền chài, người xa quê c̣n 
								liên tưởng đến ngọn lửa lập ḷe trên băi biển 
								sau những trận băo vừa hạ cơn sóng, ngọn lửa của 
								những người thân đi t́m người bị nạn, đốt lên 
								đây đó, vừa để sưởi đêm lạnh vừa làm tín hiệu 
								cho ai đó, may ra c̣n ngất ngưởng, trôi nổi giữa 
								trùng dương, biết bờ biết băi mà cố gắng hướng 
								về...  
				
								Cho đến khi người vạn chài trên sông Gianh được 
								cá voi; vua ban sắc phong thần cá là “Nam Hải 
								Thượng Đẳng Thần” và được ban cấp phần đất hoàng 
								sa bạch thổ của làng Bồ Khê làm nơi định cư, xây 
								đền thờ cá voi, người vạn chài phía nam cửa lạch 
								sông Gianh mới h́nh thành ra làng xóm, gọi là 
								“ấp Thanh Hà” (nay thuộc xă Thanh Trạch) 
				
								Từ đó, người vạn chài nơi đây mới chấm dứt cuộc 
								đời trôi nổi trên sông nước, tránh được t́nh 
								trạng “sinh nhai ư giang thượng, thác táng ư 
								giang tâm” (làm ăn sinh sống trên mặt sông, chết 
								chôn vào ḷng sông).  
				
								Sở dĩ có thành ngữ buồn thảm này là do thuở xưa 
								ấy, người vạn chài là dân du canh du cư, trú ngụ 
								rày đây mai đó trên khắp sông nước, làng xóm của 
								họ khi tụ khi tán, không có một nơi định cư cơ 
								bản.  
				
								Mặc dầu có láng xóm thôn ấp mới rồi, nhưng theo 
								lệ tục của làng gốc cũ cứ rằm tháng Giêng, vạn 
								chài bờ nam cửa lạch Sông Gianh vẫn “họp làng” 
								như ở làng chính cũ Xuân Hồi, thu gom tiền đóng 
								góp, vào quỹ gia tộc đem về Xuân Hồi, để tỏ rằng, 
								người vạn chài này không bao giờ quên gốc rễ, 
								đinh ninh một dạ “ly hương bất ly tổ” (xa làng 
								mà không rời họ).  
				
								Cuộc hội làng này c̣n bàn đến lễ cúng rằm tháng 
								Ba tới mà người vạn chài ở đây xem như ngày rằm 
								tháng 7 xá tội vong nhân.  
				
								Khác với các làng nông nghiệp, ngày rằm tháng 4 
								chỉ cúng hoa, quả chè xôi, nghĩa là cúng chay 
								theo phép nhà Phật, không sát sinh mà c̣n phải 
								phóng sinh, ngày rằm tháng 3 người vạn chài Sông 
								Gianh gốc Xuân Hồi lại cúng cả heo, cả xôi, cả 
								cá, phối hợp với cả hoa quả, bánh kẹo.  
								 
								Đến ngày ấy, tất cả thuyền chài của mọi “hộ nhà 
								thuyền” cùng với thuyền câu biển, đều tập hợp 
								lại, kết thành một mảng bè bằng thuyền khổng lồ, 
								neo đậu giữa ḍng sông trước cửa lạch, trên lát 
								ván làm mặt bằng để đặt hương án, bàn thờ cúng 
								tế và cũng để làm nơi hội họp giống như ở chốn 
								“đ́nh trung”.  
				
								Trong thời gian như vậy, những “hộ thuyền” dùng 
								mui thuyền làm lán trại tạm sống trên băi sông, 
								họp lại cũng như một “xóm chài”, một xóm ấp của 
								làng mạc trong vùng. Đó là tiền thân của làng 
								“Thanh Hà”, trước khi được cá voi, trước khi Vua 
								cấp đất, một làng chài vừa có nhà cửa xóm thôn 
								trên “cát vàng đất trắng” (hoàng sa bạch thổ) 
								vừa có “vạn chài” (nhà thuyền) trên ḍng Sông 
								Gianh (phía bờ nam).  
				
								Cái đáng ngạc nhiên mà cái cũng b́nh thường nhất 
								là trong nội dung “ngôi đ́nh thuyền nổi” giữa 
								cửa lạch Sông Gianh này cũng có đủ cờ, đủ quạt, 
								đủ tàn, đủ lọng, đủ chuông, đủ trống, đủ áo mũ 
								cân đai cho các vị chủ tế, bài tế, cùng đủ văn, 
								đủ sớ, đủ lễ, đủ nhạc, chẳng khác ǵ các lễ hội, 
								các buổi Xuân Thủ Kỳ Yên của các láng xóm trên 
								đất liền.  
				
								Lệ làng vạn chài Thanh Hà quy định: Hội làng 
								tháng 3 cúng tế trong hai đêm một ngày.  
				
								Đêm đầu và nửa ngày hôm sau là lễ giỗ tổ khai 
								canh được tôn thờ làm thần Thành Hoàng bổn thổ. 
								Chiều ngày đó chuẩn bị vào lễ đám chay tế cô hồn 
								và suốt đêm là lễ siêu độ cô hồn do các bậc tu 
								hành trong các chùa ở Bồ Khê xă được rước mời. 
								Lễ siêu độ, chủ yếu là trong kinh Phật để cầu 
								hồn, sau đó làm lễ phóng sinh, phóng đăng (thả 
								chim, cá, thả đèn)  
				
								Cái đẹp và cái riêng biệt của hội làng này là 
								chỉ người của vạn chài tham dự và buổi lễ tổ 
								chức ngay giữa ḍng sông, không có người trên 
								đất liền đến nhập hội, nhưng lại rất đông thuyền 
								bè của các làng vạn chài trên lưu vực sông Gianh 
								tham dự, cho nên, nó gần như một buổi họp thuyền 
								cả lưu vực sông Gianh!  
				
								Người các làng vạn chài cũng như người vạn chài 
								Xuân Hồi đến “hội làng” như vậy là đến để cầu 
								nguyện, để cúng lạy. Cái khác biệt của hội làng 
								trên sông Gianh là chỗ này. Lễ mà không có hội, 
								chứ không phải như các lễ hội khác. Thế nhưng, 
								người ta vẫn đặt cho nó một cái tên là “Hội Làng”, 
								với nghĩa thực của nó là “họp làng” nhưng là họp 
								với tính chất vui vẻ, tự nguyện chứ không phải 
								những cuộc họp làng theo ư nghĩa hành chánh.  
				
								Cứ tưởng tượng, giữa một vùng trời biển mênh 
								mông, đêm đen đầy sao, sông Gianh bát ngát, bốn 
								bề yên lặng, có một cụm thuyền với bao nhiêu đèn 
								đuốc đủ màu sắc, với tiếng chiêng, tiếng mơ, 
								tiếng kèn, tiếng trống, đồng vọng, ngân vang, 
								ḥa tan vào không trung sông nước, sẽ gợi lên 
								cho con người biết bao suy ngẫm...  
				
								Và từ giữa ḍng sông, trên mặt biển bao la, 
								những chiếc đèn phóng đăng bập bềnh nhấp nhô le 
								lói, như những con đom đóm trong bầu trời, càng 
								làm cho những người chung quanh hiện đang ngắm 
								cảnh, không khỏi nhớ đến những linh hồn người 
								“tử nạn” từ ngoài cơi trùng dương qua các trận 
								băo bất ngờ…  
				
								Xót t́nh đồng nghiệp “sinh ư giang thượng, thác 
								táng ư giang tâm”, người đi dự hội làng trên 
								Sông Gianh không cầu mong sự vui chơi hội hè mà 
								chỉ mong gửi chút ḷng ḿnh vào những lời cầu 
								nguyện, vào những “cây đèn, cây hương, tờ vàng 
								mă” trôi nổi trên ḍng nước đi ra biển Đông vô 
								tận...  
				
								Và cũng v́ vậy mà t́nh quê, t́nh bà con họ tộc 
								làng xóm cứ vương vấn, đeo đẳng lấy tâm hồn con 
								người, qua âm thanh của tiếng chuông, tiếng mơ 
								trong khoảng vắng đêm trường mà họ gặp khắp nơi 
								trong cuộc sống đó đây! (internet) 
				LỄ HỘI RẰM THÁNG GIÊNG  
				
								 Lễ 
								hội rằm tháng giêng ở phường Hải Đ́nh: Rằm tháng 
								giêng âm lịch c̣n gọi là Tết Nguyên Tiêu, là một 
								trong những lễ hôị đầu xuân mang đậm bản sắc văn 
								hóa truyền thống của người Việt.Vào dịp này, 
								nhiều địa phương trong tỉnh đă tổ chức một số 
								hoạt động mang ư nghĩa văn hóa tinh thần sôi nổi 
								và phong phú.  
				
								Tại phường Hải Đ́nh, thành phố Đồng Hới, lễ dâng 
								hương nhân dịp Tết Nguyên Tiêu để cầu an một năm 
								mới tốt lành, mong mưa thuận gió ḥa, làm ăn 
								phát đạt, cùng nhau đoàn kết xây dựng đời sống 
								văn hóa mới đă được tổ chức vào tối  28.2.2010 
								(ngày rằm tháng giêng).Từ chập tối, các cụ ông, 
								cụ bà và con cháu cùng hàng trăm cư dân sinh 
								sống tại địa bàn đă tề tựu đông đủ tại nhà 
								truyền thống của thành phố - cây đa chùa Ông, 
								chốn linh thiêng nhất của người dân Đồng Hới, 
								một chứng tích c̣n lại sau chiến tranh để dự lễ. 
								Các đồng chí lănh đạo, các phường bạn cùng đến 
								thắp hương, dự lễ với người dân địa phương. Nét 
								mới của lễ hội rằm tháng giêng năm nay của 
								phường Hải Đ́nh, ngoài phần lễ tâm linh trang 
								trọng c̣n có phần hội với các hoạt động múa lân, 
								đàn và hát dân ca với sự tham gia biểu diễn của 
								chi hội người cao tuổi, hội phụ nữ, đoàn thanh 
								niên và các tổ chức đoàn thể trong phường. Đây 
								là hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc có 
								từ làng Đồng Đ́nh-Đồng Hải trước đây. Đây cũng 
								chính là nét đẹp văn hóa cần được giữ ǵn của 
								người dân địa phương. (internet)  
  
				LỄ CẦU NGƯ 
				
				 Lễ 
				Cầu ngư của bà con ngư dân phường Hải Thành: Lễ Cầu ngư được bắt 
				đầu với nghi thức Lễ bạt Sơn Thủy, Lễ đội cầu tại Nghĩa trang 
				Hải Thành và trên sông Nhật Lệ để rước vong linh những anh hùng 
				liệt sỹ, những người chết trên biển do phong ba, băo táp... cùng 
				về dự lễ. Tiếp đó, các đội múa bông, chèo cạn của địa phương đă 
				thực hiện nghi thức tế thần và cầu mong trời yên biển lặng, mưa 
				thuận gió ḥa, mùa màng bội thu. Tối cùng ngày, bà con đă tiến 
				hành thả đèn hoa đăng trên sông Nhật Lệ.  
				Lễ Cầu ngư là lễ hội văn hóa truyền thống có từ lâu đời của bà 
				con ngư dân phường Hải Thành nói riêng, các địa phương vùng biển 
				nói chung. Lễ Cầu ngư thể hiện sự tôn vinh nghề nghiệp cũng như 
				khát vọng b́nh yên trong lao động sản xuất và đời sống của bà 
				con ngư dân. (internet) 
				
				
				LỄ 
				HỘI ĐẬP TRỐNG CỦA NGƯỜI MA COONG
				 Đập 
				Trống là một lễ hội lớn của người Ma Coong mỗi năm được tổ chức 
				một lần vào ngày 16 tháng giêng âm lịch. Theo các nhà dân tộc 
				học th́ người Ma Coong chọn địa bàn cư trú là Tây Quảng B́nh và 
				để đón chào mùa trăng tṛn đầu tiên trong năm họ phải tổ chức 
				một lễ hội thật tưng bừng. 
				Địa điểm tổ chức lễ hội là bản Cà Rọng, xă 
				Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, ngay từ sáng ngày 16 người dân từ 
				các bản gần xa đă lũ lượt kéo đến thậm chí từ các bản làng người 
				Ma Coong bên kia biên giới Việt - Lào cũng đến chung vui. Thanh 
				niên trai trẻ sẽ cùng nhau dựng lên một cái sạp tre làm nơi đặt 
				mâm cổ cúng lễ. Những người phụ nữ Ma Coong nhận nhiệm vụ tổ 
				chức mâm cỗ cúng Giàng, cỗ phải có đủ gà, rượu cần, cá, xôi nếp, 
				ngọn cây mây và khúc thân cây đoác. Theo thông lệ của làng th́ 
				cá phải được đánh bắt từ khúc suối cấm Aky. Vào khoảng tháng 5 
				dân bản ngăn con suối Aky từ bản Rào Bụt đến bản Nồm và được 
				quản lư nghiêm ngặt nếu ai vào đó đánh cá th́ bị phạt rất nặng, 
				khúc suối này chỉ được đánh bắt cá tự do sau khi lễ hội đập 
				trống diễn ra.  
				Chiếc trống hội sẽ được các già làng thay da 
				bịt mặt trống, đó là những tấm da trâu thật đẹp được phơi trên 
				gác bếp từ trước đó. Người Ma Coong không bịt trống như người 
				dưới xuôi để mặt trống căng phẳng. Họ dùng sợi roi mây rừng xâu 
				chéo với nhau, rồi lấy những nêm tre nêm chặt lại, kéo cho mặt 
				trống có h́nh như quả cầu gai....  
				Đến khi trời tối, trống sẽ được treo lên và 
				lễ hội sẽ bắt đầu. Già làng bản Cà Rọng sẽ đốt những que sáp 
				ong cháy sáng và khấn mời Giàng về ăn cỗ, phù hộ cho người Ma 
				Coong được mùa, được cái ăn, sinh sôi như cây trên rừng, dẻo dai 
				như suối trước bản.  
				Sau khi khấn xong th́ tuyên bố hội đập trống 
				bắt đầu, dân bản sẽ ùa vào tranh dùi đập trống. Người đánh trống 
				cứ đánh, người chờ đến lượt ḿnh th́ đi quanh đống lửa múa, hát, 
				ḷng ṿng đến bên hũ rượu rồi sà xuống vít cần. Lễ hội kéo dài 
				cho đến khi trống hội được đánh vỡ toan trước khi trời sáng v́ 
				người Ma Coong quan niệm rằng năm nào khi trời sáng mà mặt trống 
				chưa vỡ th́ coi như năm đó sẽ mất mùa đói kém. Ngược lại trống 
				đánh vang to và nứt vỡ sớm hoa màu sẽ được mùa, gái trai sẽ dắt 
				tay nhau vào rừng ḥ hẹn. Những "người của ngày xưa" chưa đến 
				được với nhau th́ sẽ t́m nhau. Những người đang yêu nhau đợi lễ 
				hội này để đốt cháy t́nh yêu...  
				Hàng năm lễ hội đều diễn ra như thế với một 
				không khí tươi vui náo nức, người dân Ma Coong từ khắp đều quần 
				tụ về đón chào một mùa xuân mới đầy an lành, hạnh phúc. 
				
				TR̉ CHƠI CƯỚP CÙ 
				
								 Cướp 
								cù: Ở trên vùng đất hai huyện cũng như nhiều 
								vùng thuộc đôi bờ sông Gianh, c̣n lưu lại nhiều 
								môn thể thao dân tộc, đồng thời cũng là những 
								tṛ chơi trong ngày tết và các lễ hội, tiêu biểu 
								là môn cướp cù.  
				
								Không biết xuất hiện từ bao giờ, nhưng cướp cù 
								thường diễn ra vào sáng mồng 3 tết hàng năm. Sân 
								cù là một đám đất đă nhổ sạch mạ trước mặt đ́nh 
								làng. Chiều dài của sân khoảng 80 mét, chiều 
								rộng khoảng 50 mét. Ở hai phía cuối sân trồng 
								hai cây tre cao to c̣n để lại vài cành lá lơ thơ, 
								trên ngọn cây tre có buộc một dải vải điều để 
								làm rơ mục tiêu ném cù. Cù thường là quả bưởi. 
								Mục tiêu ném cù là lỗ rọ thường đan bằng tre có 
								đường kính gấp đôi đường kính quả cù. 
				
								Trai chơi cù là những người khỏe mạnh, nhanh 
								nhẹn và tháo vát. Thông thường mỗi phe chơi có 
								số lượng từ 20 đến 30 mươi chàng trai dũng cảm.  
				
								Ngày xưa, cứ mỗi dịp đầu năm, các vị kỳ hào, 
								hương lư tề tựu đông đủ để tế thần linh, cùng 
								mong muốn quả cù góp vui cùng dân làng trong 
								ngày tết, mong muốn dân làng có cuộc sống b́nh 
								yên và thịnh đạt. Sau phần nghi lễ, hai người 
								cầm lọng hai bên bê ra sân đặt lên mâm cù năm 
								quả có phủ vải điều. Các đối thủ hai đội xếp 
								hàng dọc đối mặt với nhau. Sau loạt đại cổ, tiểu 
								cổ, vị trọng tài cầm một quả cù bước tới khai 
								mạc trận đấu trước sự chuẩn bị sẵn sàng của hai 
								đội. Tiếp đến, cùng với tiếng chiêng khua, tiếng 
								dục rộn ràng, lệnh lung cù được khởi phát. Đấu 
								thủ hai bên thi tài tranh nhau ném quả cù vào rọ. 
								Cuộc chơi tiếp diễn và lặp lại từng đợt cho đến 
								khi hết thời gian thi đấu (thường là một giờ cho 
								hai hiệp chơi).  
				
								Người xem đứng chật ních cả bốn phía sân không 
								ngớt reo ḥ cổ vũ, át cả tiếng chiêng, tiếng 
								trống, mũ nón tung lên nhấp nhô như sóng lượn. 
								Già trẻ gái trai như bị quả cù thu hút, chạy 
								theo hướng quả cù lao đi vun vút như muốn tiếp 
								sức cho đội nhà được thắng cuộc để cùng hưởng 
								một năm tốt lành phát đạt.  
				
								Cuối cùng, ban tổ chức tính số lần quả cù lọt rọ 
								của mỗi bên để phân định thắng thua. Bên thắng 
								trận sẽ được một bữa liên hoan no say. Hồi ấy 
								các làng thường tặng cho đội thắng của ḿnh một 
								con lợn béo trên 50 kg. Tṛ chơi nào chả là tṛ 
								chơi nhưng điều đáng quư ở môn cướp cù là tinh 
								thần hữu nghị, thân ái diễn ra trong suốt quá 
								tŕnh thi đấu.  
				
								Có lẽ đây là một môn thể thao mà quân lính ngày 
								xưa đă sử dụng để rèn luyện. Theo "Phủ biên tạp 
								lục’’ của Lê Quư Đôn th́: ’’Trong một đợt hành 
								chinh vào phía Nam, vua Lê Thánh Tông đă dừng 
								chân ở tổng An Lai (thuộc xă Xuân Thủy, Lệ Thủy 
								ngày nay), nhà vua cho dựng chùa phật ngồi, có 
								người gọi là phật mọc ở làng Quảng Cư. Tại đây 
								và cồn vật làng Phan Xá, trong quá tŕnh tập 
								luyện, quân lính đă thường xuyên chơi môn cướp 
								cù. (internet)  
				  
				 |